Có thể nói rằng sự khởi sắc của truyện ngắn
Việt Nam đương đại không chỉ là ở sự hiện diện của các cây bút trình làng những
tác phẩm đầu tiên của mình từ sau Đổi mới mà trước hết có lẽ là sự lột xác của
chính những cây bút gạo cội đã được bạn đọc biết đến từ lâu trên văn đàn. Bởi
vậy, nhắc đến đội ngũ người viết truyện ngắn đương đại không thể không nhắc đến
các gương mặt quen thuộc xuất hiện từ lâu như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Khải, Nguyễn Dậu, Vũ Bão, Nguyễn Kiên, Mai Ngữ, Đỗ Chu, Dương Duy Ngữ,
Phạm Hoa, Xuân Thiều... Nét nổi bật đáng ghi nhận của các nhà văn gạo cội này
là họ đã thực sự có ý thức đổi mới ngòi bút của mình để bắt kịp với những biến
chuyển của thời cuộc.
|
Nhà văn Nguyễn Minh Châu |
Nguyễn
Minh Châu sau khi viết Lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa đã cho
ra đời những truyện ngắn đột phá, mở đầu cho một kiểu tư duy mới về hiện thực
và con người, như các truyện Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Cỏ lau, Phiên chợ Giát. Với Bức tranh, Nguyễn Minh Châu đã chính thức mở màn
cho kiểu nhân vật “tự thú, sám hối” của văn học đổi mới; còn với Phiên chợ Giát
người đọc đã thấy những dấu hiệu của cảm quan hậu hiện đại trong việc thể hiện
thân phận của con người qua nhân vật lão Khúng.
Ma
Văn Kháng cũng gây ấn tượng cho người đọc khi cho ra đời các tập truyện Ngày
đẹp trời, Trăng soi sân nhỏ và sau đó là Một mối tình si. Một mối tình si tiếp
tục ghi nhận những nỗ lực tìm tòi của Ma Văn Kháng khi dấn thân vào mảng đề tài
thế sự, khai thác những va đập của của nền kinh tế thị trường với sự thống trị
đầy quyền lực của đồng tiền. Ngoài ra tác giả còn thâm nhập vào một miền đất
mới khi đi sâu khám phá bản năng phồn thực của con người, đặc biệt là chú ý
miêu tả vẻ đẹp cơ thể người phụ nữ gắn với bản năng tính dục của họ, đem lại sự
mềm mại, hấp dẫn cho những trang viết.
Sau
nhiều tiểu thuyết có tiếng vang, Nguyễn Khải tiếp tục ghi dấu những thành công
của mình ở thể loại truyện ngắn với giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm
1998 cho Tập truyện ngắn và tạp văn. Truyện ngắn của Nguyễn Khải chủ yếu đề cập
đến những chuyện thường ngày và những trăn trở trong chuyện nghề, chuyện đời.
Sức lôi cuốn của truyện ngắn Nguyễn Khải là những phát hiện sắc sảo, tính luận
đề, tính triết luận cộng với sự lôi cuốn của giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh mà có
duyên.
Xuân
Thiều cũng là một cây bút quân đội đã có khá nhiều truyện ngắn viết về đề tài
chiến tranh. Những truyện ngắn của ông viết trong vòng hơn một thập niên sau
chiến tranh (in trong tập Xin đừng gõ cửa) đã quan tâm và đề cập đến những vấn
đề về số phận con người trong và sau chiến tranh với một cái nhìn đổi mới.
Những lưu lạc, sự hờ hững vô trách nhiệm, lòng tham, sự hèn kém, sự hãnh tiến
hay nỗi cô đơn của con người được nhà văn thể hiện bằng sự trải nghiệm và bản
lĩnh của một người lính đã từng đi qua những năm dài chiến tranh. Chất trữ tình
tươi mát cộng với những tinh tế trong việc thể hiện tâm lý là mặt mạnh trong
ngòi bút Xuân Thiều đã tạo sức cuốn hút cho tác phẩm của ông.
Nguyễn
Kiên sau hàng loạt những truyện ngắn chuyên tâm về đề tài nông thôn đã cho ra
đời tập truyện Những mảnh vỡ ghi nhận những đổi mới của nhà văn khi quan tâm
đến những vấn đề thế sự. Với tập truyện ngắn này, người đọc thấy một Nguyễn
Kiên vẫn phát huy sở trường ở bút pháp hướng nội, ở chất từng trải, hiểu lẽ
đời, đã pha thêm chất tươi mới, dạt dào cảm xúc và ngồn ngộn chất sống của cuộc
sống đương đại.
Đỗ
Chu với Một loài chim trên sóng lại thêm một lần nữa làm mới ngòi bút của mình
để thích ứng với sự đổi mới của hiện thực và tâm lý của công chúng bạn đọc,
nhưng vẫn cố gắng giữ cái “tạng” của mình. Với Một loài chim trên sóng người
đọc thấy một Đỗ Chu vẫn đầy chất trữ tình và một niềm tin chất chứa vào tình
yêu con người song cũng đầy chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ đời, về thân phận con
người trước những đổi thay của thời cuộc.
Vũ
Bão ra mắt bạn đọc với tập Truyện chọn lọc tập hợp những truyện ngắn viết trong
thời kỳ đổi mới. Với sự kết hợp tư duy sắc sảo nhanh nhạy của một nhà báo và sự
mẫn cảm, tinh tế của một nhà văn, truyện của Vũ Bão vẫn tiếp tục chinh phục bạn
đọc ở giọng điệu giễu nhại, tự trào của lối văn trào lộng với tiếng cười nhân
bản, hồn hậu, ở khả năng sử dụng đắc địa ngôn ngữ dân dã, đời thường và cách kể
chuyện hóm hỉnh, có duyên.
Với
Chuyện như đùa, Mai Ngữ - một nhà văn đã từng nhiều năm khoác áo lính và viết
về chiến tranh cũng đã chuyển kênh sang một vùng đề tài mới, phản ánh kịp thời
những đổi thay của thời cuộc. Các tình huống bi hài của cuộc sống được ông chú
ý khai thác trên khía cạnh nhân văn khiến người đọc vừa cười một cách dí dỏm
vừa phải suy nghĩ một cách nghiêm túc. Cách kể chuyện ngắn gọn với lượng thông
tin cao là nét mới của ngòi bút Mai Ngữ so với những truyện viết về chiến tranh
trước đây.
Các
gương mặt truyện ngắn của thế hệ tiếp theo xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu của
văn học đổi mới đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của độc giả bởi những
đột phá trong bút pháp. Đó là Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Phạm Ngọc
Tiến, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Ngô Tự Lập, Sương
Nguyệt Minh, Phan Triều Hải... Truyện ngắn của các cây bút này là tiếng nói của
một thế hệ nhà văn đã thật sự có những chuyển hướng trong tư duy với những khám
phá mới về hiện thực và con người.
Nguyễn
Huy Thiệp xuất hiện đã lập tức tạo nên một “hiện tượng”. Nhà văn của miền sơn
cước và nông thôn đã thu hút một lượng lớn độc giả và cùng với nó là một “trào
lưu” phê bình về các tác phẩm của ông. Lời đánh giá sau đây của nhà văn Nguyên
Ngọc sẽ cho bạn đọc thấy một cách đầy đủ những đóng góp của truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp vào nền văn học Việt Nam đương đại: “Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trong
trào lưu văn học đổi mới của Việt Nam, là một hiện tượng tiêu biểu nhất của
trào lưu đó. Tuy nhiên trong khi văn học đổi mới đang hăng hái làm công việc
phơi bày, tố cáo những hiện tượng xã hội phức tạp thì Nguyễn Huy Thiệp không
lao vào dòng chảy chung đó.
Anh
đi theo một con đường khác: rất sớm, từ nhiều góc độ khác nhau, đa dạng, lắm
lúc khiến ta kinh ngạc, khi trực tiếp, khi qua nhiều khúc xạ phong phú, khi
quyết liệt dữ dằn, thậm chí trắng trợn, khi đằm thắm giàu chất thơ, anh cố lần
ngược lên cho đến ngọn nguồn của những hiện tượng xã hội ấy, gợi ra những căn
nguyên tiềm ẩn lâu dài... Anh đưa văn học hiện đại Việt Nam đến một bước chuyển
rất quan trọng: một nền văn học có ý thức mạnh mẽ làm chức năng là tấm gương tự
soi mình của dân tộc, và của con người”.
Sau
Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh cũng là cây bút gây được sự chú ý trong dư luận
khi trình làng hai truyện ngắn nổi tiếng Bước qua lời nguyền và Xưa kia chị đẹp
nhất làng. Với tập Bước qua lời nguyền, Tạ Duy Anh đã “báo hiệu một tấm lòng
lớn, một tầm nhìn xa”. Truyện của anh, dù viết dưới góc nhìn nào, cũng đều thể
hiện sự trăn trở của nhà văn về số phận con người: số phận của người nông dân
dưới áp lực của những thù hận, những u tối của cơ tầng văn hóa cổ hủ lạc hậu,
bi kịch của con người do chiến tranh hay do hậu quả của căn bệnh hình thức,
quan liêu, bệnh thành tích, giả dối... Với giọng văn da diết, nhức nhối và cách
khai thác hiện thực từ chiều sâu nhân bản, truyện của Tạ Duy Anh là “tín hiệu
của một dòng văn học mới, dòng văn học bước qua lời nguyền” (Hoàng Ngọc Hiến).
Là
cây bút đến nay đã cho ra đời 6 tập truyện ngắn với nhiều giải thưởng, Sương
Nguyệt Minh đã định hình được một phong cách riêng ổn định nhưng cũng không
ngừng đổi mới. Từ những truyện ngắn như Người ở bến sông Châu, Đi qua đồng
chiều đến các tập Mười ba bến nước, Chợ tình, đặc biệt gần đây là Dị hương, nhà
văn đã “viết khác mình”: “Trước nay, cái tên Sương Nguyệt Minh thường gắn liền
với những câu chuyện viết về đề tài chiến tranh và nông thôn bằng ngòi bút dữ
dội vẫn lung linh, trữ tình nên việc ra đời những truyện ngắn ma mị và nhiều
tính dục với bút pháp huyền ảo và giả tưởng trong tập Dị hương khiến nhiều
người đọc lạ lẫm bất ngờ” (Di Li).
Phạm
Ngọc Tiến cũng là một trong những cây bút truyện ngắn có nhiều năm khoác áo
lính. Tập truyện ngắn Họ đã trở thành đàn ông của anh được tặng giải B của Hội
Nhà văn Việt Nam (1994) đề cập đến nhiều mảnh đời và số phận khác nhau (kể cả
số phận của người lính trong và sau chiến tranh). Truyện của Phạm Ngọc Tiến
không chỉ cuốn hút bạn đọc ở tính nhân văn thấm đẫm mà còn ở sự kết hợp nhiều
phương thức thể hiện: quá khứ đan xen hiện tại, hiện thực xen lẫn huyền thoại
với âm hưởng vừa phê phán, vừa ngợi ca.
|
Nhà văn Hồ Anh Thái |
Xuất
hiện muộn hơn một chút nhưng cái tên Hồ Anh Thái lập tức gây được sự chú ý trên
văn đàn khi các tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày và Bốn lối vào nhà cười ra mắt
bạn đọc. Đối tượng trong sáng tác của Hồ Anh Thái là cuộc sống thời mở cửa với
những vấn đề của giới trí thức, sinh viên, công chức nhà nước, của giới trẻ. Sự
xuống cấp trong nhân cách, lối sống, đạo lý, văn hóa của họ phần nào phản ánh
sự xuống cấp của xã hội đương đại nhiều phức tạp và bất ổn. Tất cả những hệ lụy
đó được nhà văn phô diễn trong một chất giọng khách quan, lạnh lùng, đậm chất
trào phúng hài hước. Vốn tri thức phong phú cùng nghệ thuật kể chuyện và dẫn
chuyện sinh động cũng là những mặt mạnh trong bút pháp trần thuật tạo nên sức
hấp dẫn trong tác phẩm của Hồ Anh Thái.
Tiếp
bước thế hệ của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái là một loạt gương mặt cá tính ở
thế hệ 7x, 8x như Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích
Thúy, Phong Điệp, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Vũ Đình Giang, Phan Việt,
Cấn Vân Khánh, Keng, Nguyễn Quỳnh Trang, Từ Nữ Triệu Vương, Nguyễn Thị Cẩm...
và một số gương mặt mới toanh xuất hiện trong các tác phẩm gần đây, mỗi người
một dáng vẻ, một giọng điệu. Đây thực sự là những gương mặt mà ngay ở những tác
phẩm đầu tay đã tạo được ấn tượng bởi những lạ lẫm trong khám phá hiện thực,
bởi những táo bạo trong cách phơi trải tâm hồn, với cách viết đầy ngẫu hứng
luôn có sự kết hợp giữa tài năng thiên bẩm và vốn tri thức văn hóa mới
mẻ.
Thế
hệ này được sống trong một môi trường văn hóa có nhiều ưu thế hơn hẳn so với
các thế hệ đàn anh, với sự giao lưu văn hóa toàn cầu và sự bùng nổ của công
nghệ thông tin. Điều đáng ghi nhận ở thế hệ này là ý thức vươn tới những thể
nghiệm mới mẻ, lạ hóa cách viết truyền thống. Nhu cầu “viết khác đi” dường như
là nhu cầu chung của thế hệ này, cho dù những thể nghiệm đó có thể thành công
hay thất bại để rồi cuối cùng họ không còn tái xuất hoặc sẽ vững vàng hơn trên
văn đàn. Tác phẩm của lớp nhà văn này, dù đề cập đến vấn đề gì (cuộc sống chật
chội trong những căn phòng ở đô thị hay bản năng gốc của con người) thì cuối
cùng vẫn là để cho người đọc thấy rằng họ “đang sống với thời hiện tại và hình
như trong vô thức đã mang trách nhiệm nói hộ những câu chuyện riêng tư của thế
hệ mình”.
Nói
đến đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn đương đại, không thể không nhắc đến đội
ngũ nhà văn nữ vừa đông đảo về số lượng vừa đa dạng về tiềm năng xuất hiện từ
sau Đổi mới. Đó là những gương mặt tạo nên bản sắc nữ, ghi một dấu ấn đậm nét
trên văn đàn và tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi với những “thương hiệu” từ
lâu đã đi vào lòng công chúng như Đoàn Lê, Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Trần Thùy
Mai, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Võ Thị
Xuân Hà, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Lý Lan… và gần đây là Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc
Tư, Phong Điệp, Di Li, Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thị Cẩm, Từ Nữ Triệu Vương,
Cấn Vân Khánh, Niê Thanh Mai...
Nhận
diện về sự xuất hiện của những cây bút văn xuôi nữ thời kỳ đổi mới, lời giới
thiệu tuyển tập Truyện ngắn của 50 tác giả nữ đã cho rằng “Sự tăng lên đến mức
đột biến của các cây bút văn xuôi nữ đã làm cho những ai quan tâm đến văn
chương Việt Nam đương đại không khỏi ngạc nhiên và thích thú”. Sự xuất hiện
đông đảo của các cây bút nữ không chỉ đem lại cho văn chương cái Mới lẫn cái Lạ
mà còn là sự khẳng định ý thức nữ quyền khi người đàn bà không còn chỉ quẩn
quanh nơi xó bếp mà đã hướng đến những khung trời rộng lớn. Hành trình viết văn
của họ cũng là hành trình thể hiện bản lĩnh của người cầm bút khi dám chấp nhận
sự sáng tạo đơn độc và trả giá cho những niềm tin riêng của mình về cái Đẹp.
Là
những cây bút nữ, nên điều các nhà văn nữ quan tâm nhiều nhất trong sáng tác
của mình là thân phận của những người cùng giới được đan cài trong những câu
chuyện thường ngày với những vui buồn được mất giữa cho và nhận, bất hạnh và
hạnh phúc. Họ đã viết về những mảnh đời bất hạnh bằng tất cả sự thấu hiểu và
cảm thông với nỗi đau của con người trong nhiều trạng huống khác nhau. Bên cạnh
những nét chung đó, mỗi cây bút nữ lại có những bản sắc riêng khó lẫn, tạo nên
cá tính và phong cách khác nhau mà chúng ta có thể nhận diện qua một số chân
dung cụ thể tiêu biểu sau.
Đoàn
Lê là một gương mặt nữ đã ít nhiều tạo được phong cách nghệ thuật của mình trên
văn đàn sau 1975. Nhiều truyện ngắn của Đoàn Lê đã được giải thưởng và hai tập
truyện ngắn được dịch ra tiếng Anh là Trinh tiết xóm chùa và Nghĩa địa xóm
chùa. Dù truyện ngắn Đoàn Lê vẫn nằm trong ranh giới của truyền thống và hiện
đại nhưng đã có nhiều cách tân về mặt thi pháp với một phong cách đa dạng và
một văn phong tươi mới. Nhận xét về Đoàn Lê, Tạp chí Nghiệp đoàn ở Mỹ cho rằng
truyện ngắn của nữ nhà văn “đã có một cái nhìn sâu vào bên trong văn hóa Việt
Nam sau đổi mới” và đó là những tác phẩm “khảo sát tất cả những gì bí ẩn, tinh
tế của trái tim con người”.
Truyện
của Đoàn Lê được viết bằng một thứ ngôn ngữ dịu dàng, nền nã nhưng cũng đầy
chất hài hước, hóm hỉnh và thấm đẫm chất triết lý sâu sắc. Sau Đoàn Lê một
chút, Lê Minh Khuê được công chúng biết đến khi tập truyện ngắn Cao điểm mùa hạ
với điểm nhấn là truyện Những ngôi sao xa xôi ra đời. Các tác phẩm xuất sắc của
Lê Minh Khuê đã được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới (Mỹ, Pháp,
Nhật, Malaysia), đặc biệt tập truyện The Stars, the Earth, the River – Những
ngôi sao, trái đất, dòng sông (Nxb Curbstone Press, Mỹ, 1998) của Lê Minh Khuê
đã được tặng giải thưởng quốc tế Byeong - Ju Lee với lời đánh giá: “Tác phẩm
thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả chiến tranh đối với đất nước mình,
những vấn đề sau khi thống nhất đất nước, sự nghèo đói và tình trạng xói mòn
văn hóa và tinh thần khi đất nước chuyển đổi sang một xã hội tiêu thụ. Những
vấn đề này được thể hiện bằng một văn phong đẹp, chua xót và trang nghiêm”.
Hiện
diện như là một trong những đại diện xuất sắc của các cây bút cách tân từ chặng
đầu tiên của văn học đổi mới, Phạm Thị Hoài nhanh chóng được bạn đọc chú ý khi
chị trình diễn một lối viết hoàn toàn mới, khác hẳn với truyền thống. Tiểu
thuyết Thiên sứ và sau đó là tập truyện ngắn Mê lộ đã cho thấy một phong cách
văn chương khác lạ. Trong khát vọng canh tân văn học, văn chương của Phạm Thị
Hoài là một cuộc dấn thân vào “trò chơi vô tăm tích”.
|
Nhà văn Phạm Thị Hoài |
Trong
cảm quan của Phạm Thị Hoài, thế giới con người là một thế giới vô cảm vô hồn,
thậm chí là những thây ma, nhiều nhân vật không có tên tuổi, địa chỉ, diện mạo,
thậm chí chỉ còn là những ký hiệu... Thế giới diễn ngôn của nhà văn cũng là thế
giới hỗn loạn của một thứ ngôn từ “phi thẩm mỹ” mang tính phức điệu. Tiếp nhận
và ảnh hưởng nhiều luồng tư tưởng phương Tây, tác phẩm của Phạm Thị Hoài là một
bản hợp âm của cuộc sống trong đó có sự đan xen giữa vô thức và bản năng tính
dục, giữa những buồn nản, phi lý và khát vọng hướng về cái đẹp. Truyện của chị
chưa phải đã chinh phục được số đông độc giả nhưng đã chinh phục được những độc
giả khát khao đổi mới văn chương.
Cùng
thế hệ với Phạm Thị Hoài còn có các gương mặt truyện ngắn sáng giá như Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo. Nguyễn Thị Thu Huệ được chú ý từ cuộc thi
truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội với truyện ngắn Hậu thiên đường. Cũng như
nhiều cây bút nữ khác, truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ chủ yếu đề cập đến những
vấn đề thường nhật của cuộc sống như tình yêu, hôn nhân và gia đình nên phần
lớn nhân vật của chị là nhân vật nữ; họ luôn trăn trở trong sự kiếm tìm tình
yêu đích thực và hạnh phúc nhưng đó luôn là những ảo ảnh xa vời, bởi vậy họ dễ
rơi vào bi kịch. Khám phá cuộc sống ở những điều bình thường, Nguyễn Thị Thu
Huệ đã tỏ ra là một cây bút nữ sắc sảo khi nhìn cuộc đời theo con mắt của riêng
mình. Hiện thực cuộc sống và con người được chị tái hiện không chỉ qua những
trạng huống tâm lý tinh tế mà qua cả vốn ngôn ngữ miêu tả thế giới cảm giác phong
phú đầy mẫn cảm, điều đó đã tạo nên dấu ấn riêng cho những tác phẩm của chị...
Y
Ban lại chinh phục độc giả bằng bằng sự táo bạo và quyết liệt ở ngay những
truyện ngắn đầu tay. Với 9 tập truyện ngắn đã công bố, trong đó nhiều truyện đã
được giải thưởng (như truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và tập truyện Người đàn
bà có ma lực), Y Ban là một cây bút được bạn đọc yêu thích bởi tác phẩm của chị
luôn gây ra những luồng dư luận trái chiều.
Cùng
khai thác đề tài tình yêu, hôn nhân, gia đình, nếu Nguyễn Thị Thu Huệ chú ý đến
vấn đề lương tâm và trách nhiệm đối với con cái, Trần Thùy Mai hướng đến những
điều bình dị ấm áp, giàu tình yêu thương thì Y Ban lại chú ý khai thác những
mâu thuẫn phức tạp giữa vợ chồng, con cái, giữa con người với con người, chỉ ra
những bất hạnh, những nỗi đau mà con người phải gánh chịu. Tất cả những
điều đó được nhà văn viết bằng một thứ ngôn ngữ tự nhiên, thô mộc với những câu
văn tỉnh lược, đầy rẫy những câu hỏi tu từ, đã tạo nên một nét riêng đầy hấp
lực. Viết về sex, Y Ban cũng là một trong những cây bút có cách thể hiện táo
bạo và quyết liệt.
Võ
Thị Hảo đã được biết đến như một cây bút truyện ngắn có cá tính với tập Biển
cứu rỗi được tặng giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993, trong đó
truyện Người sót lại của rừng cười đã gây nhiều chú ý trong dư luận. Truyện của
Võ Thị Hảo chinh phục bạn đọc bởi tấm lòng nhân ái của một người đàn bà cầm bút
nặng tình yêu con người và cuộc đời với lối viết giàu tư duy hướng nội, nhẹ
nhàng mà sắc sảo, riết róng mà đồng cảm. Cũng như nhiều nhà văn nữ khác, đậm
đặc trong các trang viết của Võ Thị Hảo là chân dung những người đàn bà với
những vui buồn, sướng khổ, được mất của đời người. Họ có thể bất hạnh với nhiều
bi kịch ngang trái nhưng vẫn luôn hiện lên với trái tim trong sáng, thánh thiện,
giàu đức hy sinh và một tâm hồn nhân ái, bao dung... Cũng như Võ Thị Hảo, mối
quan tâm của Võ Thị Xuân Hà là số phận những người đàn bà, nhưng người đàn bà
trong truyện của chị có những nét riêng đầy bí ẩn. Ở họ luôn có sự xáo trộn
giữa cái tốt và cái xấu, đầy lòng vị tha nhưng cũng ích kỷ, rất tự tin nhưng
cũng dễ bị cám dỗ, sống yên phận nhưng không phải ngoan ngoãn chấp nhận số phận
đã an bài. Không sắc sảo và bạo liệt như Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Y Ban
nhưng truyện của Võ Thị Xuân Hà hấp dẫn người đọc bởi giọng văn điềm đạm có
phần trầm lắng, bởi cái đậm đà duyên dáng, cay nghiệt mà vẫn dịu dàng, trần
trụi khắc nghiệt nhưng lại mơ mộng hư ảo.
|
Nhà văn Phan Thị Vàng Anh |
Thuộc thế hệ lớp sau, Phan
Thị Vàng Anh ngay khi xuất hiện đã trở thành một hiện tượng văn học. Tập truyện
ngắn Khi người ta trẻ của chị ra đời đã khuấy động bầu không khí phê bình văn
học. Nhà văn Nguyễn Khải đã gọi chị là “Nguyễn Huy Thiệp mặc váy”. Tuy chỉ mới
xuất bản hai tập truyện ngắn Khi người ta trẻ và Hội chợ nhưng Phan Thị Vàng
Anh đã sớm định hình một cá tính khó lẫn: ngắn gọn, sắc sảo, thâm thúy, trí
tuệ. Cái độc đáo của Phan Thị Vàng Anh là chị đã “biết cách lạ hóa những điều
quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng chừng nhạt nhẽo”. Nhiều
truyện của chị chỉ là những truyện mini nhưng đã làm cho người đọc phải bất ngờ
về ý tưởng mới lạ cũng như giọng điệu - những ý tưởng và giọng điệu chỉ có thể
có được “khi người ta trẻ”.
Sau
Phan Thị Vàng Anh, văn đàn Việt Nam một lần nữa lại nổi sóng khi nhà văn trẻ
Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện. Nguyễn Ngọc Tư được bạn đọc biết đến lần đầu từ tập
truyện ngắn Ngọn đèn không tắt và đã trở thành một cái tên hot được tìm kiếm
nhiều nhất trên văn đàn khi cho ra đời truyện ngắn Cánh đồng bất tận. Khác với
các cây bút trẻ khác, Nguyễn Ngọc Tư không chinh phục bạn đọc bằng những cách
tân lạ lẫm trong lối viết hay những “đại tự sự” trong truyện của mình. Chị chỉ
viết về những mảnh đời bình dị quanh mình - những mảnh đời bất hạnh, hẩm hiu
hay những niềm vui giản dị, bé nhỏ của con người Nam Bộ trong cuộc sống thường
ngày. Qua ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, nghèo khó, bộc trực
ấy ẩn chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế trong cách đối
nhân xử thế… tất cả được thể hiện trong một thứ ngôn ngữ hồn nhiên, thô mộc,
đậm đặc chất phương ngữ Nam Bộ.
Con
đường đi của truyện ngắn Việt Nam còn đang ở phía trước, sẽ lại còn nhiều thế
hệ cầm bút mới kế tiếp. Ghi nhận thành tựu của văn học đổi mới cũng là khẳng
định sự đóng góp lớn lao và sự lớn mạnh không ngừng của đội ngũ những người cầm
bút. Một sự lớn mạnh dự báo những tín hiệu tốt lành với nhiều bứt phá cho một
nền văn học tương lai.
LÊ DỤC TÚ