.thongtin img{width:24px;height:18px;margin:5px 5px -5px 0} .thongtin li{margin:10px 0 20px}

Thursday, September 20, 2012

NGUYỄN TRỌNG TẠO: CÓ KHI NGƯỜI CHẾT NGHÌN NĂM TRƯỚC, HỒN VẪN BỒNG BỀNH NHỮNG GIẤC MƠ

Nghĩa là Hàn Mặc Tử vẫn sống trong một chữ “còn” của Chế đã tiên định. Và tôi thì cứ suốt đời ám ảnh về ông:

Mưa trắng đường mưa, nắng ngất ngư

Ai đem lụa trải tận xa mờ
Có khi người chết nghìn năm trước
Hồn vẫn bồng bềnh những giấc mơ…

(Có khi – Nguyễn Trọng Tạo)
HÀN MẶC TỬ - THI SĨ THIÊN TÀI CỦA “LOÀI THI SĨ”
1. Trước khi có Hàn Mặc Tử, người ta chỉ biết có hai loài đáng trọng vọng là “Thiên thần” và “loài Người”. Nhưng từ khi có Hàn Mặc Tử, người ta mới biết còn có thêm một loài nữa, đó là “loài thi sĩ”. Sau 15 năm làm thơ, đến năm 27 tuổi, ông mới định vị được cái loài lạ lùng đó khi viết thư cho một người bạn thân nói về quan niệm thơ của mình: “Đức Chúa Trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Vì thế, trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần” và “loài người”, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “loài thi sĩ”!”.
Tại sao Hàn Mặc Tử lại tách Thi sĩ ra khỏi loài người? Cứ tưởng đấy là một quan niệm điên khùng, siêu hình, nhưng không phải như thế; và ông đã giải thích rõ khi viết tiếp liền sau đó: “Loài này là những bông hoa rất quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã tạo nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch” - (Thư gửi cho Hoàng Trọng Miên, bạn thân của HMT trong bài Quan niệm về Thơ). Thì ra loài người không biết và không thể làm được cái việc “trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”. Tách thi sĩ ra khỏi loài người không phải để thoát ly người, mà là để đề cao Thi sĩ, đề cao nghệ thuật, đề cao thiên chức của người sáng tạo, chung quy cũng là để đề cao cái đẹp tuyệt đối mà thôi. Bởi đối với Hàn, Thi sĩ cũng là người, nhưng là siêu người. Trong Lời tựa tập “Đau thương” ông bộc lộ rõ điều đó:
Tôi làm thơ?- Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng… Tôi làm thơ? - Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì của lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú… Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi?. Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống”.
Điều này phù hợp với quan niệm về thơ và nghệ thuật nói chung của Hàn thi sĩ. Ngay cả khi nói về văn xuôi, Hàn cũng đề cao văn chương, văn tài như một quan niệm vị nghệ thuật: “Ta chỉ dò xét đến văn tài của quyển truyện, dầu nó không hợp với thời đại mình đang sống, dầu nó không hợp với ý tưởng của mình cũng chả cần. Vì chỉ có văn chương kia mới đáng kể mà thôi”. Nhưng cho dù có đề cao cái thiên chức sáng tạo đến đâu, ta vẫn thấy ở Hàn một quan niệm rất dân tộc, rất phương Đông: “Ta không nên quên thơ ta là thơ quốc âm, ta phải giữ cái tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa cái tinh thần phương Đông mà rung cảm tâm hồn người ta là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm thía”.
Xem xét quan niệm nghệ thuật của Hàm Mặc Tử, ta thấy ông là một người luôn nung nấu tinh thần dân tộc – hiện đại, nối kết phương Đông với phương Tây, và xa hơn thế nữa là hướng tới sự siêu thăng tinh thần như một tôn giáo sáng tạo của riêng mình. Chính vì coi sáng tạo như một tôn giáo riêng, một vũ trụ riêng của chủ thể mà Hàn đã hình dung ra một thế giới của “loài Thi sĩ”. Đó là thế giới chiêm bao của một con người biết mình đang chết dần tới tột đỉnh của đau thương. Và Hàn Mặc Tử quả là một người khác thường, như một anh hùng của “loài Thi sĩ”, ông đã biến bi kịch của chính mình thành thiên đường của chiêm bao, thiên đường của sáng tạo.
2. Nói về thơ về đời của Hàn Mặc Tử thì đã có hàng trăm hàng nghìn người đã nói, đã viết, đã kể, đã khen, đã chê, đã bình, đã luận. Thậm chí đã xảy ra cả những vụ kiện cáo kéo dài. Nhưng hỏi có ai dám độc quyền về Hàn Mặc Tử, kể cả những người ruột thịt trong gia đình, những người bạn thân cùng thời hay những bóng hồng đi qua đời ông? Ngược lại, những yêu thương cực đoan hay bẽn lẽn đối với Hàn thi sĩ lại tạo nên một đáp số lớn lao của phép toán cấp số nhân. Mỗi người như thế đã góp một viên đá quý yêu thương để xây nên bức tượng đài của người thi sĩ tài hoa bạc mệnh. Và mỗi người đứng một góc để chiêm ngưỡng bức tượng thi sĩ ấy. Người đứng gần, người đứng xa, lại có người chỉ được nhìn bức tượng qua gáy của kẻ khác… Thế nhưng mỗi người lại đều có một Hàn Mặc Tử của riêng mình. Đó là hạnh phúc của một thi sĩ, một thiên tài thi sĩ.
Có người gọi Hàn là một “thiên tài kinh dị”. Có người gọi Hàn là một kẻ điên khùng, hay giả điên giả dại. Lại có người coi Hàn như một thi sĩ duy nhất cùng thời: “Mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến đi, và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử”. Đấy là nhận xét xuất thần của Chế Lan Viên ngay sau khi Hàn thi sĩ qua đời (Người mới, số 5, ngày 23.11.1940). Tại sao người ta lại có những đánh giá cao về ông như thế? Bởi vì ông đã tạo ra một trường thơ kỳ lạ, ngoài cả trường “thơ loạn” mà Hàn cùng mấy thi hữu Bình Định đã lập nên, với những câu thơ không ai viết được: “Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa ”, hoặc “Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên”…
Xem một thi sĩ có thực sự tài hoa hay không, phải xem đến “đơn vị câu thơ” của họ. Thi sĩ có càng nhiều những câu thơ hay, chứng tỏ độ tài hoa của họ càng cao. Có lần cách đây hơn 30 năm, tôi và nhà thơ Quang Huy đã thử làm một cuộc khảo sát những câu thơ hay của các thi sĩ thời Thơ Mới (1930-1945), thì thấy Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử có mật độ câu thơ hay đoạt chức quán quân. Nhưng thơ của Hàn thi sĩ vẫn có cái gì đó “ma quái” khác hẳn Xuân Diệu. Những câu thơ đọc xong là nhớ ngay vì nó đầy ấn tượng lạ lùng.
Thi sĩ Esenin của Nga cũng làm sáng giá cho trăng, nhưng cũng không nhiều những câu thơ rờn rợn về trăng như thơ Hàn Mặc Tử. Ngoài những câu thơ lạ và hay về trăng nhiều người đã trích dẫn như: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi”,Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối”, “Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”,”Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải”, “Người trăng ăn vận toàn trăng cả”, “Áo ta rách rưởi trời không vá/ Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng/ Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn”, v.v… còn có những câu thơ khác về trăng mà tôi vô cùng bái phục. Ví dụ: “Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt”. Câu thơ đọc lên nghe lạnh người, như nghe cả tiếng giật mình của vũ trụ bao la. Với Hàn, Trăng cũng là người, và trăng cũng là ma, luôn đi về trong hồn thơ dị thường của ông: “Hồn là ai? là ai tôi chẳng biết/ Cười như điên sặc cả mùi trăng”. Lại có câu thơ bảy chữ chỉ có một từ “trăng” và một từ đệm ở giữa mà đọc lên thấy mình ngơ ngác giữa một thứ ánh sáng thủy tinh kỳ lạ: “Trăng trăng trăng là trăng trăng trăng”. Đó là một câu thơ có thể sánh với câu thơ sáu chữ toàn là hư từ của thi hào Nguyễn Du: “Mai sau dù có bao giờ”.
Hàn Mặc Tử có tài tạo ra những âm vang kỳ lạ cho thơ. Đó là thứ thơ tạo nhạc, một thứ nhạc ma mị chiêu dụ lòng người, bởi trên dòng nhạc ấy là những thi ảnh lấp lánh dưới ngòi bút của một họa sĩ tài ba:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
.
Câu thơ cuối khổ thơ đã tạo ra những nốt nhạc chơi vơi đến ngỡ ngàng. Hoặc 2 câu kết của bài “Mùa Xuân chín” thì không thể chê vào đâu được: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Câu thơ tạo nên một từ trường quá mạnh, lôi hút cả Tố Hữu sau này khi ông viết “Vườn xoài hoa trắng nắng đung đưa” hay “Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan”. Đó chính là cái mới, cái lạ, cái ma mị đầy sự dẫn dụ của thơ Hàn Mặc Tử. Bởi từ nhỏ Hàn đã có tài thơ như một sự thiên phú. Ông không chỉ thông thạo thơ Đường luật, đăng đối chỉnh chu mà còn làm ra cả những bài thơ đọc xuôi đọc ngược đến năm sáu cách. Nhưng quan trọng hơn cả là hồn thơ ông luôn mới lạ nên không bị nhốt trong cái lồng thơ quen thuộc. Không thể nghĩ đây là những câu thơ của cậu bé 13 tuổi khi qua đò đi học: “Trong veo làn nước soi đôi mặt/ Xa tít quê nhà trỏ một tay”. Câu thơ “Xa tít quê nhà trỏ một tay” đã vẽ ra cả một không gian mênh mông xa mờ từ con đò tuổi thơ, cái con đò báo hiệu một tài thơ xuất chúng.
3. Tôi có may mắn/ hay là không may? được đọc Hàn Mặc Tử từ năm 14 tuổi. Đó là cuốn “Hàn Mặc Tử” của Trần Thanh Mại còn sót lại trong tủ sách của bố tôi sau cải cách ruộng đất. Cuốn sách ấy như có ma lực kỳ diệu cuốn hút tôi. Cuộc đời, tình duyên, bệnh tật và đặc biệt là thơ của Hàn cứ khoan xoáy vào tôi, nó làm tôi không sao rời ra được. Thú thực là khi chưa đọc “Hàn Mặc Tử”, tôi chỉ thích môn toán mà không mấy thích những bài thơ trong sách giáo khoa, đại loại như “Hà Nội có cầu Long Biên/ Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng”, hoặc “Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt/ Đảng ta đây xương sắt da đồng”… Những thứ thơ ấy làm cho tuổi nhỏ của tôi bị dị ứng. Nhưng thơ của Hàn Mặc Tử thì khác, nó cứ ám ảnh tôi như ma nhập. Có lẽ vì thế giới thơ của Hàn Mạc Tử không phải là thế giới thực của người đang sống, mà nó là thế giới của chiêm bao, thế giới của thần linh.
Tôi thực sự bàng hoàng khi đọc đến câu thơ “Người đi một nửa hồn tôi mất – Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ“. Không kìm lại được, tôi lấy sổ tay chép lại những bài những câu tôi thích. Đến câu: “Bây giờ tôi dại tôi điên – Chắp tay tôi lạy cả miền không gian” thì hình ảnh thi nhân hiện lên trong tôi đầy thương cảm. Tôi thẫn thờ suốt buổi chiều như người nhiễm bệnh. Đêm hôm đó tôi không học bài được, và bắt chước Hàn Mặc Tử – người thầy tự chọn – tôi đã viết được bài thơ đầu tiên, trong đó có đoạn: “Bây giờ tôi dịu tôi hiền/ Biết đâu tôi dại, tôi điên bao giờ/ Mai sau tôi chết trong thơ/ Hay là thơ chết bên bờ hồn tôi”… Những dịu những hiền, những điên những dại, những chết những hồn đều là chữ trong thơ Hàn Mặc Tử mà tôi đã đọc được.
Sau này tôi mới biết, người thầy đầu tiên dạy cho tôi đấy là Hàn Mặc Tử, người thi sĩ đã qua đời trước khi tôi được sinh ra.
Có lẽ vì thế mà tôi luôn nghĩ Hàn Mặc Tử vượt ra ngoài vòng cương tỏa của thời Thơ Mới, không phải vì nhận xét xuất thần của Chế Lan Viên, mà vì tôi thích ông từ nhỏ, cũng như khi lớn lên tôi thích Hoàng Cầm, một siêu thơ của văn hóa Kinh Bắc. Thích đến nỗi, năm 1993 khi thấy ống kính camera của Nguyễn Đình Toán chĩa vào tôi và Hòa Vang “phỏng vấn”: Nguyễn Trọng Tạo thích nhà thơ Việt Nam nào trong thế kỷ 20? Tôi liền nói ngay: Hàn Mặc Tử và Hoàng Cầm. Còn trả lời câu hỏi trắc nghiệm của Ngô Thảo về các nhà thơ thế giới, tôi chọn 3 người, đó là Esenin, Lorca và Hàn Mặc Tử.
4. Có lẽ vì thế mà khi đọc bộ “Từ điển Văn học Việt Nam” xuất bản năm 1984 tại Hà Nội, tôi rất ngạc nhiên khi thấy mục “Hàn Mặc Tử” chỉ chưa đầy nửa trang, trong khi mục “Lê Đức Thọ” lại chiếm gần 2 trang. Cũng dễ thông cảm với những người làm từ điển hồi đó, họ phê phán thơ Hàn Mặc Tử chạy trốn vào tôn giáo và đề cao thơ Lê Đức Thọ giàu tính chiến đấu, tính cách mạng. Đó là những quan niệm sai lệch của một thời, sai lệch vào tận từ điển mà đến nay ai cũng dễ nhận ra. Tôi nghĩ Hàn Mặc Tử chắc cũng không để ý đến điều đó, vì lúc sinh thời ông đã viết “Tôi vẫn còn đây hay ở đâu/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?”. Nghĩa là ông luôn bay ở trên cao, luôn là “Người thơ phong vận như thơ ấy” để “Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây”, và nhìn xuống trần gian với tư cách của người thi sĩ: “Ta ở trên cao nhìn trở xuống/ Lâng lâng mây khói nhuộm trăng đêm”
Nghĩa là Hàn Mặc Tử vẫn sống trong một chữ “còn” của Chế đã tiên định. Và tôi thì cứ suốt đời ám ảnh về ông:
Mưa trắng đường mưa, nắng ngất ngư
Ai đem lụa trải tận xa mờ
Có khi người chết nghìn năm trước
Hồn vẫn bồng bềnh những giấc mơ…
(Có khi – Nguyễn Trọng Tạo)
Hàn Mặc Tử vẫn sống cả trong những bài hát, những bộ phim, những vở kịch mà hậu thế nhận diện ông. Dù những tác phẩm viết về ông còn những khiếm khuyết thì cũng là gửi lại tấm lòng ngưỡng mộ người thi sĩ đã để lại cho họ những ấn tượng khong phai mờ. Giống như Esenin của Nga, Hàn Mặc Tử cũng có bài hát mang tên ông. Không phải nhà thơ nào cũng có được cái vinh hạnh ấy, được làm nhân vật của văn chương, nghệ thuật. Khi câu hát “Ai mua trăng tôi bán trăng cho” còn cất lên đâu đó, cũng có nghĩa là ông vẫn còn gần lắm.
Tôi xin mượn hai câu thơ của Hàn thi sĩ để thay cho lời kết bài viết này:
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu…
Vâng, Thi sĩ thiên tài Hàn Mặc Tử mãi còn bay trên bầu trời thơ với biết bao sự ngưỡng mộ của nhân gian.
Hà Nội, 19.9.2012
NGUYỄN TRỌNG TẠO

NHÀ BÁO LÊ PHƯƠNG DUNG CHỨNG KIẾN MỘT MÀU NẮNG TRẮNG LẤP LÁNH, MỘT CUỐI THU VIỆT NAM GIỮA MÙA HÈ NƯỚC Ý

Ấn tượng mạnh nhất đối với tôi là Vơnidơ có nhiều người thuộc các quốc tịch khác nhau. Đi trên đường phố, khi biết tôi là người Việt Nam, họ đã nhìn với ánh mắt và nụ cười đầy thân thiện. Rời Vơnidơ trở lại thủ đô Rôma vào những ngày này ở đây đã bước vào mùa hè. Cái nắng của mùa hè ở Italia thật là tuyệt diệu. Ánh nắng như dát bạc xuống đường phố, lần đầu tiên tôi được chứng kiến một màu nắng trắng lấp lánh, một cuối thu Việt Nam giữa mùa hè nước Ý. (Lê Phương Dung)
Nhà báo Lê Phương Dung bên các bạn Italia

MỘT THOÁNG ITALIA
Cộng hòa Italia, mảnh đất xinh đẹp nằm ven bờ biển Địa Trung Hải, có vô vàn phong cảnh hấp dẫn và cuốn hút lòng người. Nếu ai đã một lần đến với Italia mà phải rời nơi đây chắc đều mong muốn có một ngày trở lại.
Italia – đất nước của một nền văn hóa rực rỡ và con người nhân ái, đất nước của những thiên tài mà thành quả lao động sáng tạo của họ đã trở thành những di sản vô giá của nhân loại. Sự cuốn hút đầu tiên phải kể đến thành phố Vơnidơ.
Có thể nói không ngoa rằng, không có gì có sức quyến rũ hơn với Vơnidơ, những cung điện nguy nga tráng lệ với cấu trúc riêng rất cổ, nhưng lại rất hiện đại bên cạnh những con kênh xanh. Vơnidơ có khoảng 150 con kênh và khoảng 400 chiếc cầu bắc qua, thuyền và cầu là đường giao thông quan trọng của thành phố này. Chính điều đó đã tạo nên sự giàu có của Vơnidơ trước đây. Vơnidơ đã từng là trung tâm thương mại gắn châu Âu với Trung Đông và châu Á thời trung cổ.
Ngày nay sự giàu có của Vơnidơ là nhờ túi tiền của khách du lịch. Hàng năm, thành phố hơn 5 triệu dân này đã góp gần 20 triệu lượt khách du lịch với doanh thu khoảng 10 tỷ USD. Du khách đến đây có thể thăm nhà bảo tàng thành phố, đi thuyền trên các dòng kênh, đi thăm các cơ sở sản xuất thủy tinh màu, hoặc đùa giỡn với đàn bồ câu đông tới hàng ngàn con ở trên đảo Murakoo, vốn là những người bạn thân thiết với người dân Vơnidơ.
Một bất ngờ là tôi và các bạn cùng đi đã được gặp Robetino, ca sĩ huyền thoại một thời. Từ những năm 65-70 của thế kỷ trước, ở Hà Nội đã khá phổ biến một đĩa hát Robetino, lúc đó tôi chỉ là một cô bé con 7-8 tuổi nhưng cũng đã rất “mê” giọng ca của “chú bé” ca sĩ người Ý 13 tuổi này – Một giọng ca tenor trong trẻo khỏe khoắn nhưng vẫn còn hơi mảnh.
Hình như chính cái mảnh mai thiếu niên ấy đã tạo nên sự dễ thương cho giọng hát “Mặt trời của tôi” đã theo tôi lớn lên cùng năm tháng, rồi “Avêmaria” và “Mama” thật là tha thiết, những bài hát như số phận thật gần gũi với cuộc đời tôi, người từng có một tuổi thơ bất hạnh, bố mất khi tôi vừa tròn 5 tuổi, mẹ tôi góa chồng khi tuổi còn trẻ với 4 đứa con thơ, chị em tôi lớn lên trong tình thương và sự hà khắc trong việc giáo dục con cái – Mẹ tôi đã ở vậy hy sinh cho những đứa con.
Tôi yêu mẹ và biết ơn mẹ tôi biết bao nhiêu, vậy là tôi lại hát cùng anh Robetino“Tim con rung lên khi nghe tiếng mẹ/ Ôi bao yêu thương như tiếng ca ban chiều”…
Robetino Lorelti hiện ra trước mắt tôi bằng xương bằng thịt, ông trông mảnh mai và thật hiền dịu, trẻ hơn nhiều so với tuổi 58 của mình. Trước sự ngưỡng vọng của tôi và các bạn, ông đã hát những bài hát được yêu mến một thời, từng trở thành dấu ấn trong tâm hồn một thế hệ ở một nơi rất xa. “Santaluxia”, “Trở về Soriento”… đưa người nghe tới một nơi thật thanh bình yên tĩnh, không còn phải tất bật bon chen, quay cuồng bươn trải. Tôi còn được biết một điều khá thú vị: Robetino là con trai một triệu phú ở Italia.
Trên đường phố Ý
Ấn tượng mạnh nhất đối với tôi là Vơnidơ có nhiều người thuộc các quốc tịch khác nhau. Đi trên đường phố, khi biết tôi là người Việt Nam, họ đã nhìn với ánh mắt và nụ cười đầy thân thiện. Rời Vơnidơ trở lại thủ đô Rôma vào những ngày này ở đây đã bước vào mùa hè. Cái nắng của mùa hè ở Italia thật là tuyệt diệu. Ánh nắng như dát bạc xuống đường phố, lần đầu tiên tôi được chứng kiến một màu nắng trắng lấp lánh, một cuối thu Việt Nam giữa mùa hè nước Ý.
Thủ đô Rôma nằm trên 7 quả đồi và con sông Têvêrê chảy qua. Thủ đô cổ kính này ngày càng đẹp và hấp dẫn du khách. Tôi đã được tới thăm nhà thờ Sanđiéttơrô thuộc tòa thánh Vaticăng, đấu trường Côlôsê và đài phun nước Trêvicô là những công trình kiến trúc mang đặc trưng của Thiên Chúa giáo, trong đó nổi bật những bức tranh, bức tượng bằng đá cẩm tuyệt vời của các danh họa Mikenlănggiơ, Bécnini, Cavôva… Đấu trường Côlôse được xây dựng cách đây khoảng 2000 năm, với những công trình kiến trúc đồ sộ. Đài phun nước Trêvicô cổ xưa lúc nào cũng chật ních người đứng chiêm ngưỡng và ném tiền để hy vọng có ngày được trở lại đây.
LÊ PHƯƠNG DUNG





Monday, September 17, 2012

TIẾP NHẬN TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN “THI TRUNG HỮU HỌA” (KỲ 1)

I) NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN:

1) Thơ và hoạ:

Nếu người nhạc sĩ dùng những nốt nhạc để tạo nên những giai điệu êm ái ngọt ngào hay hùng tráng làm cho người nghe say sưa thích thú thì người hoạ sĩ cũng có những vật liệu để hình thành tác phẩm. Những nguyên liệu ấy Mendelowits gọi là yếu tố tạo hình; Edmund Burk Felman gọi là yếu tố thị quan: ngữ pháp; Đăng Ngọc Trân gọi là cấu trúc ngữ pháp. Theo ông Đặng Ngọc Trân thì “Dù là người tiền sử hay người hiện đại, dù là hoạ sĩ cổ điển hay hoạ sĩ trừu tượng đều phải dùng tới các yếu tố: Đường nét, hình dạng, giá trị, độ nhẵn và màu sắc để tạo nên một tác phẩm hội hoạ” [11,47].

Hội hoạ có nhiều trường phái khác nhau- Hiện thực, ấn tượng, lập thể, siêu thực, dã thú...

Khác với các nhạc sĩ, hoạ sĩ, các nhà văn nhà thơ lại dùng ngôn từ để tạo nên những tác phẩm văn chương làm mê hoặc người đọc. Nói như M.Gorki “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và - cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống – là chất liệu của văn học” [32,206]. Ngôn từ trong tác phẩm văn chương phải là những ngôn từ đã được nâng lên đến trình độ nghệ thuật và phải đảm bảo tính chính xác, tính hàm súc, tính biểu cảm, tính hình tượng.

2) Mối quan hệ giữa thơ và hoạ :

Cùng thuộc nhóm nghệ thuật đơn tính (Không kể hội họa ứng dụng, văn chương ứng dụng) hoạ và thơ có mối quan hệ gần gũi. Trác Ngô Tử khi nhận xét mối quan hệ giữa thơ và hoạ thì cho rằng “Hoạ đâu chỉ có vẽ hình, mà phải có cả hình lẫn thần; thơ đâu phải ở bên ngoài hoạ, mà ở chỗ nêu được cái thần thái trong hoạ” [18,164]. Còn nhà hoạ sĩ vĩ đại Leonardo da Vinci thì cho rằng “Hoạ là thi ca bằng thị giác” [11, 51].

Tác phẩm nghệ thuật tạo hình- một bức tranh, một pho tượng, một công trình kiến trúc ...dù được thực hiện bằng tay song nó chủ yếu là sản phẩm thẩm mỹ của con mắt. “Con mắt là kênh đối thoại giữa người xem và tác phẩm. Vì vậy thông tin thị giác, thông tin thẩm mỹ thị giác, ngôn ngữ thị giác và cụ thể hơn là ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình xây dựng trên cơ sở cơ cấu hoạt động và đặc trưng chức năng của con mắt” [50, 6]. Hội hoạ thuộc loại hình “nghệ thuật không gian, nghệ thuật tĩnh ...có sở trường diễn đạt cái cụ thể –theo nghĩa nhìn thấy trước mắt- và đứng yên. Khả năng này gíup con người tạo môi trường không gian đẹp quanh mình, giúp cho sự lắng đọng cảm xúc” [19,78]

Những sắc độ màu, sự chuyển động của nét và những biến thể của hình khối thể hiện trong tác phẩm văn chương không có tính chất cụ thể như trong tác phẩm của loại hình nghệ thuật tạo hình.
Nhưng không phải bất cứ tác phẩm văn chương nào cũng có chất hoạ. Mức độ ít hay nhiều đậm hay nhạt còn tuỳ thuộc vào khả năng của người sáng tác, tuỳ thuộc vào loại hình của từng tác phẩm văn chương.

II) Cơ cở chất hoạ trong tác phẩm Truyện Kiều :

1) Ngôn ngữ tiếng Việt :

“Trong tiếng Việt, có một loại đơn vị đặc biệt gọi là tiếng. Về ngữ âm, một tiếng là một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt rất phong phú và có tính chất cân đối, tạo ra tiềm năng to lớn của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa. Nhiều từ tượng hình tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc”[3,39]. Tận dụng đặc điểm này các nhà văn, các nhà thơ đã tạo nên không ít bức họa trong văn thơ. Khuôn mặt Chí Phèo khi hắn uống rượu say, khuôn mặt Lão Hạc khi bán con chó vàng... là những bức hoạ sinh động bằng ngôn ngữ sống mãi với thời gian.

2) Tính tạo hình trong hình tượng văn học:

Tính tạo hình trong hình tượng văn học là một phẩm chất không thể thiếu được của hình tượng, không có tạo hình thì hình tượng không có cơ sở để tồn tại. Tạo hình bao gồm việc tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những mối quan hệ giàu cảm xúc. Nhờ tạo hình mà hình tượng hiện lên một cách cụ thể qua chất liệu. “Trong hội hoạ tạo hình biểu hiện trực tiếp qua đường nét, màu sắc, trong điêu khắc tạo hình biểu hiện qua đường nét hình khối, trong văn học, tính tạo hình được xác lập gián tiếp qua ngôn từ”.[13,30]. Ngôn từ có tính hình tượng là ngôn từ giàu hình ảnh có màu sắc, âm thanh, nhạc điệu có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ, tác động sâu xa vào trí tưởng tượng và cảm nghĩ của người đọc. Như vậy tính hình tượng, một đặc điểm của ngôn ngữ văn học có khả năng phản ảnh, thể hiện các yếu tố của ngôn ngữ  hội họa. Vận dụng tính chất này, các nhà văn, nhà thơ đã tạo ra không ít những chân dung về nhân vật, những bức tranh phong cảnh lấp lánh những sắc màu, đa dạng về đường nét. Trong bài thơ “Thuật hứng XXIV” của Nguyễn Trãi hai câu  luận “Kho thu phong/ nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà/ nặng vạy then.” là hai câu thơ đầy sắc màu hội họa. Bức tranh có gam màu vàng, thực và ảo được kết hợp hài hòa ấn tượng. Gió vận động êm nhẹ, trăng ngập tràn, không gian êm ả, yên bình. Trong một không gian mênh mông ngập tràn sương khói, con thuyền thơ nhỏ bé- hình ảnh trung tâm của bức tranh không bị mất hút trong những sắc màu hư ảo là nhờ cách trọng lượng hóa vật thể “Thuyền chở yên hà nặng vạy then” của một nhà thi họa. Bức tranh được phác hoạ bằng những nét bút hào hoa mỹ lệ tao nhã nên thơ đậm đà phong vị dân tộc. Có thể nói, đây là một cảnh tiên giữa đời thường.

Nhờ tính tạo hình của văn học, những bức tranh thơ như trên sẽ rất dễ dàng biến thành những họa tác.

II) Tính chất “Thi trung hữu hoạ” trong tác phẩm Truyện Kiều:

Chất hoạ trong tác phẩm Truyện Kiều the hiện trên nhiều khía cạnh:           

1) Chất hoạ trong những bức chân dung nhân vật:

Chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du thường sử dụng bút pháp mang tính truyền thống sắp xếp nhân vật làm hai tuyến- nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông tả tỉ mỉ bằng những nét bút trang trọng giàu tính ước lệ. Còn đối nhân vật phản diện ông thường đi theo lối tả thực và phác hoạ, chấm phá bằng vài ba nét nhưng vẫn gây được ấn tượng mạnh mẽ. Mặc dù đi theo khuynh hướng chính thống, bút pháp phác hoạ, ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước lệ công thức nhưng ở một số phương diện Nguyễn Du đã có những phá rào (khuynh hướng tâm lý hoá ngoại hình, thân phận hoá phẩm cách) tạo nên những nhân vật sống động.

1-1) Nhân vật chính diện:

Đối với những nhân vật chính diện, Nguyễn Du thường vẽ bằng màu sắc hài hoà tươi tắn, đường nét lúc thì mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích, nét vẽ đậm và kỹ hơn so với nhân vật phản diện. Những hình ảnh ước lệ được dùng khi miêu tả nhân vật là những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp sáng trong, rực rỡ, bền vững như phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thuỷ...Đây là bút pháp cực tả, tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách nhân vật.

1-1-1) Chân dung Thuý Kiều :

-Phần mở đầu tác phẩm:

Trong chân dung nghệ thuật, vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm nhạt, lu mờ. Nắm vững nguyên lý vẽ chân dung nghệ thuật khi hoạ tác nhân vật Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm, Nguyễn Du đã chọn những gam màu mát, màu trắng trong của nước, màu xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và tươi của hoa “thắm”; đường nét mảnh mai uyển chuyển sống động “làn, nét ” và phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Không chỉ có những màu đơn, màu phối, Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về cường độ màu “thua thắm, kém xanh ” để làm rõ vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm hiện lên số phận của một con người theo đúng triết lý ”Hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa truân”. Chỉ hai nét vẽ, bức chân dung của một giai nhân tuyệt thế đã hiện hữu, đó chính là cái tài của thi hào:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,                       (26)
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.  (25)

Vẽ nhân vật Thuý Vân Nguyễn Du thiên về tổng thể còn khi phác hoạ nhân vật Thuý Kiều Nguyễn Du thiên về điểm nhãn. Thi hào đi vào đôi mắt theo quan niệm mỹ học phương Đông “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Chọn màu trắng để diễn tả độ trong xuyên thấu vào tâm hồn, chọn nét xuân sơn để diễn tả sự gợi cảm của một con người nặng về đời sống tâm hồn rất đa tình đa cảm, đây là một sự tinh tế. Vũ Hạnh có lý khi lý giải vì sao thi hào Nguyễn Du không tả đôi mắt của Thuý Vân mà lại miêu tả kỹ đôi mắt của Kiều“Thuý Vân có mắt điều ấy thật hiển nhiên (…) Nhưng đôi mắt nàng chỉ là đôi mắt nằm trên khuôn mặt để làm đầy đủ lệ bộ của một khung diện mà thôi (…) Đôi mắt ấy phóng ra tia nhìn là để rập theo ý tình kẻ khác, miễn ý tình ấy thuộc về lẽ phải hiển nhiên, thuộc về trật tự đã được cuộc đời chấp nhận(…) Có lẽ, Vân đã nhường mắt cho Kiều. Vì chỉ mỗi một mình Kiều ở trong tác phẩm có đôi mắt sáng, mắt đẹp lạ lùng. Cặp mắt ấy có nhãn lực tuyệt vời, nhìn được chiều sâu thăm thẳm, tưởng chừng vạch được màu xuân tươi tốt mà soi thấu vào tận đáy mồ hoang để cảm thấu nỗi niềm cô độc xót xa của kiếp người. Cặp mắt ấy nhìn được liên hệ giữa người và ta, giữa cái đã qua và cái sẽ đến.”[76,170]. Không chỉ đẹp, đôi mắt của Kiều còn là đôi mắt của sự tinh thông:

Mắt xanh chẳng để ai vào, có không ? (2182)

hoặc :                          

Khen cho con mắt tinh đời                     (2201)
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!    (2202)

Mắt trong - đôi mắt đẹp ánh lên sự thông minh, mắt xanh-đôi mắt của sự đồng tình trân trọng, giờ lại là con mắt tinh đời- đôi mắt phán đoán nhận xét sắc sảo chính xác nhanh chóng về con người. Có thể nói, đối với Thuý Kiều, vẻ đẹp của hình thức luôn luôn tiềm ẩn vẻ đẹp của tâm hồn và vẻ đẹp của tâm hồn “đã phản chiếu trên những dung nhan nàng những đường nét, những màu sắc tươi đẹp mà đằm thắm” [10,25]

-Trước mặt mụ mối, Kiều không còn là Kiều của ngày nào. Nàng đã biến sắc, thi hào chọn sắc vàng của hoa lá, một màu sắc buồn tiêu biểu cho mùa thu, những nét mờ, nét phớt lì trong sự phản chiếu và nét mảnh khảnh mỏng manh. Sắc màu ấy, đường nét ấy tượng trưng cho cái thần sắc bạc nhược, sự thỉu não. Cái thần của bức tranh là ở sự tương quan giữa sắc buồn và nét mờ, là sự đối lập giữa cái hôm qua và cái hôm nay, tất cả nhằm làm nổi rõ sự ủ dột tái tê của một con người cam chịu chai lỳ vì mang nỗi đau căm lặng không thể vùng vẫy :

Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.      (636)
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.                   (638).

Bốn nét vẽ là bốn hình thái hỗ trợ cho nhau, thống nhất nhau trong việc diễn tả sự chấn động tâm lý đã làm tàn phai nhan sắc. Trong bốn nét vẽ đó, hai nét vẽ ”Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai “ là hai nét vẽ thần tình nhất, thể hiện được thái độ căm lặng đến tuyệt đối, căm lặng nhưng Kiều vẫn không giấu được nỗi đau đớn, xót xa tủi nhục. Giờ đây, Kiều chỉ còn là cái bóng của chính mình! Khác với bức vẽ trên, khi thực hiện bức vẽ này, Nguyễn Du không dùng những sắc màu đậm, đường nét sắc cạnh. Chính bút pháp vẽ kiểu như vậy đã tạo được cái thần của câu thơ, vừa thể hiện được dáng hình, vừa thể hiện được nỗi đau ẩn đằng sau bộ dạng bên ngoài.

Kiều tắm :

Có lẽ đây là bức hoạ khó vẽ nhất trong những bức tranh vẽ chân dung nhân vật. Bởi lẽ, nếu không khéo sẽ rơi vào sự dễ dãi, đường đột, lộ liễu kém tế nhị, đi chệch với những quan niệm đạo đức của xã hội đương thời, đồng thời hạ thấp giá trị của cô Kiều, một cô gái vốn khuôn thước theo kiểu “Êm đềm trướng rủ màn che,”. Là một nhà nho chính thống uyên thâm, Nguyễn Du rất từ tốn chậm rãi cẩn thận khi hoạ một thân thể khoả thân. Trước hết, nhà thi hoạ tạo ra một bức phông màn rất gợi cảm đầy hương hoa” rủ bức tường hồng tẩm hoa” trước khi vén bức màn bí mật. Nhà thi hoạ đã tạo được cảm giác náo nức chờ đợi cho người đọc, người xem bằng cách cho cuộn film quay thật chậm và rồi thật bất ngờ “Một toà thiên nhiên” đã hiện hữu. Nét vẽ ”Toà thiên nhiên” thể hiện được sự kín đáo bí hiểm gợi trường liên tưởng sâu xa. Chỉ bằng hai câu thơ, với những sắc màu tinh nguyên ”Trong ngọc trắng ngà”, một đường nét giàu tính tượng trưng, Nguyễn Du đã tạo ra một bức hoạ về thân thể người phụ nữ nửa thực, nửa hư. Đúng là tuyệt hoạ !

Buồng the phải buổi thong dong,                (1309)
Thang lan, rủ bức trướng hồng tẩm hoa.     (1310)
Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà ,                   (1311)
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên!        (1312)

Không riêng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương không ít lần vẽ những bức tranh nửa kín nửa hở về người phụ nữ. Trong bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”, bà chúa thơ Nôm đã viết:

Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm ,
Một mạch Đào nguyên suối chửa thông.

Bức vẽ thiên về chi tiết, nặng về vùng cấm kỵ. Đây không phải là bức tranh khoả thân hoàn toàn. Bức tranh về nàng Kiều mới chính là :“Bức tranh khoả thân duy nhất trong văn học Việt Nam (…) Giải nhất trao cho Nguyễn Du” [92,149].

-Kiều bị đánh trong vụ kiện của Thúc Ông:

Vẽ chân dung Kiều bị đánh, Nguyễn Du dùng những sắc màu đậm điểm vào bức tranh nền để gây ấn tượng. Ông không dùng những nét vẽ chuẩn mà dùng những nét vẽ đệm thêm, nhoè ra, dùng nhiều đường gãy ”tiêu biểu cho sự đổ vỡ không an toàn nguy hiểm”[11,57]. Nhờ thế, nó đã diễn tả được những dấu vết của những trận đòn khủng khiếp nơi phủ đường. Một loạt những hình ảnh vốn tiêu biểu cho cái đẹp đã bị tàn phai được nhà thi hoạ dùng liên tiếp hỗ trợ cho nhau tạo được ấn tượng mạnh về sự đổi sắc, biến dạng. Bức tranh trở thành lời kết tội đanh thép về những kẻ không biết trân trọng cái đẹp, sẵn sàng vùi dập cái đẹp một cách tàn nhẫn:

Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.          (1426)
Phận đành chi dám kêu oan,                    (1427)
Đào hoen quyện má, liễu tan tác mày. (1428)
Một sân lầm cát đã đầy,                                      (1429)
Gương lờ nước thuỷ, mai gầy vóc sương.(1430)

Thân phận con ong cái kiến chỉ có con đường duy nhất là cam chịu, cam chịu đến mức tàn tạ cuối cùng.

-Kiều chết đuối được vớt lên từ sông Tiền Đường :

Khi hoạ thân chết trôi, Nguyễn Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ không cần thiết, chọn lọc những chi tiết đặc tả, xen vào đó lời bình luận trữ tình :

Trên mui lướt mướt áo là,                        (2707)
Tuy dầm hơi nước, chưa loà bóng gương. (2708)

Một đường nét “lướt mướt “cũng đủ vẽ bộ xiêm y ướt dầm rủ xuống thấm vào da thịt gợi ra những nét hư thực của thân thể đang bất động, buông xuôi. Giữa lúc ranh giới sống và chết thật mong manh ta mới càng thấy rõ giá trị của cái đẹp đích thực, vẻ đẹp tinh nguyên sáng trong của một giai nhân tuyệt thế ngày nào vẫn còn in dấu. Sống cũng đẹp và chết cũng đẹp. Không có tấm lòng trân trọng thương cảm, luôn luôn có ý thức tôn vinh cái đẹp thì không thể có cái nhìn đầy nhân văn như thế! Theo Xuân Diệu đây là hai câu thơ đầy dư ba “Thân Kiều nửa hư nửa thực, hồn Kiều nửa sống nửa chết, văn Nguyễn Du tả đẹp lạ thường !”[92,150]. Có thể xem bức vẽ trên là bức vẽ tĩnh và cái đẹp mang tính chất tiềm ẩn.

- Kiều đối diện với Kim trọng trong phần đoàn viên:

Vẻ đẹp của Kiều chỉ được vẽ bằng một nét bút với một sắc màu. Không phải là sắc trong của nước, sắc thắm của hoa, sắc xanh của núi, mà là sắc vàng của sen vào lúc cuối hạ. “Sen vàng” là một điển tích nói về người phụ nữ đẹp. Trong tư duy người Việt “hoa sen” vừa gợi lên được sự chịu đựng vừa khẳng định được giá trị cao khiết. Dù cuộc đời trầm luân đã nhai nghiến vẻ đẹp bên ngoài nhưng vượt lên tất cả là tấm lòng kiên trinh cao đẹp của nàng Kiều. Nàng như một đoá hoa sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ”:

Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra.(3008)

Miêu tả nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du thường đặt những hình ảnh trong sự đối sánh. Nếu trước kia là hoa là liễu, là thu thuỷ,  là mai cốt cách  thì nay là cúc buồn, mai gầy, đào hoan, liễu tan tác, gương lờ nước thuỷ. Những bức tranh trong sự đối sánh tạo nên một sự tiếp nối về một nhân vật với nhiều cảnh đời .

1-1-2) Chân dung Thuý Vân :

Khác với nhân vật Thuý Kiều, nhân vật Thuý Vân là loại nhân vật đề thêm để tôn thêm vẻ đẹp và gỡ rối cho Thuý Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến nhiều lần nhưng chỉ mang chất hoạ có một lần ở phần  đầu tác phẩm. Nhưng để tạo ra vẻ đẹp theo kiểu “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” không phải là chuyện dễ. Cũng với những“Môtif” hình tượng quen thuộc, khuôn mẫu ”Hoa cười, ngọc thốt, khuôn trăng, nét ngài...”, Nguyễn Du “còn đưa vào những từ ngữ nôm na nhưng nội hàm đa nghĩa, những từ ngữ đầy đặn, nở nang không chỉ miêu tả khuôn mặt phương phi tròn trịa, nét ngài minh bạch rõ ràng của Thuý Vân mà đây còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận” [10,23]. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn vận dụng hai khía cạnh quan trọng “Nhất dáng nhì da” trong những quan niệm quen thuộc của người phương Đông để tạo ra vẻ đẹp khác biệt :

Vân xem trang trọng khác vời,                   (19)
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.     (20)
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,               (21)
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da,  (22)

Vẽ Thuý Vân Nguyễn Du đi theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ dáng người đến khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoà về sắc màu, mềm mại về đường nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối, hoàn chỉnh cả điểm lẫn diện mà bức chân dung Thuý Vân trở nên viên mãn, sống đông, phúc hậu, mệnh phụ. Dù vậy, vẻ đẹp của Thuý Vân thiếu đi cái thần “đôi mắt”, nó thiên về vẻ đẹp khuôn thước mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và quyến rũ. Điều đó đã làm nên sự khác biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính cách: người thì hồng nhan bạc mệnh kẻ thì hạnh phúc ấm êm.

1-1-3)Chân dung  Kim Trọng :

Để tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn Du phác hoạ nhân vật Kim Trọng được trong khung cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy diễm lệ, thanh tao. Khung cảnh thiên nhiên đã trở thành cái phông màn tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, và ngược lại nhân vật làm cho bức tranh thêm sống động có hồn. Cái tài của Nguyễn Du là tạo ra một bố cục có chính có phụ: người -ngựa, thầy- tớ, con người-thiên nhiên, dưới một góc nhìn xa gần. Camera của thi hào đặc biệt chú ý đến cử chỉ từ tốn chậm rãi của một văn nhân thực thụ” lỏng buông, xuống ngựa, tới nơi, vào trong, ra ngoài”. Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt đến độ điêu luyện cao tay khi tạo ra sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của chiếc áo là sự hoà trộn giữa sắc biếc của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc ấy có được còn là sự kết hợp giữa tấm lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức tranh mang tính chất động, có gam màu mát trong đó màu xanh- xanh cỏ, xanh trời, xanh áo, xanh cây là sắc màu chủ đạo. Bên cạnh đó đường nét thể hiện sự vận động cũng được Nguyễn Du sử dụng thật tài tình. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim đã làm cho thiên nhiên thức dậy, bừng sáng, vận động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện, dung mạo của chàng, cử chỉ, phong độ của chàng làm “xinh đẹp của một vùng” (chữ dùng của Xuân Diệu) .

Khi hoạ những bức tranh nhân vật, Nguyễn Du ít khi để cho nhân vật bị trống trải đơn chiếc. Nhân vật này xuất hiện trong sự đối sóng với nhân vật khác-Thuý Vân -Thuý Kiều, Thúy Kiều – Từ Hải, Kim Trọng –Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan. Bức tranh sẽ trữ tình hơn khi có sự góp mặt của “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.”. Và Vương Quan xuất hiện đã trở thành chiếc cầu nối tình cảm của đôi trai tài gái sắc. Tiếng sét ái tình đến với họ thật tự nhiên, bất ngờ và thú vị. Thiên tài Nguyễn Du chẳng khác nào một “ông tơ” dẫn dắt khéo léo cuộc gặp gỡ của hai tâm hồn đồng điệu:

Tuyết in sắc ngựa câu dòn,                    (139)
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.        (140)
Nẻo xa mới tỏ mặt người,                     (141)
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.     (142)
Hài văn lần bước dặm xanh,                  (143)
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao. (144)

Nhìn toàn cục của bức tranh từ sắc màu đến đường nét, từ cử chỉ đến hình ảnh, từ thiên nhiên đến con người cái gì cũng nhẹ nhàng, hữu tình đáng yêu. Nói như Đặng Thanh Lê”Bóng tối âm khí nặng nề khi gặp Đạm Tiên trong đoạn thơ trước đã biến đi nhường chỗ cho ánh sáng của cuộc sống, của vẻ đẹp con người, của tình yêu đang hé mở” [10, 41].

Xây dựng bức chân dung về chàng Kim, Nguyễn Du đã có những phá cách đáng kể. Ngoài những phương diện cần thiết khi nói đến nhân vật thư sinh phong kiến như con tuấn mã, chú tiểu đồng, trang phục, gia thế, tài năng, học thức, Nguyễn Du còn xem trọng sự hài hoà giữa con người với vũ trụ, giữa con người bên trong và cử chỉ biểu hiện ra bên ngoài và nhất là những xao động của tâm hồn, những biểu hiện tình cảm kín đáo, những cảm giác lúc tỉnh, lúc mê, sự bịn rịn lưỡng lự giữa ở và về- về thì tiếc ở thì cũng chẳng xong. Có thể nói, ít ai tả được tác động dữ dội của tiếng sét ái tình ở những tâm hồn còn trắng trong như tờ giấy đang bắt đầu bước vào ngưỡng cửa tình yêu đúng và hay như thi hào :

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,                 (163)
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.       (164)
Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,                 (165)
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.   (166)
Bóng tà như giục cơn buồn,                    (167)
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo.   (168)

Ngay cả cái cử chỉ “Khách đà lên ngựa người còn ghé theo” đầy quyến luyến, bịn rịn, nuối tiếc nhưng họ đành bất lực trước sự vận hành của vũ trụ cũng đáng yêu làm sao!

Mở đầu một chuyện tình là khung cảnh thiên nhiên tươi sáng rộng mở và kết thúc cuộc gặp gỡ là một bức tranh thiên nhiên nhỏ nhắn, xinh xắn đáng yêu :

Dưới cầu nước chảy trong veo ,                             (169)
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.           (170)

Thiên nhiên đượm tình càng tôn thêm vẻ đẹp tình cảm của chàng Kim cô Kiều. Phải chăng tình cảm sáng trong của Kim-Kiều như dòng nước trong veo đang chảy dưới cầu. Và tình cảm ấy gắn bó khăng khít khó thể tách rời như cầu gắn với nước, tơ liễu gắn với bóng chiều. Nhưng dường như có một dự báo sự cách trở vì  ‘’Nước đi đi mãi không về cùng non’’. Có thể xem đây là một cuộc tạm chia tay cực đẹp để rồi sau đó Kiều-Kim phải thao thức mộng tưởng. Hành trình của chuyện tình cùng với nỗi khổ  của cô Kiều cũng bắt đầu từ đây.

Khác với Nguyễn Du, khi tả Kim Trọng Thanh Tâm Tài Nhân lại đi sâu vào sự chấn động của tâm hồn : ‘’Kim Trọng ngây ngất cả người, xiêu xiêu cả tinh thần, bụng bảo dạ : thế này thì mình đến tương tư chết mất, rồi chàng lẩm nhẩm tự thề không lấy được Kiều thì suốt đời không lấy ai nữa.
Vì có Vương quan đấy, không tiện nán ở lại lâu, Kim Trọng đành phải qua loa cáo từ lui gót.
Vương viên ngoại cũng sai người đến đón hai nàng lên kiệu’’

- Cũng là bức vẽ về Kim Trọng nhưng đây lại là bức vẽ mang tính chất cách điệu:

Hiên sau treo sẵn cầm trăng,                  (467)
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.   (468)

Nét hoạ “Tay nâng ngang mày ” thể hiện thái độ trân trọng thán phục trước tài đàn, một trong bốn tài năng – cầm kỳ thi hoạ đã trở thành nức tiếng của người con gái họ Vương. Không chỉ là sự thán phục, bức vẽ còn muốn bổ sung thêm một thông tin cần thiết về chàng Kim. Chàng văn nhân hào hoa phong nhã không chỉ là một con người chỉ biết yêu cái đẹp của văn chương mà còn là một con người rất am hiểu và sành điệu nghệ thuật âm nhạc. Người đọc sẽ chẳng ngạc nhiên khi Kim Trọng có rung cảm mạnh mẽ, đưa ra những nhận định xác đáng khi nghe tiếng đàn của cô Kiều.                         

1-1-4)Chân dung Từ Hải:

Nếu Kim Trọng hiện ra trong sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong đêm thanh tĩnh gió hây hây thổi, không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức chân dung đã có thêm nét tối sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với chất huyền thoại của nhân vật. Bút lực của Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà dồn vào đường nét. Nét bút có đường nét to và rất mạnh mẽ ”râu hùm, hàm én, mày ngài”, phóng bút nhiều chiều, chiều ngang –vai năm tấc rộng, chiều dọc –thân mười thước cao; chiều cao-đội trời và chiều thấp - đạp đất. Thật  đúng khi cho rằng “tác giả muốn làm cho không gian chung quanh Từ Hải rộng thêm ra, từ mặt người, từ bóng dáng, từ tài năng phát tia ra, nên đã đặt nhiều dấu huyền, bởi thanh có dấu huyền không đứt gọn như thanh không dấu, mà nhoà rộng ra… ” [92, 267]. Cũng là “ngài” nhưng đối với Thuý Kiều, Nguyễn Du vẽ “nét ngài” còn Từ Hải là ”mày ngài”, một bên chỉ là đường nét, còn một bên lại là hình thể của sự vật ; một bên là sự mềm mại còn một bên là sự mạnh mẽ kiên quyết. Điểm vào chân dung nhân vật là những phụ bút như gươm đàn làm tăng thêm chất hào hùng, tài năng phi thường của Từ Hải. Ngoài những hình ảnh tượng trưng ước lệ thường gặp trong những bức tranh miêu tả nhân vật anh hùng ’’râu hùm, hàm én, mày ngài...’’, Nguyễn Du còn tạo ra một không gian đầy chất huyền thoại, tiết điệu ngắt bất ngờ ‘’bỗng đâu’’để tạo ra nét riêng biệt của người anh hùng -bất ngờ trong sự xuất hiện và cũng rất bất ngờ trong sự quyết định chọn người tình lý tưởng. Một con người dám ‘’chọc trời khuấy nước’’ sẽ có một chuyện tình dị thường hiếm có là lẽ đương nhiên, là sự lôgic của một tính cách.

Ngoài ra, khi hoạ chân dung nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du rất lưu ý đến cấu trúc cân đối-cân đối về hình ảnh-râu, hàm, mày- vai, thân, cân đối về nhịp điệu- câu lục nhịp thơ 2-2-2 câu bát lại  nhịp thơ 4-4, và cân đối cả về mặt ngôn ngữ- những từ Hán Việt ‘’anh hào, côn quyền, lược thao‘’ tạo nên sự trang trọng và những từ thuần Nôm tạo nên sự gần gũi, đời thường.

-Chân dung Từ Hải lúc ngồi ghế quan toà:

Vẻ đẹp kiêu hùng và tài năng tuyệt đỉnh của họ Từ càng được tô đậm hơn qua bức tranh ngồi ghế quan toà:

Quân trung, gươm lớn, giáo dài,         (2311)
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi .  (2312)
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,                  (2313)
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.   (2314)
Trướng hùm mở giữa trung quân ,       (2315)
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.(2316)

Đây có thể xem là bức họa về cảnh đoàn quân chiến thắng trở về và đang chuẩn bị xử án.Vì thế, Nguyễn Du dùng nhiều nét nhọn, nét thẳng đứng, nét ngang gợi lên cảnh tượng giáo gươm tua tủa, đoàn quân nghiêm trang, hào khí ngất trời, uy thế dữ dội. Bức tranh được thiết kế theo kiểu cái phụ làm rõ cái chính, cảnh tượng chung quanh làm rõ nhân vật trung tâm -Từ Hải –Thuý Kiều. Từ một vị thế của kẻ tôi đòi trước kia, Kiều đã hoá thân thành vị “phu nhân mệnh phụ”, kẻ xử án. Một sự hoá thân như có phép màu, phép màu đó không do một lực lượng siêu nhiên nào mà do chính  đấng anh hùng luôn lấy công lý làm đầu, nghĩa tình làm trọng tạo dựng.

Mặc dù trong cuộc báo ân báo oán, Nguyễn Du vẽ nhân vật Từ Hải nhạt hơn nhân vật Thuý Kiều nhưng không vì thế người anh hùng trở thành nhân vật thứ yếu trong bức tranh xử án. Nguyễn Du rất tinh tế khi để cho Từ Hải tuyên bố“Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh.”. Rõ ràng Từ Hải không phải là người chỉ biết đến cái chung mà rất trân trọng việc riêng của Kiều. Vì chỉ có Kiều mới xử đúng người đúng tội. Có chăng cái uy của Từ Hải đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra cái uy của chủ toạ phiên toà? Từ Hải có thể xem là người thiết kế còn Kiều chính là người thi công.

-Chân dung Từ Hải chết đứng :

Kiêu hùng bao nhiêu Từ Hải lại chết một cách oan nghiệt bấy nhiêu. Bức hoạ về hình tượng người anh hùng chết đứng lại mang chất hoạ khác. Đây là bức hoạ tĩnh giàu chất điêu khắc có đường nét cứng. Thi hào như muốn tạc tượng một huyền thoại anh hùng khao khát tự do trong cái xã hội mà cái đẹp và tài năng không có đất tồn tại :

Khí thiêng khi đã về thần,                              (2519)
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! (2520)
Trơ như đá, vững như đồng ,                                   (2521)
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.         (2122)

Từ Hải thua trong thế thắng, chết nhưng còn sống mãi với đời. Hình tượng chết đứng đầy oan thiêng của Từ như một lời tố cáo đanh thép cái xã hội: Lẽ phải và chiến thắng thuộc về kẻ có quyền và sự gian trá. Vài trăm năm sau chúng ta lại bắt gặp hình tượng người anh hùng chết đứng trong thơ Lê Anh Xuân:

Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất,
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng.
Anh đang chết trong khi đang đứng bắn,
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vòng.

1-1-5) Chân dung người khách viễn phương:

Nhân vật người khách viễn phương không rõ tên tuổi quê quán, nghề nghiệp, xuất hiện gián tiếp thoáng qua thông qua lời kể của Vương Quan nhưng vẫn gây ấn tượng. Nhân vật này tạo thành bộ ba nhân vật nam chính diện-Từ Hải, Kim Trọng, người khách viễn phương. Mỗi người mỗi tính cách. Từ Hải hào hùng dũng mãnh ngang tàng, rộng lượng, Kim Trọng hào hoa phong nhã, thuỷ chung còn người khách viễn phương rất cao thượng. Khi họa bức chân dung người khách viễn phương, Nguyễn Du không đi sâu vào diện mạo mà chú trọng đến cử chỉ, hành động để làm tóat lên nét đẹp tâm hồn. Chỉ một vài biểu hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo ”xa nghe, tìm đến”, “Sắm sanh nếp tử, xe châu”(77), thể hiện sự đau đớn xót xa ”khóc than“ và đặc biệt hành động vội vội vàng vàng “vùi nông” khi chôn cất thi hài Đạm Tiên, nhân vật này đã để lại những dư vị ngọt ngào trong lòng người đọc. Là một kẻ đến sau nhưng lại là người biết ra tay hành động, đó chính là phẩm chất của một con người biết trân trọng cái đẹp, sự tài hoa. Người khách viễn phương cảm kích và mến phục sứ giả Đạm Tiên cũng đúng thôi. Bởi lẽ, Đạm Tiên, một nhân vật được không ít người ngưỡng vọng. Trong khi dẫn giải, Vương Quan đã hết lời ngợi ca “Nổi danh tài sắc một thì,”(63). Và hồn ma Đạm Tiên cũng được Nguyễn Du vẽ bằng những nét vẽ rất thanh tao” Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.”(180). Ở nhân vật người khách viễn phương có nét gần gũi với nhân vật Từ Hải. Cả hai đều xuất phát từ cái tâm sáng, sẵn sàng dẹp bỏ những định kiến hẹp hòi để cảm thấu số phận bi kịch của những người làm gái lầu xanh, làm nghề xướng ca vô loài.

1-2)Nhân vật phản diện :

Đối với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mỉ trang trọng. Chỉ cần vài ba nét phác hoạ ông để  lại những ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Lộc đã nhận xét: “Nguyễn Du cố gắng làm cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực(…) Đặc biệt bút pháp của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất hiện thực xã hội chủ nghĩa” [49,400]. Dưới góc nhìn của hội hoạ, ta thấy những nhân vật lọai này thường được Nguyễn Du dùng những sắc màu nhợt nhạt, đường nét mang tính chất chấm phá, khai thác tính chất mất cân đối trái tự nhiên để làm rõ tính cách nhân vật.

1-2-1) Chân dung Tú Bà:

Nhân vật Tú Bà hiện ra chỉ bốn nét bút với một sắc màu hai đường nét :

Thoát trông nhờn nhợt, màu da,        (923)
Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm sao?         (924)
Trước xe, lơi lả han chào ,                 (925)

Hoặc :                         

Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.(950)

Không phải là đường nét mềm mại uyển chuyển, sắc trắng đẹp đẽ tinh nguyên như Thuý Vân, Thuý Kiều mà đây là màu trắng hơi vàng, nhợt nhạt do ở nơi tăm tối, đường nét chệch choạc mất tính cân đối, vượt khuôn khổ cho phép “to lớn đẩy đà”, trái ngược với quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng, dáng ngồi rất chủ chứa “vắt nóc”, ngôn ngữ đưa đẩy. Chỉ cần bốn nét vẽ, đặc biệt là nét vẽ ”nhờn nhợt”, vừa gợi lên được màu da tạo được cảm giác ghê tởm, vừa thể hiện được quá khứ giang hồ, thi hào Nguyễn Du đã nói đúng một trong những nét rất đặc trưng của những bà chủ chứa kiểu mẫu chính hiệu”đẫy đà xác thịt”(chữ dùng của Hà Như Chi). Nhưng nếu bức hoạ này đựơc một hoạ sĩ tài ba vẽ lại thì sao? Nguyễn Văn Hạnh đã kết luận:”Hoạ sĩ chỉ có thể vẽ một mụ Tú Bà cao lớn to béo, màu da nhờn nhợt, với kích thước, sắc độ như mình muốn, nhưng chỉ được trên từng bức tranh cụ thể một kích thước, sắc độ nhất định mà thôi. Và người xem chỉ tiếp xúc một hình thể Tú Bà hoàn toàn xác định. Còn trong trí tưởng tượng của người đọc thì hình tượng Tú Bà do Nguyễn Du tạo nên không hoàn toàn xác định. Và ở các người đọc khác nhau, các lần đọc khác nhau, lại có những mụ Tú Bà kinh tởm khác nhau, những mức độ nhờn nhợt cao lớn, đẩy đà khác nhau” [57,12]. Điều mà Nguyễn Văn Hạnh khẳng định đó chính là sự đồng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận văn học. Và điều này có lẽ không chỉ đúng với nhân vật Tú Bà mà còn đúng với quá trình tiếp nhận những nhân vật khác.

1-2-2)Chân dung Mã Giám Sinh:

Đây là một con buôn đội lốt nho sinh trường Quốc tử Giám. Bản chất lỗ mảng bịp bợm lái buôn được Nguyễn Du phác hoạ bằng ba nét vẽ thần tình theo quan niệm “xem mặt mà bắt hình dong” - mày râu tỉa tót cẩn thận, áo quần thẳng thớm và vị trí ngồi ở chỗ cao để xem hàng cho rõ “ngồi tót”.

So với Sở Khanh, nhân vật Mã Giám Sinh đóng kịch tài hơn nhiều. Hắn đã dàn dựng lễ vấn danh y như thật với những nghi lễ theo phong tục truyền thống “Sính nghi, canh thiếp, nạp thái vu quy”. “Vải thưa không thể che mắt thánh”, dưới ngòi bút thần tình của thi hào, hắn không thể giấu hết tất cả những kẽ hở vốn có của những kẻ gian xảo. Nguyễn Du cho hắn hiện ra từ từ ”Ngồi tót, đắn đo, cân sắc, cân tài, ép, thử, cò kè, ngã gía, định ngày” rồi điểm huyệt đúng ngay vào những chỗ hắn che đậy không kín kẽ- xa hắn nói gần, mua người về lầu xanh hắn nói “mua ngọc đến Lam Kiều”, đứng tuổi nhưng lại làm ra vẻ trai tơ bảnh chọe, cò kè mặc cả, ép, thử mà lại bảo đi kiếm vợ lẽ ? Bản chất lái buôn càng thể hiện rõ hơn khi hắn phát ngôn. Lúc sự việc chưa ngã ngũ hắn phát ngôn rất nhũn nhặn” Rằng:”mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?””, nhưng đến lúc nắm thế thượng phong hắn phát ngôn thật lạnh lùng” Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Và đây chính là lúc con buôn họ Mã đã lộ nguyên hình. Như thế vẫn chưa đủ, Nguyễn Du còn phác hoạ thêm những bức phụ hoạ về một lũ nhỏ loi choi lóc chóc. Thầy trò họ Mã, đúng là một đám người lăng xăng lít xít, lộn xộn, láo nháo, vô học, thiếu văn hoá:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,                           (627)
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.        (628)
Trước thầy, sau tớ lao xao,                            (629)
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang.      (630)
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng ,                            (631)

Nói chung, khi xây dựng nhân vật Mã Giám Sinh, bút lực của Nguyễn Du dồn vào việc vạch trần mâu thuẫn giữa chức danh của tên họ Mã và bản chất lái buôn bịp bợm thị của khinh người, sự trái khuấy giữa tuổi tác và dáng vẻ, giữa lời nói và việc làm. Cùng với một số nhân vật phản diện khác, nhân vật Mã Giám Sinh đã góp phần tạo thành một chuỗi nhân vật có tính cách tương cận: Tú Bà –chủ chứa, tàn bạo, Mã Giám Sinh - lão luyện chuyên săn lùng nguồn hàng, Sở Khanh- tên ma cô điểu cáng chuyên dắt gái và bảo kê. Chúng là những nhân vật tiêu biểu cho những ổ chứa và tất cả “đều bộc lộ mối quan hệ mờ ám, mơ hồ bất minh ”(Chữ dùng của Đặng Thanh Lê)

1-2-3)Chân dung Sở Khanh:

Đây lại là một tên ma-cô sống bám lầu xanh, sống trên thân xác của người phụ nữ như một loại chùm gửi. Bức hoạ về tên lưu manh này khác với bức hoạ về tên họ Mã. Đối với Mã Giám Sinh “xem mặt” có thể “bắt hình dong” nhưng đối với họ Sở lại khác, bởi lẽ những đường nét về dáng người phục trang của hắn khá thanh tao:

Một chàng vừa trạc thanh xuân,                    (1059)
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.   (1060)                                                                       
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào !            (1126)

Nhân vật Sở Khanh có dáng vẻ của ”một nhà nho nhưng ngay trong hình dáng đã có cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là một nhà nho chân chính” [42,470].

Sở Khanh là một kiểu người “Vừa ăn cướp vừa la làng”, vừa táo tợn vừa tỏ vẻ nhẹ nhàng khiếm nhã. Chẳng mất gì mà hắn vừa kiếm được chì vừa kiếm được chài. Khi Kiều vạch rõ chân tướng cũng là lúc sự trơ trẻn của hắn được phơi bày ”Nhơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui.”(1188). Dưới ngòi bút Nguyễn Du, Sở Khanh đã trở thành“lưu danh thiên cổ”(Chữ dùng của Hoài Thanh). Sự táo tợn của hắn còn hơn cả chàng Đông-juan của văn học phương Tây.

Có một nét rất chung về hai bức hoạ Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Vẽ hai nhân vật này Nguyễn Du chỉ dùng đường nét chứ không dùng tới màu sắc. Màu sắc được gợi lên qua trí tưởng tượng của từng người tiếp nhận.Và cả hai bức hoạ đều có hai nét vẽ xuất thần :“rẽ dây cương” và “ngồi tót sỗ sàng”. Hai nét vẽ truyền thần cũng là hai tính cách của hai nhân vật: lỗ mảng của Mã Giám Sinh và tráo trở của Sở Khanh.

1-2-4)Chân dung mẹ Hoạn Thư :

So với các nhân vật khác, nét vẽ về mẹ Hoạn Thư có thêm nét mới. Nhân vật Họan Bà được bố trí như một tượng thần trong khung cảnh màn che trướng phủ đèn thắp sáng. Khác với lối ngồi “Vắt nóc” của bà chủ chứa, mẹ Họan Thư có cung cách ngồi trực diện rất bệ vệ. Trong bức tranh:

Ban ngày, sáp thắp hai bên,                       (1723)
Giữa gường thất bảo, ngồi trên một bà.   (1724)

Nguyễn Du đã thể hiện được cái tài phối cảnh, phối màu để làm rõ tính chất của nhân vật, khung cảnh sống đế vương của những gia đình quyền lực trong xã hội ngày xưa. Anh sáng của đèn “sáp thắp” hai bên gợi lên sự thâm nghiêm uy quyền và làm hiện rõ sự giàu có “giường thất bảo”. Và kẻ có nhiều quyền lực đang thụ hưởng cuộc sống vương giả ấy không ai khác là mẹ họan Thư . Bà chính là nhân vật kiểu mẫu cho những quan bà trong cái xã hội “Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon”. Chúng vô ngôn nhưng độc địa nham hiểm, sẵn sàng bày mưu chỉ kế đốt nhà, bắt người hành hạ cho thoả thích. Ngoài tính chất hiện thực bức vẽ về nhân vật mẹ Hoạn Thư còn mang tính chất “trào phúng” [42,758]

1-2-5)Chân dung Hoạn Thư:

Đới với nhân vật Hoạn Thư, Nguyễn Du không hoạ tác một bức chân dung đầy đủ và cụ thể về dáng vẻ bên ngoài như một số nhân vật khác. Điều này cũng hợp lý vì Hoạn Thư là loại nhân vật mang tính chất duy lý, khôn ngoan sắc sảo. Tất cả mọi hành động lời nói, kế sách đốt nhà bắt cóc, bịt miệng bọn tôi tớ đến việc chờ đợi thời cơ, cách thức hành hạ Thuý Kiều, đưa Thúc Sinh vào tròng, biện minh trước chủ toạ phiên toà, Hoạn Thư đều tính toán một cách chu đáo, kỹ càng và đạt hiệu quả.

Do chân dung Hoạn Thư không mang tính tập trung ở một một đoạn thơ cụ thể cho nên người đọc muốn xem rõ chân dung nhân vật này phải tập hợp một số chi tiết qua một chuỗi dài sự kiện”thơn thớt nói cười, cười nụ, nhón chân đứng nép, rẽ hoa bước vào, lại thét lấy nàng, nổi giận đùng đùng”. Tất cả đã làm hiện lên một khuôn mặt trẻ tươi nhưng không kém phần sắc sảo, bản lĩnh và sẵn sàng biến thái khi cần thiết dáng người thon thả, cử chỉ từ tốn, trí tuệ khôn ngoan. Hoạn Thư có sự kết hợp khéo léo giữa  con người tình cảm (ghen tuông) và con người lý trí (kiềm chế tính ghen), giữa sự tuân phục và sự phản ứng chế độ đa thê. Hoạn Thư chính là bản sao có sáng tạo của nhân vật bà Hoạn Quan. Có chăng, Nguyễn Du muốn san bớt sự tàn bạo ở nhân vật Họan Thư sang Họan Bà?

1-2-6)Nhân vật Hồ Tôn Hiến:

Trong các nhân vật xuất hiện, đây là nhân vật có quyền uy cao nhất, nhân vật được đặt trong thế đối đầu với Từ Hải. Đối với nhân vật này nét vẽ của Nguyễn Du có gì lạ?
Nghe càng đắm, ngắm càng say,    (2579)
Lạ thay mặt sắt, cũng ngây vì tình. (2580)

So với những bức vẽ chân dung nhân vật có lẽ đây là một trong những bức vẽ thành công và đặc sắc. Đường nét và sắc màu mang nội hàm ý nghĩa rất lớn. Nguyễn Du rất tinh tế khi thực hiện những nét vẽ  về sự thay đổi của từng ánh mắt, độ co giãn của từng sắc mặt: nghe-đắm, ngắm-say-ngây để làm rõ bản chất háo sắc của một tên quan lắm quyền. Là một kẻ ”kinh luân gồm tài” từng xông pha trận mạc vậy mà trước mặt Thúy Kiều hắn đã bị mất phương hướng-tình cảm bị cuốn hút, lý trí hết hiệu lực và cuối cùng đờ đẫn ngây dại. Nói như Hoài Thanh”Nguyễn Du đã giết Hồ Tôn Hiến bằng một chữ “ngây” cũng như giết Sở Khanh bằng chữ “lẻn”. Trong bao nhiêu người mê Kiều, Nguyễn Du đã dành riêng chữ “ngây” cho Hồ Tôn Hiến”[42,474]

Đặc biệt, trong bức chân dung về Hồ Tôn Hiến chúng ta còn tìm thấy những bức tranh nhỏ đặt cạnh nhau, tiếp nối nhau và thậm chí trái ngược nhau” mặt sắt- ngây”. Cách sắp xếp đó đã góp phần không nhỏ trong việc tô đậm tính cách nhân vật, tạo ra sự khác biệt trong việc thực hiện các bức chân dung nhân vật.

Chọn vẽ Hồ Tôn Hiến vào thời điểm Từ Hải chết trận, Kiều phải dâng rượu hầu đàn, Nguyễn Du như muốn khẳng định sự đối nghịch về đạo đức: đê hèn, xảo quyệt, vụ lợi điểu cáng hòan tòan tương phản với cái đẹp của sự hy sinh, lòng trung thực, sự thuỷ chung. Kiều khuyên Từ ra hàng là xuất phát từ cái đức. Hồ Tôn Hiến lật lộng đánh lén để chiến thắng và bắt vợ của người chiến bại hầu rượu mua vui là phi đạo đức. Rõ ràng chất người của Kiều càng cao thì chất người của Hồ Tôn Hiến càng không có.

Cũng là bức vẽ về nhân vật Hồ Tôn Hiến nhưng bức vẽ:

Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,                                 (2453)
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung. (2454)

thì  “người ta thấy hoạ sĩ vẽ bức tranh này là một nhà hoạt hoạ trào phúng đến ghê gớm! Tiện nghi, bát liễu, việc ngoài, đổng nhung, thanh la, não bạt đập gõ loèng xoèng, nhưng mi là một tên gian đối…” [92,115].

Hình ảnh tên quan tổng đốc trọng thần gợi ta nhớ đến ông quan phủ xử kiện Thuý Kiều:

Trông lên mặt sắt đen sì,                           (1409)
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời:      (1410)

Cũng là “mặt sắt” nhưng ông quan xử kiện không có sự biến thái nhanh chóng. Bổ sung thêm định ngữ ”đen sì”, Nguyễn Du muốn nói đến một ông quan “chính trực và oai nghiêm”. Nhưng ở ông có sự xen lẫn giữa cái nghiêm minh lạ đời – đánh người tàn nhẫn và sự cảm thông trước hoàn cảnh, thán phục trước tài năng không được thi thố của Kiều.

Còn một tên quan nữa, đó là tên quan “cướp ngày”. Hắn chẳng cần tra khảo mà chỉ:

Rường cao rút ngược dây oan,      (593)
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người!  (594)

“Thần công lý chỉ dịu cơn thịnh nộ khi nghe thấy có mùi tanh của hơi đồng “Có ba trăm lạng việc này mới xong ”[49, 371]

1-2-7) Chân dung bọn sai nha:

Đây là bọn người tôi tớ tay sai, vũ khí ”pháp luật” của kẻ có quyền. Để cho chúng xuất hiện, Nguyễn Du như muốn làm rõ thêm sức mạnh vạn năng của đồng tiền, bản chất của xã hội “Có ba trăm lạng việc này mới xong” hay “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Đối với bọn sai nha, Nguyễn Du hoạ tác bằng những nét vẽ dị hợm nửa người nửa ngựa, hành động theo bản năng- chửi, trói, vét với những đồ nghề chuyên gây án ”thước, đao, già giang ”. Sự xuất hiện của bọn người “Đầu trâu mặt ngựa ”đã làm cho cái không khí vốn yên bình đầm ấm ngăn nắp của gia đình Vương Viên Ngoại bỗng trở nên lộn xộn nhốn nháo rối tung. Tương phản với sự bàng hoàng sửng sốt của cha con Vương Ông là những tiếng la, tiếng chửi, tiếng đồ đạt bị lật tung và bị vét “ sạch sành sanh ”. Với ba âm thanh ngày càng vang động dữ dội “xôn xao, ào ào, vang tiếng ”, ba hành động “ào ào như sôi, buộc hai thân hình, vét cho đầy túi tham”, ba hình ảnh đặc tả ”Nách thước, tay đao, đầu trâu mặt ngựa”, Nguyễn Du đã lột trần bản chất tàn bạo độc ác, tham lam, hung hăng, dữ tợn của bọn người bất chấp công lý. Nói như Nguyễn Lộc “Công lý của bọn chúng là công lý của bọn đầu trộm đuôi cướp”[49, 371]

1-3)Nhân vật trung tính:

Chân dung Thúc Sinh:

Xếp nhân vật Thúc sinh vào loại nào cho đúng? Có thể xem đây là một loại nhân vật trung tính, một loại người đa tình nhưng bạc nhược, một nhân vật vừa có mặt tốt vừa mặt chưa tốt. Chính cái mặt tốt và mặt chưa tốt của Thúc Sinh mà chất người ở nhân vật này thể hiện đậm nhất. Là một người có vợ Thúc Sinh phải làm sao đây trước một Hoạn Thư con nhà quyền thế? Có lẽ ta cũng không nên đòi hỏi gì hơn ở nhân vật này.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, tính cách của Thúc Sinh thể hiện ở nhiều tình huống:

Tiểu thư vội thét:”Con Hoa!                         (1843)
Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta có đòn!” (1844)
Sinh càng nát ruột, tan hồn,                        (1845)
Chén mời, phải ngậm bồ hòn, ráo ngay!   (1846)

Nhưng có lẽ chất họa thể hiện rõ nhất về nhân vật này là lúc Thuý Kiều có dịp báo ân báo oán:

Cho gươm mời đến Thúc Lang,               (2325)
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.   (2326)

Với một sắc màu có pha tạp (xanh pha tím) thể hiện sự biến thái của sắc mặt và một đường nét run rẩy (dẽ run –một loài chim có mỏ dài, cái đuôi luôn phe phẩy) thi hào đã khắc hoạ một tính cách tiêu biểu cho một loại người trong xã hội– khoác lác nhưng nhu hèn sợ vợ. Đây là một kiểu nhân vật không hoàn toàn trùng lặp trong tác phẩm. Trước Thúc ông, Thúc Sinh xử sự “như một kẻ ăn vụng bị bắt quả tang”(Chữ dùng của Lê Đình Kỵ), trước pháp đường Thúc Sinh khóc lóc tự oán trách mình, trước Thuý Kiều hắn cho Hoạn Thư là người nham hiểm, trước Hoạn Thư hắn xem Thuý Kiều là người không quen biết. Khi Thuý Kiều “đưa gươm mời đến Thúc Lang” hắn run lẩy bẩy” nhưng đến khi Thuý Kiều trả ơn hắn “mừng sợ khôn cầm”. Nhân vật Thúc Sinh là sự tổng hợp giữa ba dòng máu Thúc sinh –Sở Khanh –Kim Trọng. Lê Đình Kỵ nhận xét thật đúng:”Thúc Sinh cũng có chút máu Kim Trọng trong người, nhưng sự việc xảy ra sẽ biến dần y thành một tên Sở Khanh không hơn không kém.”[42,707].

Nói chung, có bao nhiêu nhân vật là có bấy nhiêu bức vẽ. Nhiều khi chỉ một nhân vật nhưng lại có nhiều bức vẽ khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm hoàn thiện tính cách. Vẽ chân dung nhân vật, đối với Nguyễn Du không chỉ  thông qua sự quan sát, óc liên tưởng mà còn vẽ bằng cả tâm hồn trái tim. Nhờ vậy, mỗi sắc màu, mỗi đường nét đều có giá trị ngữ nghĩa sâu sắc. Và đằng sau những bức vẽ, ta như thấy thấp thoáng số phận và cả một phần đời nhân vật được gởi gắm trong đó.

Đặc biệt, sự thần tình của Nguyễn Du là đã tạo ra những bức chân dung có sức sống vĩnh viễn và trở thành những qui ước đánh giá của xã hội. Ông đã sáng tạo ra “Những con người thực hơn những con người thực” [27,193]. Nhắc đến cái tên Sở Khanh là ta nghĩ ngay đến một tên lưu manh lừa lọc. Nhắc đến cái tên Tú Bà là ta nghĩ ngay đến một bà chủ chứa chuyên nghiệp. Nhắc đến cái tên Mã Giám Sinh là ta nghĩ ngay đến một tên buôn người có cỡ. Và chỉ nghe đến cái tên Hoạn Thư là ta nghĩ ngay đến kiểu ghen độc đáo có một không hai. Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh ....vốn là những danh từ riêng giờ đây lại trở thành những danh từ chung chỉ những hạng người trong xã hội. Phải là người có vốn sống phong phú, lượng ngôn từ đầy ắp, rất am hiểu nghệ thuật hội hoạ, Nguyễn Du mới phác hoạ được những bức chân dung đa dạng và có sức sống  như vậy .

2) Chất hoạ trong  những bức tranh  phong cảnh:

Trong văn chương từ cổ chí kim, những bức tranh phong cảnh dường như không bao giờ vắng mặt nếu không muốn nói là tràn ngập. Xuất phát từ quan niệm, cách nhìn, mỗi thời đại có phương thức thể hiện khác nhau. Nếu văn học thời hiện đại ít dùng tới những hình ảnh ước lệ, đòi hỏi tính đột phá trong sáng tạo của người nghệ sĩ thì văn học truyền thống lại hay dùng tới những công thức - hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, thường tả cảnh xen tình. Đối với Nguyễn Du, mặc dù chưa thoát khỏi đường ray của thời đại nhưng ông cũng có những bức tranh phá khổ đi trước thời đại. Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh, tả tình trong thơ Nguyễn Du, nhà nho Đào Nguyên Phổ trong bài tựa bản Đoạn Trường Tân Thanh năm 1902 có viết: ”Nói tình thì vẽ hình trạng hợp ly tân khổ mà tình không rời cảnh; tả cảnh thì bầy hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa mà cảnh tự vương tình ”, còn Lê Trí Viễn thì cho rằng :“Cảnh vật dường như một nhân vật luôn luôn có mặt, một nhân vật im lặng nhưng hiểu thấu tâm trạng con người ….”[27,193).

Xuất phát từ góc độ chuyên môn, hoạ sĩ Nguyễn Tiến Chung đã cho rằng”Sự tương quan giữa cảnh trong thơ ông có lúc hoà hợp, uyển chuyển, cũng có khi tương phản nhau, nhưng cái nọ thường làm nổi bật cái kia, hình này nói hộ hình khác, tất cả nhằm nói lên một tâm tình. Cách bài trí thiên nhiên trong thơ ông dường như lúc nào cũng có trọng tâm, có bối cảnh chủ đạo. Hình tượng nào cần làm lộ rõ ông cho gần lại; hình tượng nào thứ yếu thì đẩy lùi xa và cho mờ nhạt đi, nhưng mọi hình tượng đều ăn khớp với nhau.”[61,79]

Nghiên cứu những bức tranh tả cảnh trong Truyện Kiều, ta nhận thấy rằng: khi hoạ những bức tranh phong cảnh, Nguyễn Du thường vẽ bằng những nét chấm phá ít đi sâu vào chi tiết. Đặc biệt cảnh vật được miêu tả thường bị chi phối bởi quan niệm nghệ thuật, cảm quan của con người và thông qua lăng kính nhân vật:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,              (1244)
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!   (1245)


2-1) Cảnh xuân, hạ, thu, đông:

Trong văn học từ xưa đến nay có không ít những bức tranh tuyệt tác về xuân, hạ, thu, đông-”Xuân hiểu” Trần Nhân Tông, “Mùa xuân chín” Hàn Mặc Tử “Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm” Nguyễn Khuyến,”Đây mùa thu tới” Xuân Diệu, “Tiếng thu” Lưu Trọng Lư, “Vịnh mùa Đông” Nguyễn Công Trứ, “Mùa hạ” Xuân Quỳnh…. nhưng chỉ có Truyện Kiều bức tranh tứ bình mới được hoàn chỉnh và không kém phần độc đáo.
Cũng dựa vào qui luật vận hành của thiên nhiên vũ trụ - xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn nhưng Nguyễn Du còn sắp xếp những cảnh này sao cho phù hợp với những cuộc gặp gỡ, chia tay, tính chất của từng mối tình. Tình yêu Kim- Kiều chớm nở vào mùa xuân; cuộc chia tay Kiều- Thúc, cuộc bỏ trốn của Thuý Kiều với Sở Khanh rơi vào mùa thu...

-Mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của lễ hội, nó là cái mốc quan trọng trong câu chuyện tình trai tài gái sắc. Kim, Kiều gặp nhau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, hai bức hoạ này có gì khác nhau trong những nét vẽ và sắc màu?

Trước hết là bức hoạ mùa xuân khi hai chị em Thuý Kiều du xuân. Đây là bức hoạ với những gam màu mát, đường nét mềm mại, đúng theo qui ước của hội hoạ ”màu lạnh -lam, xanh …thường tạo cảm giác mát mẻ…đường lượn êm dịu tạo cảm giác yên bình ” [11,59]. Cảnh có sắc xanh của cỏ non trải dài như mở ra một không gian vô tận, có sắc trắng của bông hoa lê điểm xuyết, có sắc vàng dịu nhẹ của ánh nắng mặt trời vào độ tháng ba tiết thanh minh, có đường nét nhẹ nhàng êm ái của chim én, có sự vận động khẩn trương của thời gian, có không gian của chiều cao, chiều rộng và chiều ngang, có cái diện để rõ cái điểm. Bức tranh rất phương Đông thật thông thoáng, cân đối, hài hòa tươi mát, sống động như chính sự sống động của tâm hồn, của tuổi xuân hoà hợp với cảnh xuân về:

Ngày xuân con én đưa thoi ,                              (39)
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.  (40)
Cỏ non xanh rợn chân trời,                                (41)
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.            (42)

Khác với bức tranh xuân dân dã trong thơ Nguyễn Trãi “Độ đầu xuân thảo lục như yên. Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên...”(Trại đầu xuân độ), rất nông thôn trong thơ Nguyễn Bính ”Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh. Tôi đợi người yêu tới tự tình. Khỏi luỹ tre làng tôi nhận thấy. Bắt đầu là cái thắt lưng xanh....”(Muà xuân xanh), rất sống động trong thơ Hàn Mặc Tử ”Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời…”(Mùa xuân chín), bức tranh xuân trong thơ Nguyễn Du đài các, quí phái hơn. Bởi lẽ ngoài sắc cỏ, bức tranh còn được điểm xuyết bằng những nét vẽ về bông hoa trắng trên cành hoa lê. Hai mảng màu xanh trắng tạo nên »sự tương phản thẩm mỹ rất táo bạo, màu trắng muốt của hoa lê nổi bật»[55, 111]. Không chỉ khác nhau về tính chất những bức vẽ còn khác nhau về đường nét. Nguyễn Bính nặng về nét tĩnh; Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử nặng về nét động khẽ khàng êm ái hư thực ; Nguyễn Trãi lại dùng nét động mạnh mẽ’’ thuỷ phách thiên’’. Ngay cả cái sắc màu của cỏ cũng khác nhau: xanh nhạt chuyển sang đậm (thơ Nguyễn Trãi), xanh non mơn mởn trải rộng (thơ Nguyễn Du), xanh tươi sống động (thơ Hàn Mặc Tử), xanh lá cây im lìm (thơ Nguyễn Bính)

Cũng là cảnh xuân nhưng cảnh xuân khi Kim Trọng trở lại vườn Thuý được vẽ bằng những nét vẽ chi tiết hơn. Đó là một cảnh xuân buồn, trống vắng, hoang tàn, tiêu điều trong một không gian được thu nhỏ :

Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa,                        (2745)
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời ; (2746)
Trước sau nào thấy bóng người,                (2747)
Hoa đào năm ngoái còn cười gío đông,   (2748)
Xập xoè én liệng lầu không,                        (2749)
Cỏ lan mắt đất, rêu phong dấu giày          (2750).

Nơi đây không còn sự sống của con người, mọi vật đều thay đổi, chỉ duy có hình ảnh sắc màu của hoa đào là không thay đổi. Hoa đào tượng trưng cho mùa xuân, mùa xuân lại tượng trưng cho tình yêu. Tình yêu dù chỉ còn là hoài niệm nhưng nó vẫn mãi mãi rực rỡ như cánh hoa đào lúc độ xuân về. Hình ảnh‘’hoa đào’’ được Nguyễn Du mượn từ ý thơ của Thôi Hộ :‘’Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong’’(Mặt người chẳng biết đi đâu mất, Hoa đào vẫn như cũ, vẫn cười với gió đông) và đặt thật đúng chỗ ‘’Cái có đột đến giữa cái không như một cứu cánh, một điểm tựa của tâm linh. Nó như một an ủi, vỗ về làm dịu lại nỗi đau của con người cùng một lúc đã mất đi quá nhiều những gì vô giá’’[21,213]. Hình ảnh hoa đào đã trở thành dấu gạch nối trong hai mảng của một bức tranh- mảng bức tranh chỉ toàn là hình ảnh của sự vật và mảng bức tranh đã có dấu vết con người. Trong một bức tranh với nhiều loại sắc màu sắc màu- xanh, vàng, hồng, trong đó màu hồng của hoa đào đã trở thành màu nổi bật. Sắc màu hồng rực rỡ xuất hiện trong gam màu nhàn nhạt, trong khung cảnh hoang tàn còn là cái nghịch lý trớ trêu, một sự bơ vơ lạc lõng.

Ngoài việc tạo ra sự tương phản ngầm ẩn bức tranh hôm nay gợi nhớ bức tranh năm xưa, Nguyễn Du còn chủ đích bài trí những hình ảnh lộn xộn, chẳng có trình tự :‘’cỏ mọc, lau thưa, song trăng quạnh quẽ, vách rã rời, gió, mưa, én, lầu không, rêu phong’’ trong mọi không gian trước- sau, cao- thấp, trong- ngoài, trên- dưới. Tất cả nương tựa vào nhau bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa. Đó là sự xuống cấp của sự sống, sự phát triển tự do của thiên nhiên và tâm trạng đầy bi kịch của một con người.

Trong bức tranh này, Nguyễn Du đã dùng đến nhiều loại đường nét- đường nét xiêu quẹo, ngả nghiêng (vách mưa rã rời) ; đường nét thể hiện sự vươn lên một cách tự do, cao thấp không hài hoà (cỏ, lau, rêu) ; đường nét thể hiện sự vận động theo chiều ngang hoặc lên xuống (én liệng ) và cả những đường nét mờ nhạt (rêu phong dấu giày). Nó như những mảnh vụn bày ra bừa bãi không ai chăm sóc tỉa tót.

-Mùa thu:

Không đi chệch với qui ước của người phương Đông, mùa thu trong thơ Nguyễn Du cũng buồn, gợi nhớ nhung thương cảm, tiễn biệt, chia ly. Những Môtif ‘’cúc vàng, giậu thu, sen tàn, lá ngô đồng, rừng phong thu được sử dụng nhiều. Lê Thu Yến trong bài nghiên cứu về thơ thu Nguyễn Du có kết luận :”Trong Truyện Kiều, mùa thu được miêu tả với nhiều sắc màu tương hợp đa dạng. Có vui, có buồn, có xinh đẹp có tàn phai …với trời mây cao vời vợi, đáy nước long lanh, lá ngô giếng vàng, sân ngô cành biếc, lá phong nhuộm hồng ...”[25, 214].

Nguyễn Du hoạ tác nhiều những bức tranh mùa thu trong phần Thuý Kiều gặp gỡ Thúc Sinh, Sở Khanh, những mối tình mang tính tạm bợ.

Khảo sát toàn bộ tác phẩm, ta thấy mùa thu trong thơ ông mang nhiều ý nghĩa:

- Trong thơ Nguyễn Du, mùa thu được dùng để định vị khoảng thời gian trôi chảy hoặc thời gian có sự xuất hiện của nhân vật - lúc xác định, lúc không xác định :                                                  

Nửa năm hơi tiếng vừa quen,                      (1385)
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.            (1386)
Giậu thu vừa nảy giò sương,                      (1387)
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi,         (1388)

- Thú quê thuần hức, bén mùi,                     (1593)

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô .            (1594)
Sen tàn, cúc lại nở hoa,                                  (1796)

- Mùa thu không chỉ buồn, mùa thu còn góp phần tạo vẻ đẹp cho cảnh trời nước mênh mông hư ảo:

Long lanh đáy nước in trời,                               (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.    (1604)

- Mùa thu mùa của sự chia tay và tiễn biệt:

Người lên ngựa, kẻ chia bào,                           (1519)
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san. (1520)

Cái không gian thực nơi chia tay và cái không gian nội tâm như hoà trộn trong một bức tranh thu đặc biệt. Bức tranh có gam màu đỏ trong vàng thê lương tê tái, có một sự chuyển màu rất kì diệu thần tình - xanh xuân, vàng hạ, vàng đậm, đỏ sẫm khi rừng phong vào thu. Trong đôi mắt dõi theo của nhà thơ, con người như nhạt nhoà nhỏ bé mờ ảo gần như mất hút trong khung cảnh rừng phong nhuộm sắc như đang mở rộng đến vô cùng. Không gian cách trở như ngày càng xa dần, từ cái khoảng cách –người lên ngựa và kẻ chia bào chuyển thành rừng phong tràn ngập lá đỏ và nhuốm sắc vàng của trăng, cái bạt ngàn của rừng dâu. Có chăng đây còn là sự chuyển biến trong tình cảm –vui đến buồn, chung đôi và xa cách lẻ loi? Hình ảnh rừng phong chuyển sắc cũng được Nguyễn Du nói nhiều trong thơ chữ Hán:“Bán tại giang đầu phong thụ lâm”(Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông)( Tạp ngâm III) hay ”Phong thụ lâm trung diệp loạn phi”(Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây)(Tân thu ngẫu hứng) ”Thu lai thuỳ nhiễm phong lâm thuý”(Trong rừng phong lá thu bay loạn xạ)(Tổ sơn đạo trung). Nhưng đó chỉ là những xúc cảm vô hạn của Nguyễn Du trước những nét gợi cảm của một loài cây tiêu biểu cho mùa thu.

Cái màu quan san là màu gì nhỉ ? Phải chăng đó là màu chia ly xa xôi cách trở, buồn hiu hắt và tê tái, màu của nội tâm đầy âu lo trước một hiện thực mông lung, tương lai mờ mịt. Nói đúng hơn đây là cái màu không có thực nhưng tồn tại trong tâm linh nàng Kiều. Levitan cũng có một bức hoạ nổi tiếng về mùa thu vàng. Đó  là bức tranh về màu thu đẹp buồn nhưng không gây ấn tượng cách trở chia ly. Nhận xét về chất hoạ trong bốn câu thơ tả cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Trần Đăng Xuyền có viết: ’’Cảnh chia tay được dựng lên bằng bút pháp hội hoạ: Không có âm thanh, chỉ có hình, có sắc. Không gian được sắp xếp theo thứ tự từ gần đến xa, mỗi lúc một thêm mênh mông rộng lớn gợi lên khoảng cách ngày càng xa dần của người đi kẻ ở. Ba câu thơ gợi lên ba sắc màu: Màu đỏ sẫm của rừng phong vào thu, màu hồng của các bụi đường trường, màu xanh ngăn ngắt của ngàn dâu’’[46,19]

-  Không gian vắng lặng thê lương khuya khoắt cũng là không gian nội tâm trống vắng buồn đến nao lòng khi một mình một bóng ngồi chép kinh:
                                                                                       
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.      (1934)
-   Khung cảnh Kiều và Sở Khanh đi trốn càng rùng rợn và vắng lặng hơn. Sắc màu nhợt nhạt khói sương làm Kiều lo sợ và như linh cảm được nỗi đau thân phận, tai hoạ đang rình rập:

Đêm thu khắc lậu canh tàn,                            (1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.      (1120)
Lối mòn cỏ nhợt màu sương,                          (1121)
Lòng quê đi một bước đường một đau.        (1122)

Trong toàn bộ bức tranh thu sắc vàng là sắc màu chủ đạo – vàng ngô, vàng cúc, vàng sen, vàng rừng, vàng trăng, vàng đỏ của rừng phong. Những bức tranh có ngày có đêm, có sớm có khuya, có không gian mênh mông cách trở, có gió mùa thu dìu dịu, có trăng mùa thu lúc khuyết lúc tròn, lúc thẳng đứng, lúc chênh chếch, có nước mùa thu êm ả, sáng trong. Tất cả đều buồn mong manh như dự báo một sự rạn vỡ chia lìa, cách trở ”màu quan san, nửa vành trăng khuyết, thành xây khói biếc”.

Trong những bức tranh thu đó có bức tranh trở thành tuyệt tác về mùa thu, rất gần với những bức tranh sơn thuỷ Đường Tống. Nếu nhìn ở góc độ hội hoạ có thể xếp bức tranh này vào nhóm tranh thuộc trường phái ấn tượng:

Long lanh đáy nước in trời,                             (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng .  (1604)

Bức tranh được thêu dệt bằng trí tưởng tượng tuyệt vời, mang nét đẹp vừa thực vừa hư. Khung trời rộng lớn lại ở trong khung nước, xanh trời hoà cùng sắc xanh của nước, xanh núi được rải sắc vàng của ánh nắng mặt trời. Giữa hai khoảng không cao thấp là những hình khối khác nhau được kiến thiết bằng chất liệu mong manh của khói. Có thể nói, ánh sáng, màu sắc, hình khối, hư và thực như hoà trộn vào nhau tạo nên một bức tranh thu vượt khỏi cái khuôn ước lệ vốn có trong văn học cổ điển. Ngôn từ đã hoá thân thành hình tượng, câu thơ trải ra thành bức tranh, thi phẩm đã thăng hoa thành hoạ phẩm.

”Thơ thu Nguyễn Du không đạt đến cái trong veo vô tâm, vô sự như ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng không ngơ ngác mơ màng như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, càng không yên ả thanh bình, râm mát như chiều thu của Nguyễn Bính...mà đặc quánh những tủi buồn, vất vả, đắng cay của cuộc sống đời thường....”[25, 218].

Nhìn chung, mùa xuân và mùa thu là hai mùa được thi hào hoạ tác nhiều nhất, bởi lẽ nó là mùa tình yêu- mùa tiễn biệt. Đó là hai cái mốc về hai cuộc tình của nàng Kiều-cuộc tình thơ và cuộc tình hờ, cuộc tình say đắm và cuộc tình lẩn trốn khổ ải.
(Còn nữa)

TRẦN ĐÌNH KHIÊM