Trang

Saturday, April 27, 2013

LÊ THANH KỲ: “MONG CHO LỄ TRAO GIẢI MAU CHÓNG QUA THẬT NHANH”



(Toquoc)- Lê Thanh Kỳ- tác giả ở Hà Nam, một cái tên khá mới- đoạt giải nhất trong cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2011 - 2013. Anh đã dành cho báo điện tử Tổ Quốc cuộc phỏng vấn trước khi nhận giải thưởng.
PV: Ẵm giải thưởng cao nhất của cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2011 - 2013 với chùm 3 truyện ngắn: Bạn khách, Sợi dây, Mồng chín tháng Tám, dường như có nhiều người nghĩ Lê Thanh Kỳ khá thuyết phục cả về số lượng và chất lượng. Vậy xin hỏi anh, những tác phẩm anh tham dự cuộc thi đều là những sáng tác mới hay đã được viết từ lâu rồi và cuộc thi chỉ là cái cớ để anh gửi tác phẩm đến? 

Lê Thanh Kỳ: Những tác phẩm dự thi đều là những tác phẩm tôi mới viết. Dự thi không phải cái cớ mà thật cần thiết vì bao giờ cuộc thi cũng mời các nhà văn hàng đầu cả nước chấm. Dự thi trước là giới thiệu tác phẩm của mình, buộc họ phải đọc. Thế là bằng một cách gián tiếp đã đưa mình đến với Giám khảo. Nếu tác phẩm không được đăng, mình phải biết tự đánh giá lại tác phẩm của mình. Hoặc là thay đổi hay vẫn cứ thế.
PV: Đây có phải là giải thưởng văn chương lớn nhất của anh từ trước đến giờ không?
Lê Thanh Kỳ: Đây là giải thưởng văn chương lớn nhất của tôi từ trước đến nay.
PV: Giải thưởng này có ý nghĩa với anh như thế nào?
Lê Thanh Kỳ: Giải thưởng này làm cho tôi vô cùng sung sướng, ngoài sức tưởng tượng. Giải thưởng vừa là động lực song cũng là áp lực rất lớn.
PV: Được biết anh làm một nghề không liên quan đến chữ nghĩa và văn chương, lý do nào khiến anh dan díu như một duyên nợ với văn chương vậy?
Lê Thanh Kỳ: Tôi làm thợ hàn nhưng không có nghĩa là tôi không dính líu đến chữ nghĩa và văn chương. Văn chương tôi thích. Tôi đang làm cái việc tôi thích, không ai bắt tôi cả. Cái gọi là “dan díu” ấy thực chất là cái tôi muốn. Tôi viết văn hơi muộn nhưng quá trình chuẩn bị cho nó thì thật dài và cẩn thận, bởi văn chương khác với nghề hàn. Nghề hàn đôi lúc dễ dãi nhưng văn chương không được làm thế.
PV: Ở truyện "Bạn khách", "Mồng chín tháng tám" nhiều vấn đề nổi cộm được đề cập đến, trong đó có cả những vấn đề khá thời sự thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp. Anh có nghĩ tính thời sự khi được sử dụng trong văn chương phải chịu sự sàng lọc rất khắt khe của thời gian không?
Lê Thanh Kỳ: Tính thời sự trong văn chương tôi vẫn thấy nhiều nhà văn lựa chọn. Quan trọng là thấy nó hợp với tạng của mình. Tôi nghĩ dù khắt khe đến mấy thì tính thời sự giữa con người với con người, giữa các dân tộc với nhau không bao giờ cũ cả.
PV: Lâu nay, chúng ta luôn tự đặt câu hỏi, làm thế nào để xuất khẩu văn chương, rồi cao hơn là khi nào nhà văn Việt Nam được giải Nobel… Giả sử chúng ta có một dự án lớn xuất khẩu văn học sang một số nước châu Á, và có thể một số truyện đoạt giải của anh bị từ chối vì đề cập khá trực tiếp đến nước họ, anh có tiếc không và tại sao anh không sử dụng cách viết ẩn dụ hơn, kín đáo hơn?
Lê Thanh Kỳ: Câu hỏi này thật khó, chắc dành cho các nhà quản lý. Nhưng thú thực nếu tôi còn trẻ, tôi sẽ đi học tiếng Anh, tiếng Pháp… và biết sử dụng máy tính thuần thục như tôi cầm cái kìm hàn. Tôi sẽ sáng tác thẳng ra tiếng nước ngoài. Sao không? Tôi thấy thế giới đã được ăn cơm của Việt Nam, đã được ăn cá do ta nuôi. Tại sao lại không được đọc các tác phẩm do người Việt sáng tác? Chắc chắn các bạn trẻ sẽ làm được điều này. Còn các tác phẩm của tôi bị từ chối xuất khẩu có lẽ không phải do tôi. Điều này nếu có xảy ra thì tôi không tiếc cho mình mà chỉ tiếc cho văn chương thôi. Khi tôi viết các truyện ngắn vì tính thời sự câu thúc mạnh mẽ. Nếu ai có vợ, có em gái, có con gái mình đang làm công nhân trong các khu công nghiệp thì sẽ thấy hết đời sống của công nhân ra sao, nhất là với các công nhân nữ. Thử hỏi, tất cả những lao động, kể cả những lao động tự do trên toàn lãnh thổ đều làm đơn ra nhập tổ chức Công đoàn Việt Nam thì sao? Con cái họ ăn học thế nào? Việc tái đầu tư lao động sẽ ra sao?
Bạn khách là hư cấu từ đầu đến cuối bởi trước đó tình hình giữa mình với Trung Quốc, mình là nước nhỏ ở cạnh nước lớn thì bất hạnh lắm. Tôi muốn viết một cái truyện gì đó để đề cao tính dân tộc, trách nhiệm công dân, thế thôi. Viết báo thì dễ mà nghĩ mãi mới được truyện ngắn này vì tôi thấy văn chương chả thấy ai đả động gì cả.
Nêu vấn đề nho nhỏ như thế thôi. Nếu chọn cách viết ẩn dụ, kín đáo như bạn nói chắc vừa an toàn lại sống lâu. Nhưng tôi đã làm thế rồi. Không tiếc đâu.
PV: Sau giải thưởng, anh sẽ tiếp tục con đường văn chương của mình như thế nào?
Lê Thanh Kỳ: Hiện tại tôi chỉ mong cho lễ trao giải mau chóng qua thật nhanh. Sợ nhất là nhận giải xong chả còn gì để mà viết nữa. Rất sợ. Có một điều chắc chắn là tôi sẽ đầu tư nhiều thời gian hơn để làm cái việc mình thích
* Cảm ơn anh! Chúc anh trở về sau cuộc thi sẽ có nhiều đóng góp cho văn chương nước nhà.
Hiền Nguyễn thực hiện

NHÀ THƠ VÂN LONG: NHẬP THÂN VÀO ĐẤT NƯỚC ĐỂ NHẬP THẦN VÀO THƠ


Kỉ niệm 65  năm Báo Văn nghệ
                           

I - Chuyện lạ bên giường bệnh
 Nhà thơ Trinh Đường ra đi đúng vào những ngày sũng nước cuối thu, sau những trận bão mà đất trời như nhòa lẫn, không còn ranh giới…giống  như hôm nay.  Sau giây phút chứng kiến sự lóe sáng kỳ lạ của  con người cũng lạ kỳ không kém của nhà thơ trước lúc ra đi, tôi đã tâm nguyện, hàng năm đến ngày này, sẽ thắp một nén tâm hương, tưởng nhớ đến ông…           

Nhà thơ Vân Long
Khi được biết bệnh viện đã trả về, sinh mệnh nhà thơ Trinh Đường chỉ còn tính ngày giờ, tôi lao xe đến nhà ông ở một xóm nhỏ thuộc thôn Viên sâu hút trong làng Cổ Nhuế...
Đến cửa, một không khí hoang lạnh khác thường. Không biết bà  Hải vợ  ông và các con ông đi lo liệu những gì mà tôi không gặp một ai ở tầng dưới, ngôi nhà có treo mấy chữ La Vân Hiên để ông luôn nhớ đến vùng quê La Vân (huyện Đại Lộc - Quảng Nam)mà ông từng than trong thơ: Tập kết ba mươi năm/ tóc xanh giờ đã bạc/ Suốt đời đi giành nước/ Trở thành người không quê/ Một đi không đuợc về…
Tôi rón bước lên tầng gác ông vẫn nghỉ ngơi và làm việc. Thấy tiếng đài bán dẫn đang phát một bản tin thời tiết, tôi mới yên tâm. Nhưng, bên cạnh đấy là nhà thơ Trinh Đường nằm ngửa, mặt hốc hác, mắt nhắm bất động, hẳn là đang nghe tin tức thì ông mệt quá, thiếp vào giấc ngủ! Tôi tắt Đài, vớ tờ báo, ngả mình ra chiếc ghế vải ngay cạnh, yên lặng chờ ông tự tỉnh dậy. Được dăm   phút, tôi bỗng hoảng lên vì sự im ắng quá mức, không nghe cả tiếng thở của    nhà thơ. Nhỡ cụ “đi” đúng lúc này thì thật phiền !.. Tôi đứng dậy, đưa tay ra      trước mũi nhà thơ. May quá, vẫn còn thấy âm ấm.  Do tiếng dịch ghế làm ông tỉnh lại, ông lào phào : “Ai đấy?” “Vân Long đây! Anh không nên ngồi dậy, tôi vào bệnh viện, biết anh vừa về nên tôi đến thăm”.
Ông nghe tôi, nằm mà trò chuyện. Hoá ra ông đã biết rõ căn bệnh hiểm của mình từ lần mổ trước, ông nói rất nhỏ:” Bác sĩ hết phép rồi, mình chờ ...đi          đây!”  Nhưng như thói quen, ông lại nói về công việc. (Trời! cái ông già này! Vậy còn lúc nào nữa để ông nghĩ một chút về riêng ông?)
Dưới chân giường của ông là hai cái túi bằng nhựa tái sinh quen thuộc, một túi căng phồng, đầy ắp bản thảo đang biên soạn, một túi ló ra hàng chục cái phong bì đã dán sẵn tem. Nói đến công việc thì tiếng ông rõ dần :
--Chưa nghĩ được tên tập cho hay, nhưng đề tài này thì ...hay đấy!Thơ về châu thổ sông Hồng...phải ...2000 trang có ít đâu! Mình...mình mới đi được 5 tỉnh...đã phải nằm. Thằng ...thằng Trực (Võ Văn Trực) hay thằng Minh (Vũ       Đình Minh) viết tựa thì cậu ..phải viết lời bạt!...(Đó là bản thảo Tuyển tập thơ   Đất nước do ông nghĩ ra và tự đi thực hiện).
Vốn đã quen tính “áp đặt” của ông, và hễ đụng đến công việc là ông sôi     nổi hẳn lên, tôi vội can:
--Thôi đi anh! Lúc này nghỉ ngơi cái đã, anh còn nói đến công việc là tôi về đây!
Không được bàn công việc biên tập thì ông chuyển sang đề tài khác, thì vẫn là thơ, ông còn quan tâm đến gì  nữa đâu!  “Gần đây mình làm được một chùm thơ, đây này!” Ông vơ dưới gối lên một xếp giấy viết tay, chữ vẫn đều tăm tắp. Tôi lo cụ hăng lên, tự đọc cả chùm thì ...tôi vẫn là người gây ra sự suy kiệt của cụ. Tôi dành lấy xếp giấy: “Anh cứ nằm yên đấy mà nghe, tôi đọc cho cả hai người! Có điều, phóng xe đi từ sáng, tôi cũng mỏi lắm, tôi nửa nằm trên chiếc ghế này mà đọc nhé! ”.
Lần lượt, tôi đọc to từng bài: Nói chuyện với cái giường, Qua đèo, Lan    man sau mê man...Căn phòng vắng, quanh nhà cũng vắng lặng, giọng tôi càng lúc càng bốc cao theo thi hứng những câu thơ của ông, những câu tưởng như rời rạc, ít liên hệ với nhau:  Mắt em nhìn anh hay mảnh trăng cài/Cãi được mệnh trời là ai, là ai?/ Cho còn thì còn, không còn thì thôi!...
                                                        (Lan man sau mê man)
Giọng thơ của ông già quen dùng từ Hán Việt, nay đôi lúc cứ  phá ngang ra, như ông đang đối thoại, tranh cãi với ai, gây một khí vị hoang lạ, thách thức...Đang đọc, nghe tiếng động, tôi liếc ngang: nhà thơ Trinh Đường nhỏm dậy dần. Mới đầu thì nằm nghiêng, chống một tay trên gối để “nhìn cho rõ” câu thơ từ miệng tôi phát ra. Đến khi tôi đọc bài Còn, mất :

                                       Ai người sống đã chết
                                       Ai người chết đang còn
                                       Ngang nhiên giữa trời đất
                                       Ta sống cùng nước non
thì nhà thơ ngồi thẳng dậy, đôi mắt phát lộ những tia sáng lạ.
Một ông già cao cao, gầy guộc, mặt hốc hác, ngỡ không còn sinh khí, từ lúc nằm bất động như một xác ướp Ai Cập, bỗng chuyển dần sang trạng thái      hưng phấn làm tôi gai người, ngỡ như mình là một gã phù thủy đang đọc thần chú cho xác chết sống dậy. Ông lại bị chính thơ ông hớp hồn!
Trong căn phòng người bệnh thập tử nhất sinh, bỗng xẩy ra một tình trạng ngược đời: Người khoẻ đến thăm bệnh nhân thì nằm trên ghế xếp đọc thơ, còn bệnh nhân thì ngồi thẳng người, đau đáu “nhìn” những câu thơ của chính mình, say sưa và hứng khởi.
Chùm thơ của ông mà tôi chắc chắn là những dòng cuối cùng trước khi ông ra đi, không ít những câu thơ như tuyên ngôn:
                                         Nhập thế hay xuất thế
                                         Cỏ bờ hay bụi bờ
                                         Nhập thân vào đất nước
                                         Mới nhập thần vào thơ!
                                                                       (Vĩ thanh)
Nhà thơ Trinh Đường từng “nhập thế” dẫn nhóm bạn Khuê Văn của ông đi khắp các ngả đường đất nước (mà mọi người gọi đùa ông là Trinh đoàn trưởng). Nhà thơ Trinh Đường từng “xuất thế” lập bàn thờ các vị thần thơ ngay trong nhà mình. Giữa cơ chế thị trường, thơ là món hàng thấp giá nhất thì vẫn còn có người như ông, say mê sự nghiệp của mình đến hơi thở cuối cùng. Ông là một bậc thánh tử vì đạo!
Chỉ sau tôi mới biết, từ bệnh viện về không đến một ngày đêm thì ông ra đi. Hoá ra tôi là người cuối cùng khơi gợi và được chứng kiến phút loé sáng kỳ lạ của nhà thơ như trên, thảo nào mới chiều hôm trước gần ông, khoảng 3 giờ chiều hôm sau tôi đã nhận được điện thoại của nhà thơ Trần Phương Trà trong tiếng nghẹn ngào: “Anh Vân Long ơi! Ông Trinh Đường đi rồi!...” Đó là chiều ngày 28 tháng 9 / 2001. Ông sinh 1917, không phải như trong Nhà văn hiện đại ghi 1919, chúng tôi đã kịp tổ chức mừng thọ 85 của ông, sau khi ông đã sống như một người không có tuổi!

II - Nhập thân vào đất nước
Quan niệm của nhà thơ Trinh Đường: “Thơ như cái mặt trống, phải có hiện thực cuộc sống đập vào nó mới rung vang lên được.” Xuất phát từ quan niệm này, ông đã nghĩ ra cách tổ chức một nhóm anh em nhà văn đi vào thực tế thường xuyên trong thập niên 80 của thế kỷ trước, giữa giai đoạn không có một nguồn kinh phí nào của Hội nhà văn hay của cá nhân nào lo nổi, những năm sau chiến tranh, mỗi nhà văn chỉ lo đủ sống cho gia đình mình đã khá vất vả! Ông tính “đầu vào” bằng cách liên hệ với các ngành để họ cho xe đưa đón, tạo điều kiện cho nhà văn hiểu rõ được hoạt động của ngành. Ông lo “đầu ra” bằng cách triệu tập một nhóm bạn văn đang công tác ở các báo đài trung ương và Hà nội, khi viết được tác phẩm, mỗi nhà sẽ “tự sản tự tiêu” ngay trên phương tiện sở hữu của ngành mình, phong phú ra thì sẽ in thành tập sáng tác, nếu người chủ quản muốn tuyên truyền rộng ngành mình.
Thậm chí nhóm này còn ra được tạp chí ngành nuôi Ong, sống được mấy năm. Chính vì vậy, nhóm Khuê Văn chí cốt đầu tiên được hình thành là 6 nhà văn. Người đầu tiên, tất nhiên là “Trinh đoàn trưởng”, rồi Ngô Quân Miện (báo Độc Lập), Võ Văn Trực (báo Văn Nghệ), Vũ Đình Minh (đài Hà nội), Trần Phương Trà (đài TNVN), Nguyễn Thái Vận (NXB Lao Động). Ngành đầu tiên tiếp đón nồng nhiệt và tạo được nhiều cuộc đi nhất là ngành nuôi ong, bởi ngành này có chân rết tỏa ra khắp mọi ngả đường đất nước, cỏ hoa trên xứ sở nhiệt đới này đâu mà không có. Có các vùng hoa là có thợ nuôi ong. Bản thân các nhà thơ, nhà văn cũng giống như những con ong luyện phấn hoa của thực tế làm mật! Vậy là các anh bay ra  Cồn Ngạn Thái Bình như những cánh ong đi hút mật hoa sú vẹt, lúc bay về thì hoa nhãn Hưng Yên, hoa táo Bách Thuận…Có hôm, Trinh Đường đi làm với công nhân ngành ong, bị ong đốt, mặt mũi sưng húp, khuya đêm vẫn thắp đèn trong màn viết viết xoá xoá những câu thơ vừa nẩy nở.
Có chuyến cả nhóm ngồi chen nhau trên chiếc xe Zeep của Tổng cục hậu cần , vượt  con suối lớn vùng Hòa Lạc khi cơn bão vừa tan. Qua ngầm, nước chẩy xiết quá, cuốn chiếc xe nhào xuống suối, chìm nghỉm. Trinh Đường là người đầu tiên thoát ra được, bơi vào bờ, nhờ đồng bào đưa sào nứa cho mấy anh em bám lấy lội vào. Đêm ấy, phải mượn quần áo khô của các chiến sĩ, đọc thơ bên lửa trại vẫn hào hứng, sôi nổi …Trong khoảng chục năm nhóm Khuê Văn hoạt động, có năm đi nhiều nhất đến 38 chuyến.           
  
III - Kết mật
Cả đời, con ong cần mẫn Trinh Đường đã kết tụ được 14 ổ mật ngát thơm: 14 tập thơ và trường ca, xuất bản đều đặn từ 1960 đến 2001. Chưa kể các tập bút ký, truyện ngắn và biên soạn. Cuộc đời Vì thơ của ông gồm hai sự nghiệp: sáng tác và biên tập, phần sau, sự đóng góp của ông cho xã hội lại lớn hơn phần trước.
Thời kỳ chống Mỹ, những người làm thơ chỉ có vài tờ báo để in thơ, diễn đàn trung tâm vẫn là trang thơ báo Văn Nghệ. Người biên tập để lại dấu ấn  đậm nét nhất trong lòng các nhà thơ trẻ lúc ấy là nhà thơ, nhà biên tập Trinh Đường. Bằng những nhận định, có lúc võ đoán về bài thơ này, bài thơ kia, tác giả đã kích thích lòng ham sáng tạo của các nhà thơ trẻ. Còn gì buồn bằng, kể cả khi bài thơ được in ra, mà không có một hồi âm khen chê gì phía độc giả, người biên tập! Với cái quyền thẩm định cho bài thơ ra mắt công chúng, tiếng nói nhận định của ông rất có trọng lượng. Ông luôn tạo ra sự ganh đua giữa các vùng thơ Hà nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Quảng Bình. Một lần ông bảo tôi: “Mình sẽ ra một trang thơ riêng cho các cậu Hà nội gồm Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ…xem các cậu Hải Phòng có địch được cánh Hà nội? ”  Tôi chất vấn: “ Thế Hoàng Hưng với tôi có được tham gia trang Hải Phòng không? (chả là tôi và Hưng vừa chuyển công tác xuống Hải Phòng, gia đình vẫn ở Hà nội.) Ông Trinh Đường ngồi ngẩn ra toan tính. Bỗng ông “à” lên một tiếng: “ Thế này, cậu này!...Căn cứ vào sổ gạo. Cậu ăn sổ gạo Hải Phòng, cậu phải tham gia trang thơ Hải Phòng!”
Chúng tôi cùng cười thoải mái, vì đã biết …dùng sổ gạo để giải quyết vấn đề của thơ.
Sự bình phán của ông dẫu nhiều cảm tính, hơi bốc, nhưng cái lõi thường là đúng. Là người luôn hướng tới cái mới, ông khen đấy, nhưng có lúc lại sổ toẹt: “Thơ các cậu cổ lỗ sĩ bỏ mẹ! Dùng thơ ấy như đánh giặc bằng con dao cùn! “.
-- Thế theo anh, tiêu chí của thơ hiện đại là thế nào?
Ông lại ngẩn ra, suy nghĩ. Lúc này, chắc ông nghĩ đến vai trò biên tập viên một tờ báo của Hội nhà văn, lời nói phải “có lập trường”, không được thiên về hình thức:
-- A! Thế này cậu à! Bài thơ hiện đại phải có tư tưởng hiện đại, có nội dung hiện đại, và quan trọng là cách thể hiện hiện đại.
Tôi biết ông chỉ nhằm nhằm vào yếu tố thứ ba, nhưng do ông có cân nhắc lại nên quan niệm đó của ông căn bản vẫn đúng. Rồi ông thấp giọng đọc cho tôi nghe một bài thơ như ví dụ về thơ hiện đại, và dặn đừng nói cho ai khác biết. Đó là bài thơ in trên một tờ báo ở Sài Gòn những năm đất nước bị chia cắt, tác giả cỡ như Thanh TâmTuyền, Du Tử Lê gì đó. Hồi ấy, đọc báo địch, lại khen cái hay của báo địch là “có vấn đề tư tưởng” rồi đó! Giọng Quảng Nam đặc sệt của ông đã khó nghe, lại như đọc thầm, sợ…”tai vách mạch rừng”, tôi nghe chữ được chữ mất, chưa kịp hiểu gì cả thì ông đã xuýt xoa: “Cậu thấy không? Bài thơ ghê gớm đấy chứ!”
Thể hiện thơ cho mới mẻ là yêu cầu của ông với thơ nói chung, xin đừng căn cứ vào thơ ông, bởi lực bất tòng tâm, có phải cứ muốn là làm mới được thơ  ngay đâu! Thơ ông sử dụng nhiều từ Hán Việt nên câu thơ đanh quánh, súc tích nhưng lại thiếu sự bay bổng…Lạ một điều! Việc đời ông rất hồn nhiên, thơ lại ít sự hồn nhiên.        
Nhưng, nếu cần nêu lên một nhà thơ có tâm, nhiệt huyết với công việc biên tập thơ thì không ai hơn Trinh Đường. Có lần tôi ra Cát Hải mở trại sáng tác, tình cờ  được đọc ở nhà Hồ Anh Tuấn (giáo viên, anh ruột nhà văn Hồ Anh Thái, sau là chủ tịch Hội Văn Nghệ Hải Phòng) ba lá thư của ông Trinh Đường. Anh Tuấn nhận được trong vòng mươi hôm chỉ để góp ý sửa cho hoàn chỉnh một bài thơ. Trong cuốn Nhà văn hiện đại Việt Nam, ông tự nói về mình: “ Về đào tạo lớp người kế tục, nổi lên trong và sau chống Mỹ và công việc của Hội, ít nhiều có sự đóng góp của tôi“. Đằng sau câu nói giản dị ấy là biết bao tâm lực, không ai tính đếm nổi!
Thời bom đạn, đi lại khó khăn, giới làm thơ chỉ biết theo dõi hoạt động sáng tạo của nhau qua thơ in trên mấy tờ báo lớn, mà trung tâm định hướng là tờ Văn Nghệ, mà giai đoạn nhà thơ Trinh Đường cầm trịch là sôi động nhất, vì cái tính sôi nổi, quyết đoán đến mức chủ quan của ông.
Tôi công tác ở Hải Phòng, mỗi lần về Hà Nội thăm gia đình dù ở nơi sơ tán xa trung tâm, thế nào cũng phải tìm cách ghé căn gác đã bị bom đánh nứt một mé tường giữa phố Bà Triệu của ông. Đến đấy không chỉ để biết “tăm hơi” những bài thơ tôi gửi, mà còn cả của các chiến hữu Hải Phòng, và hoạt động thơ cả nước qua sự bình phán, khẳng định nhiều khi võ đoán của Trinh Đường:
-- Này! Cậu có biết thằng làm thơ ghê gớm nhất Hải Phòng bây giờ là ai không?
Không đợi tôi trả lời, ông nói ngay: “Thằng T.H. đó ! Nó là ông vua thơ, thật đấy!”
Chỉ chưa đầy hai tháng sau, ông lại hỏi tôi câu ấy. Tôi cuời: “Hẳn vẫn là T.H. chứ ai!” Ông gạt phăng: “Không! Thằng T.V. bây giờ mới gớm!” Rồi ông thông báo tiếp: “ Hãy đón đọc bài thơ của T.L. sẽ in Văn Nghệ số tới, đó là bài đinh của cả năm nay đấy ! “
Những lời bình phán dứt khoát đó đã kích động cả giới trẻ. Người tán thành, người phản đối, nhưng ai cũng nỗ lực để lọt vào mắt xanh của ông. Còn gì buồn hơn khi bài thơ in ra, rơi vào vắng lặng, không một hồi âm!                    
Khi không còn công cụ trong tay ( trang thơ báo Văn Nghệ) ông vẫn tự tạo ra các xuất bản phẩm cho giới thơ. Nhân đại hội Nhà Văn, ông đề nghị mỗi nhà thơ gửi cho một bài thơ hay tự chọn, kèm câu trả lời ngắn gọn Làm thế nào để có thơ hay? Chẳng ai tin là sách in được, vì đúng lúc vừa xoá bao cấp, không nhà xuất bản nào dám in thơ khi màng lưới phát hành, thư viện vẫn mua sách bị tê liệt trên toàn quốc, đến tập thơ Chim làm ra gió của Huy Cận để nhà in suốt hai năm, cuối cùng nhà thơ cấp quốc gia này cũng phải nộp tiền, NXB Tác Phẩm Mới mới dám cho in. Thế mà Ngày Hội Thơ đã ra đời gồm gần đủ các nhà thơ hội viên với những suy nghĩ trải nghiệm phong phú về thơ kèm theo bài thơ tác giả tự cho là đạt nhất của mình. Một tài liệu hết sức bổ ích cho các nhà nghiên cứu văn học. Ông còn một mình đứng ra vận động, thư từ gửi đi khắp nơi, thu thập bài, chuẩn bị cho Tuyển tập thơ thế kỷ gồm ba tập,
Một thế kỷ thơ Việt tập I (NXB Văn Hoá Thông tin 1995) đã ra đời, bản thảo hai tập sau đã hoàn chỉnh chờ điều kiện để xuất bản. Đây là lần đầu tiên ở nước ta, một cá nhân nhà thơ đứng ra làm tuyển tập thơ thế kỷ! Đặc biệt, ông còn chú ý đến các nhà thơ chưa là hội viên, bùng nở từ sau đổi mới văn học, các nhà nghiên cứu thơ, thay vì đọc hàng trăm loại báo, hàng ngàn tập thơ, nay chỉ cần đọc hai tập tuyển Những gương mặt thơ mới I và II (NXB Thanh Niên, khoảng 1.000 trang). Nhờ sự “áp đặt” của ông, mà tôi đã viết được bài nói đầu cho NGMTM tập II, thực chất là giới thiệu được sự phong phú sinh động của lớp người mới nhập vào dòng chảy thơ Việt, nay hầu như những tác giả này đã trở thành hội viên Hội Nhà văn VN. Để sưu tầm, biên tập, soạn thảo hai tập đó, ông đã bỏ tiền lương hưu đi Nam về Bắc, gặp gỡ các tác giả, riêng tiền bưu phí đã đủ thâm thủng đồng lương hưu còm cõi của nhà thơ.
Ông già tuổi 80, cao gầy, tấm lưng vẫn thẳng, lúc nào cũng sôi nổi những dự định, gợi tôi nhớ đến hiệp sĩ ĐôngKisốt từ hình dáng đến cái tính muốn “vá trời lấp biển”, tự tin đến mức chủ quan của ông.
IV – Báo cáo với Quê Hương…  
Ông thật chân thành khi tự nói về mình trong tập Nhà văn Việt Nam hiện đại: Từ các hoạt động văn nghệ, sáng tác đến phê bình, từ công việc được giao phó, đến những nỗ lực (thực hiện sáng kiến ) cá nhân, tôi tự thấy đã làm việc hết sức mình cho học thuật, cho cách mạng, Tổ quốc…Quả vậy! Ông chỉ tận tụy với một việc, không màng chức vụ. Chức vụ cao nhất của ông là nhà thơ, nghề nghiệp suốt đời của ông là biên tập thơ, phê bình thơ.
Sau ngày thống nhất đất nước, trong một chuyến đi xuyên Việt, tôi dừng chân ở Đà Nẵng, nhà thơ Trinh Đường gặp tôi, ông mừng quá reo lên: “A! Sáng mai thế nào cậu cũng phải có mặt với mình trong một cuộc họp mặt rất quan trọng!”
Thì ra ông chủ động mời bà con họ hàng ông đến họp mặt, để ông được báo cáo với bà con quê hương Quảng Nam: công việc nhà thơ Trinh Đường đã làm từ những ngày đi tập kết. Một việc hết sức thiêng liêng với ông. Ông cẩn trọng viết nắn nót từng dòng trong một cuốn vở những điều định nói với bà con, buổi báo cáo có đặt máy ghi âm, hẳn sẽ là một tài liệu quý cho bảo tàng các nhà văn!
Nhưng quan sát thực tế không khí cuộc họp, tôi vừa cảm động vừa buồn cười khi được làm nhân chứng trong cuộc báo cáo đó mà cử tọa có khá nhiều người sinh sống ở vùng đô thị miền Nam làm những nghề thiết thực như lái xe, chủ tiệm ăn, thợ giầy, thợ điện …chẳng có chút khái niệm gì về văn chương chữ nghĩa. Cách mạng tháng Tám thành công, người ta được biết ông làm phân hội trưởng Phân hội Văn nghệ Quảng Nam Đà Nẵng thì còn hiểu được ông là trùm cánh hát tuồng hát bội gì đấy…
Nhiều người là đàn em ông ra đi kháng chiến đều đã thành cán bộ lãnh đạo cấp Huyện, cấp Tỉnh, có vị còn là bộ thứ trưởng, may ra khi gặp việc rắc rối, bà con còn được cậy nhờ. Còn ông Trinh Đường này, trở về quê với chức biên tập viên, nghe như một thư ký đang tập sự biên chép gì vậy. Hay là ông bị kỷ luật? Làm sao ông tự giải toả nỗi  thắc mắc của bà con, nếu không nhờ đến bạn bè? May thay, buổi gặp đó có nhà thơ Đông Trình, một thày giáo có tiếng ở Đà Nẵng, lúc đó là cán bộ tuyên huấn Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, từng đi thuyết giảng ở nhiều nơi, đã cho họ biết: anh chỉ là người học trò nhỏ của nhà thơ Trinh Đường. Còn tôi, tình cờ ghé thăm, cũng nói được đôi chút tâm huyết, đóng góp không nhỏ của ông cho những bộ sách  quý sẽ tồn tại hàng thế kỷ…       
Để thực hiện mọi dự định sưu tầm, tuyển chọn ngổn ngang, ông phải đi nhiều hơn ai hết. Trời đã đền bù phần nào cho ông, có nhiều câu thơ hay ông đã “nhặt” được ở trên đường. Trên một chuyến tàu Bắc Nam, ông đang hào hứng hợp chuyện với một nữ đồng hành, thì người phụ nữ khả ái này lại xuống ga dọc đường, chỉ còn cô đơn mình ông: Tàu đi tiếp với nỗi buồn xuyên Việt . Người phụ nữ ấy đâu biết nhà thơ già vẫn lãng mạn như buổi thiếu thời:
                                Anh xuống ga còn có nửa người…
VÂN LONG

(trong cuốn Sống nhiều hơn một đời
NXB Phụ nữ sắp xuất bản cuối tháng 4/2012)

VŨ TÚ NAM: TÔI THƯỜNG NGHĨ VỀ BẠN BÈ NHƯ VẬY

Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày Văn nghệ ra mắt bạn đọc, giở lại những trang nhật ký, tôi nhớ lại toàn bộ cán bộ công nhân viên của báo vào thời kỳ cuối năm 1970. Ban phụ trách báo khi đó gồm: đồng chí Hoài Thanh là chủ nhiệm, tôi là thư ký toà soạn, và hai uỷ viên ban biên tập là chị Cẩm Thạnh và anh Đào Vũ.

Những năm 70, báo Văn nghệ đã trải qua chiến tranh phá hoại ác liệt của Mỹ. Đầu cửa vào trụ sở 17 Trần Quốc Toản vốn nhỏ hẹp khi ấy, chúng tôi phải cho xây một hầm trú ẩn nổi cũng bé nhỏ tối tăm, mỗi người được mua một cái ghế gỗ (giá hai mươi đồng, do phòng hành chính trị sự quy định) để ngồi bệt trong hầm khi báo động. Mỗi phóng viên chính của báo được cấp một mũ sắt; bác Nguyễn Tuân là cộng tác viên đặc biệt cũng được cấp mũ sắt, với chiếc mũ này bác Nguyễn đã xông xáo viết những bài ký nổi tiếng Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. 
Lái xe Đinh Xuân Châu đã nhiều lần gan góc trương cờ “báo chí” cho xe commăngca đít vuông vượt cầu phao sông Hồng trong khi máy bay Mỹ gầm rú. Sau này, năm 1973, Châu đã đưa một đoàn gồm tôi, chị Cẩm Thạnh, các anh Bùi Hiển, Ngô Văn Phú vào vùng Quảng Trị mới giải phóng. Nhớ lại ngày đó có đoạn gặp phải đoạn đường nhiều mìn, Châu phải lái chậm, căn theo vết xe đã đi trước, rất căng thẳng. Sau này anh Đinh Xuân Châu đã mất vì bệnh ung thư. Hôm đến nhà thăm khi anh bệnh nặng, bụng trướng to, anh nắm tay tôi trào nước mắt. Tôi không khi nào quên những kỷ niệm đối với anh Châu cũng như các đồng chí lái xe khác ở Hội Nhà văn sau này.
Đấy là kỷ niệm trong chiến tranh. Còn về mặt nghề nghiệp, báo Văn nghệ khi đó đã gặt hái được những thành tựu đáng kể. Mở cuộc thi thơ mà những người được giải cao đều ở chiến trường, gia đình và bạn bè lĩnh giải hộ. Đó là Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm… Nguyễn Duy từ xa đã đọc thơ dự thi qua điện thoại cho Hữu Nhuận chép. Tổ thơ hồi đó gồm nhà thơ Phạm Hổ là tổ trưởng, các biên tập viên khác có anh Vĩnh Mai và chị Xuân Quỳnh... Thời gian nghiệt ngã đã tiễn đưa tất cả các thành viên tổ thơ ngày ấy về với vĩnh hằng. Tổ văn xuôi năm 1970 gồm anh Võ Huy Tâm là tổ trưởng, cùng các anh chị Nguyễn Thị Ngọc Tú, Xuân Trình, Hoài An, Trần Hoài Dương, Văn Ngọc, Ngô Ngọc Bội là các biên tập viên. Cho đến hôm nay chỉ còn lại chị Ngọc Tú yếu đau và anh Ngô Ngọc Bội vẫn khoẻ. Riêng anh Văn Ngọc ở Nam Bộ xa xôi, tôi không có liên lạc, chỉ nhớ hồi đó anh nhiều tuổi, sức yếu, rất hiền lành và tận tuỵ công tác.
Tổ lý luận - phê bình do anh Khái Vinh là tổ trưởng, có chị Thiếu Mai và anh Trang Nghị. Nhiều người làm báo Văn nghệ thời đó hẳn vẫn nhớ tiếng cười hơ hớ của Trang Nghị khi có chút rượu vào... Còn tôi vẫn nhớ tiếng cười của anh vào một đêm trăng năm ấy, khi mấy anh em theo thuyền câu mực ở vịnh Hạ Long. Thuyền ra tít biển xa, chúng tôi vừa câu vừa ăn mực, uống rượu…
Thời gian khắc nghiệt lại đã “xoá sổ” tổ lý luận - phê bình, cắt đứt tiếng cười hả hê của Trang Nghị và những lo toan công việc của Thiếu Mai, Khái Vinh.
Các anh Nguyễn Tuân (mỹ thuật), Nguyễn Thành Đại (sân khấu), Hồng Phi (sân khấu), Trung Sơn (điện ảnh), Phan Thanh Nam (âm nhạc) luân phiên nhau phụ trách tổ nghệ thuật. Công việc rất đều đặn hàng tuần. Hiện nay chỉ còn anh Trung Sơn tóc bạc phơ lủi thủi một mình (vợ anh là chị Đoan ở phòng hành chính trị sự báo, mất đã lâu) và nhạc sĩ Phan Thanh Nam ở tận Sài Gòn. Tổ mỹ thuật trình bày có hoạ sĩ Nguyễn Bích là tổ trưởng, các anh Phạm Hữu Trí, Lê Chính làm mise, và chị Kim Oanh. Anh Phất (khắc gỗ) và anh Nguyệt Diệu (chụp ảnh) ở ngoài biên chế báo. Vài năm gần đây, tôi thường được gặp anh Diệu ở cuộc liên hoan báo đón xuân mới. Anh Nguyễn Bích, chị Kim Oanh… đã mất, còn các anh chị khác không thật rõ tin tức. Tôi vẫn nhớ từng nụ cười của các anh.
Tổ thời sự do nhà thơ trào phúng Nguyễn Đình làm tổ phó. Có thêm các anh Hữu Nhuận và Ngô Sinh Nhựt. Hữu Nhuận cho đến nay vẫn bền bỉ sưu tầm, tìm kiếm tư liệu văn học. Còn anh Nguyễn Đình đã mất vì bệnh ung thư, không kịp chờ đến ngày giải phóng miền Nam. Tôi nhớ mãi hình ảnh anh Nhựt, là thương binh, cụt một tay, rất tận tuỵ công tác.
Nhắc đến phòng hành chính trị sự của báo là nhớ trưởng phòng Phan Thắng, cán bộ tập kết, sống lẻ loi xa gia đình. Anh là người đã lo cơm áo gạo tiền cho anh chị em, lo nhà in và giấy in cho báo. Sau giải phóng, anh đã về miền Nam đoàn tụ gia đình. Phòng hành chính trị sự thời ấy còn có các chị Thịnh, chị Đoan, chị Nhi, chị ả. Các chị đều hiền lành, chăm chỉ làm việc. Anh Địch và anh Quyền đánh máy cho báo; hồi ấy làm gì có máy vi tính! Các anh đánh máy thật giỏi. Người làm công tác liên lạc cho báo là anh Văn Kim Từng, người dân tộc thiểu số. Anh rất thật thà, chăm chỉ. Với chiếc xe đạp tòng tọc, anh đi khắp nơi quanh Hà Nội. Anh thường cười nheo nheo đôi mắt, xưng “mình” với tôi và bác Hoài Thanh. Có lần anh bảo tôi: “Mình vừa ở chỗ Hoài Thanh về”(!) Mỗi lần anh đến nhà, tôi thường mời anh ăn kẹo và uống trà. Anh ăn uống hồn nhiên như trẻ thơ. Thế mà Văn Kim Từng sau này đã có cái chết bi thảm vì bị bệnh trầm cảm. Cơ quan thương tiếc anh, nhận con gái anh vào làm việc sau đó.
Thời gian trôi qua thật nhanh. Ban phụ trách báo Văn nghệ năm 1970, nay chỉ còn tôi và chị Cẩm Thạnh. Bác Hoài Thanh và anh Đào Vũ đã ra đi cả rồi. Mới ngày nào, mùa đông 1972, tôi còn trẻ đội mũ sắt trực chiến cùng anh em báo trong 12 ngày đêm chống B52. Đến nay tôi đã 85 tuổi. Trí nhớ đã kém đi, phải nhờ đến nhật ký mới hình dung lại được những năm 70 ấy. Nhưng với các anh các chị đã cùng làm báo với tôi, dù đã mất hay đang sống, tôi luôn nhớ tới với lòng biết ơn chân thành và sự quý mến của tình đồng nghiệp.
Mỗi đời người có sự đóng góp không ai có thể thay thế. Mỗi con người mang những niềm vui và khổ đau chẳng giống với ai. Tôi thường nghĩ về bạn bè như vậy.
VŨ TÚ NAM 
(Nguồn: Văn nghệ số 16/2013)