Lời người dịch :
* ** Giới thiệu tác giả
Roland JACQUES sinh năm 1943 tại miền Lorraine Pháp.
Tiến sĩ luật học tại Phân Khoa
Luật Jean-Monnet de Sceaux, Đại Học Paris –Nam,
Tiến sĩ Giáo Luật Công Giáo tại Đại
Học Paris và Học Viện Quốc Gia Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương Paris (
Faculté de Droit canonique de Paris et de l’Institut National des Langues et
Civilisations Orientales de Paris) .
Đề tài luận án : Les
destinataires de la mission "ad gentes" en droit canonique. La genèse
du droit missionnaire de l’Eglise catholique : le cas de l’Extrême-Orient.,
Cữ nhân và phó tiến sĩ về ngôn ngữ,
văn chương và văn minh Việt Nam tại Học Viện Quốc Gia Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông
Phương Paris. Ông cũng đã thực tập hai năm tại Việt Nam và nghiên cứu tại Trung
tâm Khoa học Xã hội Quốc gia (1994-1996).
Giáo sư khoa trưởng Phân Khoa Giáo
luật, Đại Học St Paul, Ottawa, Canada
Các tác phẩm đã xuất bản :
- De Castro
Marim à Fạfo : Naissance et développement du padroado portugais d’Orient,
des origines à 1659 (Lisbonne, Fondation Calouste Gulbenkian, 1999)
- "Portuguese
Pioneers of Vietnamese Linguistics Prior to 1650 / L'oeuvre de quelques
pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu'en
1650 (Bangkok, Orchid Press, 2002, 408 p.).
- "Des
nations à évangéliser, Genèse de la mission catholique pour
l'Extrême-Orient"
(EÉditions du Cerf, Paris 2004)
(EÉditions du Cerf, Paris 2004)
***
Những đề tài mà Roland Jacques nêu
lên hẳn đã được các bộ sách nghiên cứu lịch sử đạo cũng như đời đề cập đến, và
một số nội dung được lặp đi lặp lại như đã là hiển nhiên. Tuy thế ở Phần Dẫn
nhập khảo luận về «Bồ Đào Nha và công trình sáng chế chữ Quốc ngữ» của
tác phẩm song ngữ « Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của
Giáo hội Công giáo Việt Nam- Les missionnaires portugais et les débuts de
l’Église catholique au Viêt-nam), Roland Jacques không ngại nêu lên rằng :
«Có những sự việc thường được
xem là hiển nhiên mà thực sự lại sai...»
Phải tìm kiếm tối đa các bằng chứng
cụ thể, khách quan với những tài liệu chính xác; phải am tường bối cảnh
sâu, rộng nghĩa là toàn bộ của mọi sự kiện; phải can đảm, khiêm tốn và kiên
quyết tôn trọng sự thật trong tinh thần vô chấp, không thiên kiến ; và phải
trang bị khả năng chuyên môn cần thiết để sâu sát vấn đề... : Tất cả
những yêu sách để nghiên cứu về lịch sử như thế đã đòi hỏi Roland Jacques rất
nhiều hy sinh để đạt đến những khám phá ghi lại trong cuốn sách nầy.
Trước hết Roland Jacques yêu mến
Việt Nam. Hơn 20 năm qua, với cái tên bằng tiếng Việt-nam là Dương Hữu Nhân,
Roland Jacques đã là bạn bè của vô số người Việt trong cũng như ngoài nước. Tác
giả học tiếng Việt để đọc, để nói, để hát... và còn hơn thế nữa, tác giả ghi
danh học xong chương trình Ban cử nhân và tiền tiến sĩ (DEA) về Việt học và
Viễn Đông học tại Đại Học Viện các Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương
Quốc gia ở Paris. Nhằm đáp ứng đầy đủ hơn nữa về phần chuyên môn, tác giả
đã đến cư ngụ ở Việt Nam hơn hai năm để nghiên cứu tại chỗ. Suốt thời gian nầy,
Dương Hữu Nhân không những cố tiếp thu những kiến thức về ngôn ngữ, chữ hán,
chữ nôm, các cách nói của từng miền, truy tìm các tài liệu lịch sử qua các viện
bảo tàng, các thư viện, học viện. Nhưng tận dụng cơ hội quí báu cư ngụ ở Việt
Nam, tác giả còn đến quan sát tại chỗ những vùng mà các nhà truyền giáo đầu
tiên đã đặt chân đến.
Thứ đến, Roland Jacques có những khả
năng chuyên môn rất đặc biệt để tiếp cận những sự kiện lịch sử một cách chính
xác. Khả năng chuyên môn nổi bật là khả năng ngôn ngữ. Roland Jacques thông
thạo không những các ngôn ngữ mà trước đây Alexandre de Rhodes đã sử dụng,
nhưng còn sành sỏi các thứ tiếng khác như: Hy-lạp, Do-thái, La-tinh,
Bồ-đào-nha, Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây-ban-nha, Việt Nam và Hán tự... Chính vì
thông thạo nhiều ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng La-tinh, Ý, Bồ-đào-nha và
Tây-ban-nha mà Roland Jacques đã nhiều lần đến hầu hết các thư viện tại Âu
châu, Á châu, Mỹ châu có liên quan đến các tài liệu thời khai sinh Giáo hội
Công giáo Việt Nam để khám phá những tài liệu chưa từng được các sử gia Việt
Nam cũng như Tây phương nhắc đến trong các nghiên cứu của họ. Khả năng chuyên
môn khác nữa, đó là kiến thức về thần học *, ngữ học, sử học...
Nói tóm lại, ai đã từng tiếp xúc với
Roland Jacques, thì đều nhận ra rằng, đây là một người bạn của người Việt Nam,
một người yêu mến những gì là Việt Nam, nhưng hơn thế nữa đây là người luôn cố
tìm sự thật. Và ước mong của Dương Hữu Nhân cũng như Định Hướng Tùng Thư là cuốn
sách «Các nhà Truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo
Việt Nam» sẽ cống hiến được một số những sự kiện khách quan của lịch
sử, đẩy lui được những tiền kiến hoặc «những sự việc thường được xem là hiển
nhiên mà thực sự lại sai».
Nguyễn Đăng Trúc
Năm 1651, hai tác phẩm rất quan
trọng về lịch sử tiếng Việt Nam đã được xuất bản tại Roma: cuốn Từ điển
Việt-Bồ-La và cuốn Phép Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muốn Chịu Phép Rửa Tội Mà
Vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời; 1 điều mới mẽ đặc biệt là việc sử dụng
một hệ thống chữ viết có tính cách cách mạng lấy từ vần latinh, vừa mới được
sáng chế trước đó; hệ thống chữ viết ấy, ngày nay, thường được gọi chung là chữ
quốc ngữ. Trong gần hai thế kỷ, mải cho đến lúc xuất hiện cuốn Từ điển La-Việt
của Taberd năm 1838, 2 hai tác phẩm ấy vẫn là những công trình - duy nhất
áp dụng hệ thống chữ viết nầy được in. Hai cuốn sách ấy ghi rõ trên bìa tên của
tác giả Alexandre de Rhodes, thuộc Hội dòng Giêsu, nhà truyền giáo Tông tòa.
Thành ngữ “quốc ngữ” theo
nguyên tự hán-việt là “tiếng nói của người Việt”. Thực ra, đây là một
lối viết tiếng Việt khác với chữ hán được sử dụng chính thức trong nhiều thế
kỷ. Việc áp dụng một lối viết để đọc tiếng Việt khởi thủy là chữ nôm; hệ thống
chữ viết nầy lấy từ cách viết chữ hán mà chúng ta sẽ có dịp nói đến sau nầy.
Nhưng từ khoảng đầu thế kỷ 20, thành ngữ “quốc ngữ”, về kỷ thuật nhằm
nói đến lối viết tiếng Việt theo mẫu tự latinh; và ngày nay mọi người đều hiểu
như thế. Chữ “quốc ngữ” ấy xây dựng trên căn bản vần latinh được bổ túc
bởi hai kiểu-mẫu âm tiêu nhằm thích ứng với tính đa dạng của các âm tố nơi
tiếng Việt, và để ghi chép rõ nét các âm. Đây là lối viết ngày nay được mọi
người Việt sử dụng.
Đến khi chữ quốc ngữ đã bắt đầu được
sử dụng chính thức tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, 3 người ta cố truy tìm
lịch sử của nó, bấy giờ tên tuổi Alexandre de Rhodes đã sớm được công nhận như
là người khai sinh ra việc chuyển vần latinh vào tiếng Việt Nam. Rồi từ đó ông
được nâng lên tận mây xanh như một ngôi sao đứng một mình, soi sáng cho đêm tối
của quá khứ xa xưa, của những thời kỳ truyền giáo tiên khởi, trước khi các vị
truyền giáo Paris đến, trong đó Taberd và các đấng kế vị là những đại diện có
tên tuổi. Chính quyền thực dân và Giáo hội đều đã ca ngợi thiên tài truyền giáo
và ngữ học có một không hai của vị tu sĩ dòng Tên, tán dương những lợi ích đem
lại cho Việt Nam trong thời đại mới. Một tác giả4 từng viết : “Cha Alexandre
de Rhodes đưa Kitô giáo và nước Pháp vào Việt Nam”. Nhưng có những sự việc
thường được xem là hiển nhiên mà thực sự lại sai...
Vậy Alexandre de Rhodes là ai? Ông
sinh tại Avignon trong các lãnh địa của Giáo hoàng năm 1593, và vào dòng Tên
tại Roma năm 1612. Lên thuyền từ Lisbonne đi Đông dương năm 1619, đến Macao năm
1623, và được sai đến truyền giáo tại Đàng Trong năm 1624. Hai năm sau, từ Đàng
Trong, cùng với bề trên mình là linh mục người Bồ đào nha Pêro Marques, ông
được cử đến thành lập vùng truyền giáo Đàng Ngoài; ông cư ngụ tại đấy từ năm
1627 cho đến lúc bị trục xuất vào năm 1630. Sau mười năm sống ở Macao
(1630-1640), ông lại được gửi đến Đàng Trong và điều hành vùng truyền giáo nầy;
ông ba đợt cư ngụ tại đây từ năm 1640 đến năm 1645 là năm ông vĩnh viển bị trục
xuất. Cuối năm 1645 ông lên tàu đi Âu châu: ông đi chuyến ấy để thảo luận về
tương lai công cuộc truyền giáo Việt Nam, tại Rôma (1639-1652), rồi tại Pháp
(1652-1654). Sau đó, ông được sát nhập vào đoàn truyền giáo dòng Tên của Ba-tư,
cư ngụ tại Ispahan cho đến lúc qua đời vào năm 1660.
Về việc cho rằng Rhodes là người
khai sinh ra các công trình tính có cách quyết định về tiếng quốc ngữ, các nhà
nghiên cứu khoa học đã từng thấy hơi vướng vấp trước một mâu thuẫn: Rhodes,
sinh ở Avignon, được xem là nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ; thế nhưng hệ thống
chuyển tiếng việt bằng chữ latinh lại không mang dấu vết tiếng nói của
Boileau... . Tuy vậy đã không có ai cố tìm hiểu để bác khước vị thế khai sáng
của Alexandre de Rhodes từng được xem là cha đẻ của chữ viết nầy; người ta lại
cố tìm cách tránh né khó khăn trên bằng cách đưa ra giả thiết về gốc gác có
tính cách đa quốc của vị tu sĩ người Avignon ấy, 5 đồng thời thổi phòng
khả năng ngữ học vô song về nhiều thứ tiếng khác nhau của ông. Một số thấy được
vấn đề và lưu ý đến những thực tế lịch sử nên đã nói đến một công trình tập thể
do các nhà truyền giáo “Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và Pháp”, 6 mà dấu vết
của họ còn lưu lại; nhưng vai trò nổi bật nhất luôn được dành cho Rhodes.
Bản liệt kê ấy lại làm ta phải ngạc
nhiên. Nếu thật sự có sự hiện diện của các vị truyền giáo Bồ đào nha và Ý trong
những năm sáng chế ra chữ quốc ngữ, và cả của Alexandre de Rhodes, thần dân của
các lãnh địa thuộc Giáo hoàng, vì nguồn gốc văn hóa mà có thể gọi là có dấu
tích của người Pháp, thì người Tây ban nha lại hoàn toàn không liên quan gì vào
công cuộc ấy, trừ phi phải nại đến nguồn gốc di cư từ tổ tiên của chính
Rhodes... Những nhà truyền giáo đầu tiên người Pháp đó là các tu sĩ dòng Tên
Joseph FranÒois Tissanier và Pierre Jacques Albier, đến Việt Nam vào năm 1658;
còn các tu sĩ dòng Đaminh gốc Tây ban nha đến vào năm 1676. 7
Và Haudricourt, nhà chuyên môn về
Việt học, trong một bài nghiên cứu hết sức thấu đáo, từng cho rằng trong chữ
quốc ngữ có những dấu vết của nhiều hệ thống phát âm của Âu Châu, kể cả các thổ
ngữ miền Basque. 8
Hẳn nhiên, chủ trương chống thực dân
của những năm sau khi Việt Nam giành lại độc lập không xem đây là một công
trạng, mà còn mạ lị cả con người được đánh giá là đã từng đem đến mọi đều xấu
xa. Việc áp dụng vần latinh làm chữ viết đã được xem như một hành động chính
trị thù nghịch, một mưu đồ hủy diệt văn hóa nhằm chia rẽ cộng đồng quốc gia và
áp đặt một sự thống trị của ngoại quốc; ngoài ra, Rhodes không phải đã từng
được hiểu là đi Âu Châu kêu gọi quân đội Pháp đến hay sao?
Chúng tôi sẽ đề cập đến lối phê phán
nầy ở phần sau và không tranh cãi theo tiền kiến ý thức hệ, nhưng dựa vào những
nguồn tài liệu đang có. Sự thực thì Alexandre de Rhodes đôi khi đã dùng một lối
nói bóng bảy trong các tài liệu ông đã xuất bản: “Tôi đã nghĩ rằng Pháp quốc
vốn là vương quốc sùng đạo nhất trên thế giới, hẵn có thể cung ứng cho tôi
nhiều chiến sĩ lên đường chinh phục toàn Đông phương, để đưa về Chúa Giêsu
Kitô, và đặc biệt là tôi mong xứ ấy giúp tôi có được những giám mục, là những
bậc làm cha, làm thầy của chúng tôi trong các giáo hội ấy... ”.
9 Thế mà, có những bậc học giả cấp đại học từng giải thích các hình
ảnh tỷ dụ trong ngôn ngữ sùng đạo “chiến sĩ” và “chinh phục” theo nghĩa đen của
chúng! 10
Còn thành ngữ mà tây phương thường
dùng “romanisation du vietnamien” [la-mã hóa tiếng việt] lại là một sự
trùng hợp rủi ro và dễ tạo hiểu lầm. “Romanisation = la-mã hóa” có thể
bị hiểu sai như là một sự sửa đổi ngôn ngữ, bởi những người “Roma” (người Âu
châu) theo quan điểm riêng của họ với những âm hưởng tiêu cực của chủ nghĩa
thực dân. Kỳ thực, đây là lối diễn tả các âm tố của tiếng nói Việt Nam dựa vào
một hệ thống mẫu tự của vần latinh, thay vì dựa vào các âm hiệu lấy từ hệ thống
chữ viết trung hoa. Vì sử dụng đã quen, thành ngữ đó bất đắc dĩ phải lặp lại.
Nhưng dẫu thế nào, thì phải đợi đến
năm 1993, người ta mới chứng kiến việc phục hồi danh dự cho ông... nhưng một
lần nữa, cũng một mình ông được phục hồi danh dự mà thôi. Người ta tìm lại tấm
bia kỷ niệm ông, đã được dựng lên trước đây năm trong 1941, và đưa về ở khu
vườn của thư viện quốc gia tại Hà nội để khai trương lại vào năm 1995.
11 Nay ông được tôn vinh lại như “người khai sinh” ra chữ viết Việt Nam.
12
Khi theo học các khóa căn bản về
tiếng Việt tại Học viện ngôn ngữ đông phương (Langues’O) ở Paris, chúng tôi
thấy dáng dấp rất Bồ Đào Nha trong chữ viết nầy; sự kiện đó đã gợi hứng cho các
nỗ lực nghiên cứu vừa lịch sử vừa ngữ học của chúng tôi, và giúp chúng tôi biết
được phần nào những khối tư liệu trước đây ít được biết đến và ít được trích
dẫn. Chúng tôi thấy những tư liệu nầy có thể đem lại một chỉ dẫn mới cho câu
hỏi được đặt ra nơi tựa đề của bài nầy. Theo ý chúng tôi, nhiều công trình
nghiên cứu đã được xuất bản về Alexandre de Rhodes dường như không được thỏa
đáng vì chưa lưu ý đủ về bối cảnh lịch sử và tôn giáo liên hệ đến toàn bộ sinh
hoạt của ông tại Viễn Đông 13 --Thật thế, ông không phải là người đại diện
cho vua nước Pháp tại đây, nhưng là cho vua nước Bồ Đào Nha mà ông đã tuyên thệ
trung thành với tư cách là nhà truyền giáo đặt dưới sự bảo trợ của triều đình
nước ấy. 14 Từ đó, những kết luận của các công trình nghiên cứu
trước đây, theo ý chúng tôi, cần phải kiểm chứng lại. Ở đây, chúng tôi sẽ cố
gắng nêu lên trước hết bối cảnh lịch sử tổng quát, đúng theo nội dung được tìm
thấy nơi khối tư liệu mà chúng tôi sưu tra, để sau đó nắm kỹ hơn trong những
hoàn cảnh nào, do ai và trong mục đích gì việc áp dụng vần latinh tạo ra chữ
viết Việt Nam đã được thực hiện.
1.
Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Bồ Đào Nha và Việt Nam
Chúng ta sẽ nghiên cứu thời gian một
thế kỷ rưởi, từ năm 1498, niên kỷ đánh dấu việc các tàu thuyền đầu tiên của Bồ
Đào Nha đến Ấn Độ, đến năm 1651, niên kỷ của việc xuất bản các tác phẩm được
nêu lên ở đầu bài nầy. Trước hết nên nhớ rằng Bồ Đào Nha đã chiếm và đã giữ
được độc quyền hiện diện của những người Âu châu tại Á châu 15 suốt một
thế kỷ, về mặt buôn bán cũng như về lãnh vực truyền giáo. Đến khúc ngoặt của
thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, các đối thủ cạnh tranh về thương mại mới xuất hiện:
đó là người Hòa Lan và người Anh. Trong cả hai trường hợp nầy, những quốc gia
liên hệ là những quốc gia không công giáo, nên cả hai đều không có ảnh hưởng
trực tiếp trên các công cuộc truyền giáo của Bồ Đào Nha. Về phần mình, nước
Pháp hoàn toàn vắng mặt trên vùng đất Á châu suốt cả thời kỳ chúng ta đang bàn
đến. Ngược lại, người ta thấy có sự hiện diện gián tiếp của nước Ý: mặc dầu
không một tiểu quốc nào của bán đảo nầy đã hiện diện với tư cách quốc gia của
mình, nhưng Bồ Đào Nha đã kết tập vào trong hàng ngũ của họ, trước hết là những
thuyền viên, sau đó đặc biệt là những nhà truyền giáo gốc người Ý. Về sự kiện
nầy Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ; và trong công cuộc truyền bá Kitô
giáo, luôn được đặt dưới sự chi phối của Bồ Đào Nha trong thời gian ấy, đã thấy
có nhiều người Ý tài giỏi. Alexandre de Rhodes, thần dân của Giáo hoàng và được
đào tạo tại Roma, thuộc vào nhóm đó. Nhưng trước khi nghiên cứu kỹ lưỡng về
sinh hoạt của công cuộc truyền bá Kitô giáo, cần định vị rõ hơn sự gặp gỡ giữa
Bồ Đào Nha và Việt Nam.
Sau năm 1511, 16 khi
những thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu quay lên hướng Bắc vượt qua eo biển
Malacca, thì mục tiêu chính của họ là hai đế quốc lớn, Nhật Bản và Trung Hoa.
Chuổi dài các quốc gia nhỏ giữa Malacca và Macao, đối với các thuyền nhân và
thương gia chỉ được xem là những bến, trạm tiếp tế. 17 Còn đối với các
nhà truyền giáo, khởi từ Phanxicô Xavie 18 vào giữa thế kỷ XVI, mục
đích các nỗ lực của họ là nhằm làm cho hoàng đế Trung Hoa trở lại: người ta
nghĩ rằng một khi có được sự trở lại đạo nầy, thì các quốc gia lệ thuộc từ miền
bắc Việt Nam (Đàng Ngoài) đến Xiêm, hẳn phải noi theo. 19 Trong
khuôn khổ chiến lược truyền giáo như thế, các nước nhỏ nói trên không được xem
là ưu tiên.
Trong thực tế, những cuộc tiếp xúc
đầu tiên giữa người Bồ Đào Nha và Việt Nam được biết đến như những giai thoại.
Người ta kể lại, qua trí nhớ, có một bia đá được dựng lên năm 1524 trên đảo đối
diện với hải cảng Phe-phô, với người làm chứng là Fernão Mendes Pinto;
20 có một cố gắng rao giảng về Kitô giáo đầu tiên vào năm 1533, mà người
ta chỉ biết được qua một nguồn tài liệu duy nhất của Việt Nam, có tính cách
gián tiếp và trễ; 21 và cuối cùng có một nhận định về ngữ học, không tích
cực cho lắm, do Gaspar da Cruz trong một lần cập bến vào năm 1555, được kể lại
trong cuốn “Bản Tường Trình Về Trung Hoa” của ông. 22
Những nỗ lực truyền giáo đầu tiên
tại Việt Nam, mà các nguồn tài liệu Tây phương lưu lại dấu tích, thực sự đã xảy
ra sớm, từ cuối thế kỷ XVI. Trong khuôn khổ chiến lược truyền giáo của họ, các vị
tu sĩ dòng Tên cố giữ độc quyền truyền giáo ở Trung Hoa và Nhật Bản; nhưng
nhiều lần họ khích lệ các dòng tu khác nên có sáng kiến truyền giáo tại các
“nước nhỏ”. Vì thế mà vào năm 1583, mới thấy xuất hiện đoàn truyền giáo đầu
tiên dòng Phanxicô người Tây ban nha đến Đàng Trong. Và đợt nầy hoàn toàn thất
bại23 . Năm sau đó, lại có đợt truyền giáo lần thứ hai; Bartolomé Ruiz, đã
từng thực hiện đợt truyền giáo đầu, tuy thành công sống được một mình ở vùng Đà
nẵng trong vòng gần hai năm, nhưng không gặt được kết quả gì hơn.
24 Do sự trung gian trọng tài của vua Philippe II nước Tây ban nha,
hai tu sĩ dòng Phanxicô người Bồ đào nha nối tiếp đến lại, nhưng cũng chỉ lưu
lại được sáu tháng. 25 Vào cuối thế kỷ ấy, các vị ẩn sĩ dòng thánh Augustinô
người Bồ Đào Nha, đến phiên họ, củng cố gắng vào truyền giáo hai lần
26 nhưng kết quả rất khiêm tốn, và bỏ cuộc vì những lý do đặc biệt là tiếp
liệu. 27 Ký sự của các tu sĩ dòng Phanxicô và dòng Augustinô hé cho thấy
rằng vào dịp nầy việc gặp gỡ giữa các nền văn hóa thực như là một đối thoại
giữa những người điếc. Nó không đem lại những kết quả thấy được một cách cụ thể
trong bối cảnh Việt Nam.
Trong lịch sử cuộc bành trướng của
Bồ Đào Nha, việc lưu ý thật sự đến Việt Nam xuất hiện khá trễ. Yếu tố quyết
định phát sinh do việc Nhật Bản đóng cửa không cho buôn bán cũng như truyền
giáo, trong những thập niên đầu của thế kỷ XVIIe. 28
Vào thế kỷ 17, Việt Nam tự gọi tên
là Đại Việt, danh xưng nội bộ; tên gọi “An Nam” dùng trong khuôn khổ các mối
quan hệ với Trung Hoa và thế giới bên ngoài. Biên giới phía nam bấy giờ là phía
bắc của Nha Trang hiện nay, cho đến năm 1653 - Toàn xứ có một sự thống nhất
trên danh xưng đặt dưới sự cai trị của nhà Lê phục hưng. Nhưng trong thực tế,
hai miền do hai Chúa cai quản được phân ranh do con sông Gianh, ở vĩ tuyến 18;
cha truyền con nối chúa Trịnh cai trị Đàng Ngoài phía Bắc, chúa Nguyễn, Đàng
Trong, phía nam. Việc phân cách dứt khoát xảy ra vào năm 1614, năm mà xứ Đàng
Trong của chúa Nguyễn đuổi các quan lại từ Bắc vào. Xứ Đàng Trong tân lập, vì
đất hẹp và dân nghèo, nên quyết tâm mở rộng ngoại thương để cầu sự thịnh vượng;
xứ ấy sẽ là khách hàng buôn bán ưu đãi trong vùng của người Bồ Đào Nha ở đảo
Macao trong một thời gian rất lâu. Từ ngữ Bồ đào nha gọi Đàng Trong là
“Cochinchine” [do chữ Kochi là cách gọi tên nước Việt Nam của người Mã lai và
Nhật bản, rồi thêm vào chữ “Chine” để phân biệt với Cochim là một thành phố ở
Ấn độ (Cochin)], lúc đầu được áp dụng cho toàn nước Đại Việt, nhưng vào chính
thời ấy lại được hiểu là vùng đất của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn thường được gọi
là “vua xứ Cochinchine” ngay trong các bản văn, dẫu các tác giả am tường tình
thế vẫn thường nhắc lại rằng đây chỉ là một “alevantado”, tức là một gia thần
chống lại vị vua thật đang trị vì ở miền Bắc. Còn vùng đất chúa Trịnh phía Bắc,
người Bồ đào nha gọi là vương quốc “TUNQUIM” (do chữ Đông kinh) một chữ hán
việt có nghĩa là “kinh đô miền đông”, và rõ rệt hơn là Thăng long, tức Hà nội
ngày nay, kinh đô của nhà Lê và chúa Trịnh.29
Vào khoảng năm 1616, thể theo lời
mời của chính quyền Đàng Trong Việt Nam, một số dự án di cư - định cư của Bồ
Đào Nha được đề nghị 30 và được sự hỗ trợ của phó vương Jerónimo de
Azevedo và triều đình.31 Nhưng các phó vương João Coutinho và Francisco
de Gama nhất quyết bác bỏ, nên dự án ấy32 bị dẹp đi ngoại trừ những
lãnh vực thuần túy tôn giáo được nêu lên trong dự án. Nếu chủ tâm tìm lợi ích
trên bình diện chính thức của nước Bồ Đào Nha đối với Việt Nam, bấy giờ sớm
nguội dần chỉ còn leo lét, thì ngược lại có một sự hợp tác thương mãi đều đặn
giữa thành phố Macao và hai xứ của Việt Nam. Sự hợp tác thương mãi đó kéo dài
trong hai thế kỷ với những thành quả bất thường. Những khía cạnh chính trị và
thương mải nêu lên đây đã được nhiều công trình nghiên cứu lỗi lạc khai thác,
đặc biệt là của Pierre-Yves Manguin 33 và của Georges Bryan Souza,
34 cũng như xuyên qua nhiều tác phẩm đã được xuất bản của Manuel
Teixeira.35 Chúng ta sẽ không trở lại vấn đề ấy.
Trong địa hạt tôn giáo, các miền
truyền giáo tại Việt Nam được Tỉnh Dòng Tên của Nhật Bản, liên hệ với các tòa
giám mục Bồ Đào Nha ở Malacca và Macao,36 chính thức thành lập: ở Đàng Trong
vào năm 1615,37 ở Đàng Ngoài vào năm 1627.38 Tỉnh dòng Nhật bản của
dòng Tên hoàn toàn thuộc quyền Bồ đào nha và do nước Bồ đào nha tài trợ trong
khuôn khổ bảo trợ của hoàng gia. Nhân sự đa số người Bồ đào nha, nhưng ngay từ
đầu có nhiều người Ý trong đó; có người Nhật, nhưng chỉ ở vào thành phần thuộc
cấp, kể từ cuối thế kỷ XVI. Tỉnh dòng ấy nới rộng dần lãnh thổ quyền hạn của
mình đến Trung hoa (sau nầy trở thành phó-tỉnh dòng tự trị) và đặt trụ sở tại
Macao. Vào thời kỳ chúng ta đang nghiên cứu, tỉnh dòng nầy cố nới rộng về phía
Đông dương và các vùng bán đảo phía nam Thái bình dương, hướng theo các con
đường hàng hải khởi từ Macao. Thường các tu sĩ dòng Tên ít khi lưu ý đến các
thẩm quyền các địa phận, mặc dầu trên lý thuyết các thẩm quyền nầy được trao
trách nhiệm phối trí công việc truyền giáo.
Hai cơ sở thuộc Bồ đào nha và thuộc
dòng Tên tại Đàng Trong và Đàng Ngoài đã gặt hái thành quả lớn lao, xây dựng
nền tảng chắc chắn cho cộng đồng Kitô giáo Việt Nam. Vào năm 1658, khi Tòa
thánh từ chối không công nhận triều vua Bồ Đào Nha mới được phục
hưng,39 nên đã quyết định đặt các vùng truyền giáo nầy dưới quyền
mình,40 thì bấy giờ đã có gần 70 nhà truyền giáo với tám quốc tịch khác
nhau kế tiếp đến Việt Nam, trong đó có 35 người Bồ Đào Nha, 19 người Ý và 7
người Nhật Bản.41
Hai vương quyền Tây ban nha và Bồ
đào nha thống nhất làm một từ năm 1580 đến năm 1640; nhưng sự thống nhất tập
trung vào một người không đi đôi với việc hợp nhất các chính phủ, các cơ quan
hành chánh, các thuộc địa hải ngoại, mà đôi lúc quyền lợi mỗi nước lại vẫn
tương phản. Dưới triều đại vua Philippe IV Tây ban nha (từ năm 1621), nước Bồ
đào nha càng ngày càng gặp khó khăn và mất mát tất cả do sự thống nhất vương
quyền vào một người, kể cả vùng Viễn đông. Một cuộc đảo chính đưa Jean IV de
Bragance (1640-1656) lên ngôi vua. Tòa thánh vẫn tiếp tục nhìn nhận Philippe IV
như là vị vua của Bồ đào nha cho đến ngày vua nầy mất (1665). Ngược lại, Bồ đào
nha phục hưng lại thành công thuyết phục được nước Pháp vào phe mình (các hiệp
định 1641 và 1655), sự kiện đó mở đường cho các nhà truyền giáo người Pháp đến
các vùng đất truyền giáo thuộc quyền Bồ đào nha, sau năm 1655. Và công việc xảy
ra thực sự kể từ năm 1658.
Cũng chính vào lúc ấy, dựa vào những
ước tính ít lạc quan nhất, đã có hơn 100.000 Kitô hữu Việt Nam,42 rải rác ở
trong hàng trăm cộng đoàn địa phương.43 Họ được hướng dẫn bởi những giáo
dân Việt Nam có trình độ đào tạo vững chắc,44 đủ khả năng để đương đầu với
những hoàn cảnh khó khăn nhất ngay từ 1644 - 1645, họ đã từng có những vị tử
đạo của họ trong số đó Macao còn nhớ đến thầy giảng giáo lý trẻ tuổi An-rê,
người đầu tiên trong một danh sách rất dài.45 Một thành quả như vậy còn
đáng làm ta ngạc nhiên hơn nữa vì đã được thực hiện bên ngoài sự hiện diện của
bất cứ hình thức quân sự hay cường lực nào. Trong cùng một thời gian ấy, cộng
đồng Kitô giáo rực rỡ của Nhật Bản đang gặp nguy cơ bị tàn lụi, còn cộng đồng ở
Trung Hoa đang gặp phải khó khăn; Xiêm bấy giờ có độ khoảng 200 tín hữu thôi,
và Macassar thì chỉ có một nhóm nhỏ.46 Đối với toàn bộ Á châu, ngoài hai
vùng nhỏ là Goa và Macao, thì chính tại Việt Nam và tại Sri Lanka mà người ta
chứng kiến được rõ nét nhất sự liên tục lịch sử giữa công cuộc truyền giáo Bồ
Đào Nha với các Giáo hội kitô giáo hiện nay.
2.
Công cuộc truyền giáo của dòng Tên tại Việt Nam và tiếng Việt
Ở Việt Nam cũng như ở các nơi khác,
nỗ lực truyền giáo đã đi đôi với những thực hiện cao độ trong lãnh vực văn hóa.
Năm 1615 ngay khi khởi công truyền giáo tại Việt Nam, các tu sĩ dòng Tên của
tỉnh dòng Nhật Bản đã có một kinh nghiệm hơn hai mươi năm nghiên cứu và sáng
chế về ngữ học tiếng Nhật.47 Sự kiện đó rất hữu ích vì đối chiếu với tiếng
Trung Hoa, tiếng Việt và tiếng Nhật có một vị thế tương tự, và vì hai thứ tiếng
nầy cùng chịu chung một loại ảnh hưởng xuyên qua lối chữ vuông.48
Những bản dịch các bản văn Kitô giáo
đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618, và phần thiết yếu do công của Francisco
de Pina, linh mục dòng Tên sinh ở Bồ Đào Nha;49 ông đã tốt nghiệp ở trường
Macao, bấy giờ nhà văn phạm nổi tiếng về tiếng Nhật Jaão Rodrigues “TÒuzzu”
cũng hiện diện tại đấy từ năm 1610.50 Trong công việc của mình, linh mục
Pina nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi có tên
rửa tội là Phêrô; kiến thức uyên bác về chữ Hán của người trẻ tuổi nầy hẳn rất
là hữu ích trong công việc của Pina.
Những sự kiện đó rút ra từ một bản
phúc trình chính thức của cơ sở truyền giáo: “người ấy [một nhân sĩ thân quen
với đoàn truyền giáo] có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh
lợi và thông minh nhất trong vùng; anh nầy lại viết tiếng hán rất đẹp, được dân
chúng hâm mộ vô cùng... Anh tên thánh rửa tội là Phêrô, nhờ có tài hay chữ nên
giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave Maria, Credo và
Mười điều răn ra tiếng địa phương, (các kinh) mà Kitô hữu đã thuộc lòng. Linh
mục cũng viết ra các điều phải tin bằng tiếng địa phương ấy; trong bản đó người
ta tuyên xưng rõ rệt chỉ có một Đức Chúa Trời, các mầu nhiệm về Ba Ngôi, về
Chúa Nhập thể làm người, về chuộc tội, cũng như sự cần thiết của đức tin và các
bí tích để được tham dự vào ơn ích của Chúa Kitô, Chúa chúng ta. Các kitô hữu
chép lại tất cả những điều ấy, và đã bắt đầu lần hạt mân côi y như tại xứ chúng
ta.51 Theo thói quen thực hiện các biên bản hằng năm của các tu sĩ dòng
Tên, “linh mục”, tác giả các công trình liên hệ không minh nhiên được nêu tên.
Ba tu sĩ dòng Tên bấy giờ có mặt tại cơ sở truyền giáo Pulo Cambi (có thể tương
ứng với tên gọi Quy Nhơn ngày nay), lúc công trình nầy tiến hành là: linh mục
Buzomi, bị “bịnh nặng, nên không đi giảng cho người ta trở lại
được”,52 linh mục Pina và linh mục Borri, một người vừa đến và mới bắt đầu
học tiếng. Chúng ta hiểu rằng các công trình được thực hiện dưới sự giám sát
của Buzomi, cựu bề trên cơ sở truyền giáo Đàng Trong (1615-1618) và hiện là bề
trên cơ sở địa phương, nhưng những tác nhân chính yếu thực hiện công trình nầy
là linh mục Pina và chàng thanh niên Việt Nam cộng tác với ông ấy. Theo chính
lời xác nhận của chính linh mục Pina, ngay từ năm 1622, ông đã hoàn thành việc
xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự latinh cho thích hợp với lối phát âm và
thanh điệu tiếng Việt Nam. Ông đã làm được một tuyển tập và bắt đầu viết một
bản văn phạm. Kết quả đó, linh mục Pina đã đạt được một cách vất vả, với sự trợ
giúp của một số ít học sinh Việt Nam qui tụ chung quanh ông.53
Nhà chép sử dòng Tên Bartoli cho
rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng.54 Một trong những
chứng lý là một bức thư viết năm 1662 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có
sự lẫn lộn với Pina chăng. Một cách chung, các xác quyết của Bartoli liên quan
đến các kiến thức ngữ học tuyệt vời của người đồng hương của ông là Buzomi lại
không ăn khớp với những tài liệu tồn trữ mà chúng ta có thể truy cứu. Ngoài ra
cũng cần lưu ý rằng Bartoli xem ra không biết đến những công trình sáng tác ngữ
học của Pina, lại nhìn nhận khả năng của vị nầy. Tiếp sau bản tường thuật về
cái chết của nhà truyền giáo Bồ đào nha ngày 15 tháng 12 năm 1625, Bartoli đã
viết như thế nầy thay cho bài điếu văn: ” Linh mục Pina là người Bồ đào nha,
thọ 40 tuổi. Ngài được người ngoại giáo mến chuộng , vì ngài nói tiếng của họ, như
chính ngài là người bản xứ Đàng Trong vậy”.55
Năm 1624, Francisco de Pina mở
trường dạy tiếng Việt cho những người ngoại quốc đầu tiên,56 trong đó có hai
học trò rất cự phách: linh mục người Bồ Đào Nha António de Fontes,57 một
nhà truyền giáo kỳ cựu và sẽ là một trong những cột trụ cho xứ truyền giáo Đàng
Trong; và Alexandre de Rhodes mà chúng ta nói đến. Vị nầy sớm được gọi để thành
lập xứ truyền giáo Đàng Ngoài, nơi mà Ngài sẽ thực hiện sứ mạng của mình từ năm
1627 đến năm 1630.
Ngày 15 tháng 12 năm 1625, một tàu
buồm Bồ đào nha bỏ neo ở vịnh Đà nẳng, không cập bến được vì sợ bão. Một chiếc
thuyền rời cảng đi đến tàu. Pina lên tàu để mang hàng hóa cần thiết lên bờ:
rượu vang và bột lúa mì để dâng lễ. Khi trở lại bờ, một cơn gió mạnh làm chìm
thuyền; bị vướng bởi chiếc áo dòng, Pina chết đuối, trong lúc thủy thủ đoàn
được cứu. Đây là cái tang lớn cho dân chúng địa phương cũng như cho sở truyền
giáo; một chiếu chỉ trục xuất các nhà truyền giáo được đình chỉ thi hành, cho
phép cử tang trong ba tháng, và rồi lại hủy bỏ luôn.58
Nhưng đừng tưởng rằng sau cái chết
bi thảm của Francisco de Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã giảm bớt nỗ
lực về ngữ học. Công việc của các vị tiên phong ấy vẫn được tiếp tục ít nhất
trong hai thập niên. Cố gắng của họ trước hết nhằm sáng tạo một ngữ vựng Kitô
giáo và viết ra những phần căn bản về văn chương Kitô giáo.59 Vai trò của
các văn nhân Kitô giáo Việt Nam ở đây cũng rất lớn; một số tên tuổi của họ cần
được nêu lên.60
Mặt khác nỗ lực phân tích văn phạm
và ngữ âm tiếng Việt được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống để kiện toàn
dần hồi lối viết bằng mẫu tự latinh gọi là quốc ngữ, đây là một công trình tập
thể, khó mà phân định được phần riêng nào của một ai. Nhưng điều chắc chắn là
Alexandre de Rhodes sớm tách ra khỏi công trình tiếp tục nầy vì vào lúc ấy ông
vắng mặt ở xa tận Macao từ năm 1630 đến 1640: Ở tại đây, ông thi hành tác vụ
của mình trong môi trường sống của người Trung Hoa, mặc dầu vẫn tiếp tục theo
dõi những tiến bộ được thực hiện tại Việt Nam.61 Chính ông đã nêu tên của
hai nhà từ-vựng-học nổi tiếng nhất trong bài tựa cuốn từ điển62 : hai
người Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral63 và António Barbosa.64
Trong công trình sáng tác độc đáo
nầy của các linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam, giai đoạn trưởng thành
đánh dấu bằng một cuộc định chuẩn, một cuộc thảo luận mâu thuẫn được tổ chức
tại Macao vào năm 1645 để bàn về một vấn đề gây tranh cãi liên quan đến hệ
thống thuật ngữ Kitô giáo bằng tiếng Việt.65 Kho tài liệu lưu trữ còn giữ
lại cho chúng ta tên tuổi các chuyên gia lão luyện chi phối các cuộc thảo luận:
bên cạnh Amaral, được chỉ định như nhà chuyên môn tài ba nhất (peritissimus),
và Barbosa, còn thấy Baltazar Caldeira, sinh ở Macao, cũng như Manuel Pacheco
và Pêro Alberto; hai vị sau nầy đều sinh ở Bồ Đào Nha. Đối diện với họ,
Alexandre de Rhodes chủ trương một lập trường trái ngược; và ý kiến của ông bị
gạt bỏ. Mặc dầu sau đó một vị dòng Tên người Sicilia còn trẻ, tên Metello
Saccano66 hăng say hỗ trợ cho lập trường của ông, nhưng rồi quyết định
trên vẫn giữ lại.
Thực ra, vấn đề không chấm dứt ở
cuộc hội năm 1645. Theo đề nghị của Alexandre de Rhodes, vấn đề được đưa về
Roma và được nghiên cứu lại trong những năm của thập niên 1650 trước bộ Truyền
bá Đức tin, và sau đó trước bộ Thánh vụ.67 Có một bức thư khá kỳ lạ của tu
sĩ dòng Tên người Ý Giovani Filippo Marini gửi cho các bề trên của mình tại
Rôma về việc nầy, thư viết vào năm 1655.68 Với giọng văn có vẽ tranh cãi, trong
thư tác giả nêu lên khả năng đáng nghi ngờ của Rhodes về ngữ học Việt Nam. Tu
sĩ nầy cố đánh giá thấp Rhodes vì Rhodes nói theo tiếng Đàng Trong, “đánh giá
là quê kệch” so với tiếng chuẩn ở kinh đô; cũng với tiếng nói phía nam ấy mà
chính tả của cuốn Từ điển dường như thấy xuất hiện trong một vài trường hợp.
Nhưng cốt lõi vấn đề không phải ở đó: nó liên quan đến nghĩa chính xác của lối
nói hán-việt (không liên quan đến âm giọng địa phương) “nhin danh
[Cha]”. Lối nói nầy về mặt thần học mơ hồ vì thiếu một chữ nhằm nói đến số ít
về mặt văn phạm. Rhodes đòi phải thêm vào một phụ-từ, sợ rằng người ta nghĩ có
ba “danh”, và như thế là ba quyền lực siêu nhiên khác biệt; trong trường hợp
đó, phải chăng đã đi ra ngoài tín lý kitô giáo, và phải chăng phải nghĩ đến
chuyện rửa tội lại các kitô hữu.
Nên lưu ý là lối nói do các vị
chuyên môn của cuộc họp định chuẩn nầy vẫn còn được sử dụng trong Giáo hội Việt
Nam ngày hôm nay. Tất cả các nhà chuyên môn ấy, đều là người Bồ đào nha.
3.
Những người Bồ Đào Nha tại Viễn Đông: tiếng tăm của họ và những tiền kiến lịch
sử
Người ta có thể tự hỏi tại sao lịch
sử đã ghi lại quá ít những sự việc nầy, đến độ đôi khi xem sự hiện diện và công
việc làm của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha ở Việt Nam như quá ít ỏi không đáng
kể. Hẳn nhiên, hình ảnh của Bồ Đào Nha ngày nay trên thế giới đã xuống cấp: xưa
kia là một cường quốc thế giới, nhưng nay quốc gia nầy đi đến độ hầu như là
hình ảnh “Cô Lọ Lem” của Tây Âu. Thực ra, ngay từ các thế kỷ trước đã
từng có lập trường chống Bồ Đào Nha, mà sự kiện ghi lại một cách chắc chắn
trong các tài liệu. Qua các tài liệu nầy, chúng ta có hai thí dụ.
Năm 1653, tu sĩ dòng Tên người Ý
Daniello Bartoli trình lên ban kiểm duyệt của Hội Dòng một bộ sách lớn viết về
lịch sử rao giảng Phúc Âm ở Trung Hoa, bộ sách đó cũng sẽ là đại tác phẩm cổ
điển đầu tiên về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam;69 hai trong ba vị
kiểm duyệt bấy giờ đã trách cứ tác giả về lập trường chống Bồ Đào Nha của
ông.70 Người ta cũng thấy một phản ứng tương tự trong bản chính của các thư của
Goswin Nickel, Bề trên tổng quyền của các tu sĩ dòng Tên, gửi vào giữa các năm
1655 và 1662 cho các tu sĩ trong dòng gốc người Ý và người Pháp ở Việt Nam và
Viễn Đông. Trong các thư, ngài tỏ ra khó chịu về những lời tấn công có tính
cách cố chấp của các tu sĩ trên đây chống lại những vị người Bồ Đào Nha, các
phương pháp cũng như các việc họ thực hiện: các cha có quyền tố giác các lỗi
lầm của người nầy hay người nọ, nhưng làm mất uy tín một quốc gia một cách
chung như thế thì không thể chấp nhận được,71 ngài nói một cách thiết yếu
với các vị liên hệ như thế.
Nên đặt gần hai sự kiện đó với hai
dữ kiện lịch sử khác thường được biết đến. Các vị thừa sai Paris và các vị giám
quản tông tòa do Tòa thánh gởi đến Việt Nam từ năm 165972 chỉ có thể cũng
cố được quyền uy của mình tại nước nầy với giá của một cuộc xung đột lâu dài và
cam go chống lại các tu sĩ dòng Tên: Các vị dòng Tên chống lại họ nhân danh sự
trung thành hầu như không suy suyển đối với sự bảo trợ của triều đình Bồ Đào
Nha.73 Trong cuộc tranh cãi sôi động nầy và tiếp theo đó, dường như người
ta đã đưa ra nhiều phê phán bất công: có khuynh hướng muốn nêu lên tình trạng
vô-thẩm-quyền về mặt pháp lý hoặc sự bất lực của những vị đến trước, hoặc phóng
đại những thiếu sót của họ để biện minh cho sự can thiệp độc đoán của kẻ mới
đến. Cuối cùng như ở phần đầu, chúng tôi đã nêu lên vai trò đặc biệt của Pháp
tại Việt Nam hai thế kỷ sau đó: vì muốn truy tìm những sự kiện đã có từ xa xưa
nơi “cuộc viễn chinh của mình”, trong đó việc truyền bá Phúc âm, xâm lăng bằng
quân sự và ý đồ thực dân chen lẫn với nhau, mà người ta tin là khởi thủy có từ
năm 1624, năm Alexandre de Rhodes đến Việt Nam, xem đây như một dấu chỉ của một
sự tiền định về vai trò mà nước Pháp và người Pháp được gọi để thi hành tại xứ
này.74
Chúng tôi nghĩ rằng đây hẳn là toàn
bộ các sự kiện có thể giải thích phần nào về sự quên lảng, giảm thiểu, ngay cả
việc xóa bỏ vai trò cốt cán mà Bồ Đào Nha đã thực hiện tại Việt Nam xuyên qua
các vị truyền giáo dòng Tên trong thế kỷ XVII, nơi những tác phẩm đặc biệt
nghiên cứu vấn đề liên hệ.75 Ngoài ra phần lớn các tác phẩm nầy đã được xuất
bản trong khung cảnh văn hóa của Pháp76 : người ta cố ý làm nổi bật sự
hiện diện và ảnh hưởng của Pháp,77 đôi khi có tính cách phản niên kỷ. Còn
đối với giới nghiên cứu người Việt, cho đến nay dường như hầu hết họ khó tránh
khỏi tình trạng bất cập vì không thông hiểu tiếng Bồ Đào Nha, nên phần lớn chịu
ảnh hưởng của những gì đã được xuất bản bằng tiếng Pháp.78 Năm 1990, một Hội
Nghị Khoa Học Quốc Tế về thành phố Hội An đã được tổ chức tại Đà Nẵng. Nếu dựa
vào bối cảnh được trình bày trên đây, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy
không những cựu đế quốc thực dân bị đặt ra bên lề, mà ngay cả nước Bồ Đào Nha
cũng bị lảng quên, trong khi đó lại có phần của Hòa Lan.79
Đối với người Việt Nam hôm nay, vấn
đề gặp gỡ các nền văn hóa giữa Việt Nam và Tây phương còn vướng vấp nhiều điểm
gây tranh cãi, như chính chúng tôi đã từng kinh nghiệm được.80
4.
Cuộc tranh luận về lịch sử được nêu lên lại như thế nào?
Cũng vào năm 1645, thời điểm tổ chức
tại Macao cuộc bàn luận ngữ học với nhiều ý kiến mâu thuẫn như đã nêu lên, thì
Alexandre de Rhodes lại được vị bề trên Manuel de Azevedo ủy thác một sứ mệnh
tại Roma.81 Chúng tôi sẽ không đề cập ở đây về những khía cạnh ngoại giao
của chuyến đi, cũng như những hậu quả của chuyến đi ấy đối với các xứ truyền
giáo tại Viễn Đông82 : những hậu quả nầy rất đau khổ cho Bồ Đào Nha, nhưng
không thể qui lỗi cho linh mục Rhodes.83 Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một sự
thành công không thể chối cãi và cũng không ai đặt thành vấn đề: việc xuất bản
tại Roma cuốn từ điển và cuốn giáo lý mà nhà truyền giáo ấy mang theo trong
hành lý của mình, cũng như một số tác phẩm lịch sử khác về công cuộc truyền
giáo tại Việt Nam. Dựa vào những tác phẩm được xuất bản nầy mà nhân vật
Alexandre de Rhodes bắt đầu trở thành truyền thuyết, hầu như thần thoại đối với
lịch sử của các công cuộc truyền giáo tại Việt Nam cũng như đối với lịch sử
tiếng Việt.84
Chúng tôi thấy đây là một sự sai lầm
về lịch sử. Hẳn nhiên, Rhodes là một nhà truyền giáo lớn, nhưng không phải là
một siêu nhân: khẩn thiết phải trả lại thực trạng con người cho con người ấy,
và đặt lại công trạng nầy trong bối cảnh lịch sử thật của nó. Ngoài những vấn
đề liên quan đến nỗ lực xây dựng cho ngữ học Việt Nam, mà chúng ta sẽ bàn thảo,
chúng ta nêu lên đây một vấn đề khác nữa.
Kitô giáo tại Việt Nam, mặc dầu đã
được du nhập vào từ ba thế kỷ rưởi, vẫn còn là một thiểu số bị chống đối; thiểu
số đó đã từng chịu đựng và còn tiếp tục chịu đựng một sự tẩy chay thực sự trong
xã hội. Nhiều người gièm pha trách cứ rằng Kitô giáo đã được nhập cảng đến
trong mớ hành lý của giới thực dân người Pháp, mà hẳn Alexandre de Rhodes là kẻ
mở đường.85 Việc phục hồi danh dự rất gần đây cho vị nầy từ phía nhà cầm
quyền không gột bỏ hết truyền thuyết xấu xa đó, đặc biệt trong sinh hoạt hải
ngoại của người Việt Nam.86 Thiết định lại sự thật lịch sử về những nguồn
gốc của cộng đồng công giáo sẽ nêu lên được một cách hiển nhiên những thực
trạng hoàn toàn khác: chính trong khuôn khổ của một sự đối thoại và trao đổi
với nhau, một cách hoàn toàn bình thản, giữa người Bồ Đào Nha và người Việt Nam
mà các nhà truyền giáo, những con người tự do và chân thành, đã thành công
trong việc làm cho một phần dân chúng nghe theo mình. Trong bầu khí thông cảm
xâu sa, họ đã hòa mình vào ngôn ngữ và tập tục của những người đối thoại với
họ; những người nghe họ đã chọn lựa một cách tự do, và gia nhập vào đức tin
mới, được biểu lộ ra trong chính ngôn ngữ của mình. Trong khung cảnh như thế,
linh mục Rhodes, thần dân của Giáo hoàng, đã thi hành tác vụ của ông y như các
huynh đệ cùng dòng người Bồ Đào Nha, Ý hoặc Nhật Bản.
Tìm lại sự thật lịch sử, đằng sau
huyền thoại được tô vẽ trong cái nhìn theo lối Pháp, là một nỗ lực đặc biệt
gian nan và bạc bẽo. Nhưng để thực hiện công tác nầy, sử gia nghiên cứu về công
cuộc truyền giáo tại Việt Nam lại có được những nguồn tài liệu phong phú. Đây
không phải là những tài liệu chính thức, dẫu thuộc lãnh vực chính trị hay kinh
tế; những tài liệu như thế đã từng được biết đến và phần lớn đã được xuất bản
và khai thác. Hơn nữa, chẳng bao giờ có thuộc địa Bồ Đào Nha thực sự tại Việt
Nam và những trao đổi chính trị lại rất ít: hiệp ước duy nhất là thỏa ước nhất
thời Bồ-Việt năm 178687 . Loại tài liệu ấy chỉ giúp xác định bối cảnh xã
hội, kinh tế của công cuộc truyền giáo, chớ không xác định được nội dung của
nó.
Phần thiết yếu của các nguồn tài
liệu gồm các bản chép tay do các tu sĩ, phần lớn lại chưa xuất bản. Nói chung,
thì ta nên lưu ý là những tài liệu chưa xuất bản có giá trị nghiên cứu hơn
những bản đã được xuất bản, nếu chúng có thể tìm được, vì thời đó việc xuất bản
trước hết nhằm đào tạo những tâm hồn đạo đức của Âu châu88 và do đó có thể
được gọt giũa cho ăn khớp với mục đích nầy. Những bản viết tay, đặc biệt là
những bản báo cáo chính thức và trao đổi thư từ riêng tư giữa các tu sĩ dòng
Tên, phần lớn được lưu trữ ở Lisbonne, ở Madrid và nhất là ở Roma, rải rác
trong nhiều bộ sưu tập.89 Chúng được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, một số ít bằng
tiếng latinh, và đôi khi bằng tiếng Ý. Chính nội dung của chúng sẽ cho phép ta
thiết lập lại niên kỷ của công cuộc truyền giáo một cách chi tiết, và thấy rõ
vai trò của mỗi một tác nhân trong công cuộc truyền giáo nầy một một cách đúng
mức. Cũng nhờ việc làm nầy, các tiến bộ và những bất ngờ của sinh hoạt ngữ học
và văn hóa của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam sẽ được đưa ra ánh
sáng, với tên tuổi của những vị khởi xướng đầu tiên.
Việc xuất bản và khai thác các nguồn
tài liệu nầy là một công trình còn mở ngỏ. Đối với chúng tôi, chúng tôi đã ưu
tiên thực hiện việc tra cứu mục lục các tài liệu liên quan đến nửa thế kỷ đầu
tiên, tức là nửa thế kỷ đã từng chứng kiến phần thiết yếu của công trình sáng
chế (1615 - 1664). Nhưng việc thẩm định lại giá trị toàn bộ sẽ phải là một công
trình tập thể dài hơi, đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó có việc nối kết lại những
mối liên lạc hợp tác văn hóa giữa người Bồ Đào Nha và người Việt Nam. Cần có
một thế hệ các nhà nghiên cứu người Việt trong tương lai có thể tham gia tích
cực vào công tác nầy.90 Một mặt họ sẽ không chen chân vào những cuộc tranh
cãi nội bộ giữa các người Âu châu, điều mà họ không dính dáng gì vào; mặt khác
chỉ có sự đóng góp của chính họ mới truy cứu được thấu đáo những mối liên hệ
văn hóa qua những gì đã được từng thực hiện trong cuộc gặp gỡ lịch sử vào thế
kỷ XVII.
5.
Tra cứu lại bộ hồ sơ ngữ học
Mặc dầu có việc xuất bản gần đây về
các nguồn tài liệu của Trung Hoa về ngữ học Việt Nam trong lịch sử,91 thì
cuốn từ điển và cuốn giáo lý đã xuất bản tại Roma vào năm 1651 vẫn là hai tác
phẩm nền tảng không thể thay thế để biết được thực trạng của tiếng nói nầy vào
thế kỷ XVII, và sự tiến hóa của nó. Nhưng sự kiện chúng đã được xuất bản dưới
tên tuổi duy nhất của Alexandre de Rhodes dường như không còn được đặt thành
vấn đề để truy cứu cho tận tường hồ sơ ngữ học. Đến mức độ nào ông là tác giả
thật sự của các tác phẩm nầy? Bằng cách nào ông đã mượn lại những công trình
của các vị đi trước mình, trong tư thế của một nhà sưu tập hoặc người biên tập
bản văn cuối cùng? Thật khó mà trả lời một cách thích đáng các câu hỏi nầy;
nhưng chúng phải được nêu lên, và phải được tra cứu một cách đứng đắn nhờ những
chứng cớ đã được viết ra mà ta có thể có.
Thật vậy, ý niệm về sở hữu văn
chương nơi các tu sĩ dòng Tên vào thế kỷ XVII không y như ý niệm ta có bây giờ;
chúng ta đưa ra đây hai thí dụ: Ta thấy bản tường thuật về việc tử đạo của thầy
giảng Anrê, mà bản gốc bằng tiếng Bồ Đào Nha chắc chắn do chính linh mục Rhodes
viết ra, nhưng đôi khi được lấy lại từng chữ một dưới tên các tác giả Matias da
Maia,92 Antônio Francisco Cardim93 hoặc Manuel Ferreira94. Ngược
lại, Rhodes đã xuất bản dưới tên mình một bản tường thuật liên quan đến các vị
tử đạo Nhật Bản, mà tổng thể lại lấy lại những ký sự của các tu sĩ dòng Tên.95 Như
thế, khi người ta quyết định cho xuất bản hoặc tái bản một bản văn được thuận
nhận để phổ biến, thì người được đề cử làm công việc nầy lại ghi tên mình vào
đó, và mang trách nhiệm cá nhân về công tác của mình. Trong trường hợp của linh
mục Rhodes và các vị tử đạo của Nhật Bản, có lẽ đã dựa vào danh tiếng đang lên
của con người Avignon nầy để mang cho cuốn sách được phổ biến rộng rãi hơn.
Về hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt
Nam do Bộ Truyền bá Đức tin xuất bản, hẳn không có vấn đề bán ra cho dân chúng;
mục đích duy nhất là phục vụ công cuộc truyền giáo. Do sự kiện Rhodes là người
duy nhất ở Roma biết đến ngôn ngữ ấy, thì ông cần đích thân bảo chứng các tác
phẩm liên hệ, mang lấy trách nhiệm tối hậu trước các vị bề trên của mình và
trước Tòa thánh. Sự kiện tên ông xuất hiện trên bìa sách không nhất thiết minh
chứng rằng ông là “tác giả” duy nhất của nó và ngay cả là người biên tập
chính. Chúng tôi nghĩ rằng đây là lối mang trách nhiệm mà linh mục Rhodes đã
thực hiện, chứ không phải là nêu lên tư cách tác giả văn chương theo nghĩa
chính xác như chúng ta hiểu; những vị có thể làm điều nầy y như cương vị của
ông, hoặc có thể cùng làm việc nầy với ông, thì lại ở xa mút tại một nơi khác.
Còn
cuốn giáo lý, có lẽ phải dành tư thế tác giả cho ông trong việc biên tập dứt
điểm bản văn được in ra, và chắc chắn hơn nữa là bản văn latinh, được ông minh
nhiên nói đến. Nhưng cũng chính Rhodes đã ghi rằng, trong trường hợp nầy đây là
“phương pháp mà chúng tôi đã dùng để trình bày các mầu nhiệm của chúng ta
cho người ngoại quốc”.96 Như thế rõ rệt nó được định vị trong một công
trình tập thể.
Chúng tôi giải thích từ ngữ “phương
pháp” như hàm ngụ các tài liệu được viết ra. Thật thế, một bản văn của tu sĩ
dòng Tên Metello Saccano chứng thực rằng các bản văn dạy giáo lý, ít nhất giống
như bản của Rhodes, vừa được viết bằng chữ theo vần latinh và vừa được viết
bằng chữ “nôm” đã hiện hữu rồi. Và bản văn của tu sĩ nầy được viết ra ngay
trước khi cuốn Catechismus xuất bản: ”... cuốn Giáo lý của chúng tôi
được viết ra nhằm truyền đạt cho dân chúng nơi ấy, trong đó các mầu nhiệm của
chúng ta được trình bày rõ rệt, và những mộng tưởng của các tà phái của họ bị
thực sự đánh bạt; toàn tác phẩm chia ra làm tám bài giảng cho chừng đó
ngày”.97 Nhà truyền giáo Rhodes dường như có được một bản viết bằng chữ
quốc ngữ để sử dụng cho mình, và một bản bằng chữ nôm khác mà người Việt Nam sử
dụng.
Còn đối với những gì liên quan đến
cuốn từ điển, thì cũng cần có một nhận định tương tự. Trong lời tựa nói với độc
giả, cha Rhodes nói rõ rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của một cuốn từ
điển Việt-Bồ do linh mục Gaspar do Amaral soạn. Nếu người ta không bao giờ tìm
ra được các bản văn viết tay của hai tác phẩm có trước, theo ý chúng tôi thì
chỉ vì cuốn từ điển được in ra của Rhodes đã hoàn toàn lấy lại phần cơ bản, nên
hai cuốn ấy được xem là không cần phải lưu giữ làm gì.
Hẳn nhiên những kỳ công sắp xếp của
linh mục Avignon nầy đáng được ca ngợi, ông là người duy nhất đã hoàn tất công
trình xuất bản ấy, mặc dầu phải gặp bao khó khăn mà ta có thể tưởng tượng được.
Các vị đi trước ông, chết sớm, đã không thể làm được việc ấy.
Người Việt Nam dùng kỹ thuật in theo
bản khắc trên gỗ để in chữ nôm. Sở truyền giáo dòng Tên ít nhất đã dùng kỹ
thuật in nầy ở Đàng Ngoài, trong thời kỳ tương đối họ có được tự
do.98 Nhưng kỹ thuật nầy không áp dụng cho mẫu tự latinh, và nhất là trong
một lãnh vực tế nhị như vậy sự tự do của các nhà truyền giáo rất hạn chế.
Tỉnh dòng Tên Nhật bản đã từng sử
dụng một máy in chữ rời ở Macao, rồi đem qua Nhật bản và lại đem về Macao giữa
các năm 1588 và 1620.99 Không hiểu vì lý do gì, máy in đó bị bỏ đi hay bán
cho ai đó tại Manila, nên chữ quốc ngữ lại không có dịp in tại đây, như đã từng
in chữ Nhật (vần latinh và chữ hiragana). Chỉ còn có cách là phải in chữ quốc
ngữ tại Lisbonne. Nhưng vào thời nầy, công việc đó rất tế nhị, kéo dài và tốn
kém. Một vị trong pháp đình Bồ đào nha đương thời đã viết: “(Pháp đình thời
Trung cổ) luôn cảnh giác nhằm truy lùng các tà thuyết thật rốt ráo; và việc đó
luôn xảy ra như thế tại vương quốc [Bồ đào nha], ở đấy các bản chép phải bị xem
lại luôn và phải do nhiều giám sát viên duyệt một cách gắt gao, đó là một trong
những lý do tại sao ít sách được xuất bản tại đây...”100
Linh mục Rhodes đã thêm vào một bản
dịch La ngữ cho phần Việt-Bồ, nơi cuốn từ điển cũng như trong cuốn giáo lý. Ông
đã thay thế bản từ vựng Bồ-Việt bằng một bản danh mục La-Việt ngắn, có lẽ là do
công trình riêng của ông. Ngoài ra, cuốn từ điển còn cho vào một bản mô tả ngắn
về ngữ học và văn phạm tiếng Việt: khi nghiên cứu bản văn nầy, đối chiếu với
một bản khác nhưng tương tự hiện nay, chúng tôi thấy có chứng cớ về một nguồn
gốc Bồ Đào Nha chung đi trước, nguồn tài liệu nầy cũng đã mất vì việc xuất bản
tác phẩm được in cho thấy nó không còn nữa.
Chỉ có việc xuất bản và phân tích có
phương pháp các nguồn tài liệu mới cho phép ta xác minh, hoặc phê bác giả thiết
nầy cũng như các kết luận tạm thời khác đã từng nêu lên về sự khai sinh ra chữ
quốc ngữ. Phần chúng tôi, chúng tôi đã nỗ lực chứng minh101 rằng ngữ
âm Bồ Đào Nha đã được dùng một cách ưu tiên so với các loại ngữ âm khác với một
sự thành công rõ rệt vào thế kỷ XVII để làm phương tiện phân tích cho ngữ âm
Việt Nam trong khuôn khổ sáng chế ra hệ thống mẫu tự mới. Chính các nhà văn
phạm người Bồ Đào Nha đã cống hiến phần thiết yếu về các khái niệm căn bản, và
các công trình nghiên cứu tiếng Nhật Bản của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha khác
đã đem lại phương pháp. Không biết đến các sự kiện nầy, thì dễ đi đến việc mò
mẫm vô ích. Những nghiên cứu giá trị hơn cả về lịch sử tiếng Việt và việc phiên
âm tiếng đó qua mẫu tự latinh, đặc biệt là các nghiên cứu của André - Georges
Haudricourt102, Kenneth Gregerson103 hoặc Hoàng Thị Châu104, mà chúng tôi
học hỏi được rất nhiều, đã chỉ có thể hé nhận ra một cách còn lờ mờ về vai trò
đặc biệt nầy của người Bồ Đào Nha trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ. Đối với
các nhà ngữ học, đây là một dự án còn phải tiếp tục truy cứu; theo chúng tôi
tiến trình nầy đòi hỏi một sự hợp tác đa phương, giữa những nhà chuyên môn
người Bồ Đào Nha cũng như người Việt Nam.
6.
Từ Francisco de Pina đến đệ tam thiên niên: một lối viết bằng mẫu tự latinh
dùng để làm gì?
Trái ngược với một lối suy nghĩ theo
thành kiến, phương tiện chuyển đạt dùng cho việc truyền bá Kitô giáo, được các
tu sĩ dòng Tên dưới sự bảo trợ của Bồ Đào Nha sử dụng khi tiếp cận với người
Việt Nam, không phải là chữ viết theo mẫu tự latinh. Về điểm nầy, người Âu châu
cũng bị lầm do sự xuất hiện của cuốn giáo lý và cuốn từ điển. Những nhà truyền
giáo tại chỗ đã chọn chữ nôm, nghĩa là một loại chữ Việt Nam cổ
xưa dựa theo chữ Hán.105 Chữ nôm có điểm lợi là tương đối được giới ưu tú
của xã hội Việt Nam biết đến - tức là các người có học - nhưng bất tiện là đa
số các nhà truyền giáo lại không đọc nổi. Và sự cân nhắc trong quyết định của
họ là làm sao tránh việc đẩy cộng đồng Kitô giáo vừa mới được khai sinh đi ra
khỏi gốc rễ truyền thống của Việt Nam trong bối cảnh của một nền văn hóa có nét
Trung Hoa nầy; hơn nữa nếu làm như thế, thì còn hoàn toàn đi ngược lại những
nguyên tắc và phương pháp của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha.
Văn hóa Việt Nam có hai nguồn gốc
chính liên hệ hổ tương cho nhau: một phần là các truyền thống của các sắc dân
địa phương và nền tảng của tiếng nói Việt Nam, không thuộc vào nhóm Trung hoa;
một phần khác là văn hóa Trung hoa, tồn trữ và lưu hành nơi ngôn ngữ của nó qua
chữ viết và qua nhiều hình thái vay mượn khác nhau. Chữ nôm có một vị trí đặc
biệt trong bối cảnh nầy như bản lề giữa hai cánh cửa. Những chữ viết lấy từ chữ
viết Trung hoa (hán tự) và tạo được uy thế nhờ nguồn gốc nầy; nhưng chúng lại
đọc thành tiếng Việt với một nghĩa đặc biệt của tiếng Việt ấy; nên chúng đúng
là một quốc tự, nghĩa là chữ viết quốc gia. Những chữ viết “nôm” lại có thể
trực tiếp mượn các nguồn chữ hán một cách thoải mái, nên mãi phát triển rộng và
sâu. Chữ quốc ngữ không bao giờ có được sức tác dụng có tính cách tượng trưng
đó.
Vấn đề chữ viết Việt Nam có vẻ rối
rắm vì nhiều tác giả tây phương lẫn lộn vấn đề tiếng nói và chữ viết.106 Thật
thế, các tu sĩ dòng Tên buộc phải chọn lựa giữa hai thứ tiếng nói: thay vì
Trung hoa (là tiếng chính thức, tiếng dùng giáo dục và lớp người có học), thì
họ thích tiếng Việt Nam (tiếng nói của dân chúng). Trong những hoàn cảnh hạn
chế như đã nêu, họ cũng áp dụng chữ viết truyền thống (chữ nôm) của tiếng nói
dân gian ấy; đồng thời họ sáng tác ra một vần latinh áp dụng vào tiếng nói nầy
(tức là chữ quốc ngữ) để dùng riêng trong công việc của họ. Việc sử dụng tiếng
hán nhiều hay ít trong ngôn ngữ Việt Nam không liên quan gì đến chữ viết. Nhưng
cần xác định thêm rằng đường lối sử dụng ngôn ngữ như thế là chính sách chung
của các nhà truyền giáo; không có gì cho phép ta nêu lên rằng trong lãnh vực
nầy, Alexandre de Rhodes có một lập trường độc đáo cả.
Nhưng dẫu sao, chúng tôi phải nêu
lên rằng lối phê bình của ông Lê Thành Khôi, một nhà viết sử Việt Nam, về việc
nầy là lầm lẫn, ông ấy viết: “Sáng chế (chữ quốc ngữ) trước hết phát sinh do
một mục đích truyền đạo. Thật vậy, trở ngại lớn cho việc truyền đạo Kitô phát
xuất từ khung cảnh giáo dục phổ quát của Khổng học. Để đi vào tâm thức quần
chúng, các nhà truyền giáo phải chống lại văn hóa Trung hoa và chữ viết tiêu
biểu cho nền văn hóa đó. Họ cố trao cho dân chúng phương tiện để quẳng bỏ chữ
viết đang thịnh hành, và họ đã đạt được ý định khi bày ra hệ thống chuyển âm
tiếng Việt nhờ mẫu tự latinh, kèm theo những âm tiêu để có được những dấu thăng
trầm khác nhau. Các người trở lại đạo dùng chữ viết quốc ngữ không còn đọc tiếng
hán nữa; tiếng hán nầy lại được dùng trong các văn kiện nhà nước và phần lớn
sinh hoạt văn chương. Ta thấy đó là tầm mức chính trị của sự kiện, đã làm cho
người công giáo Việt Nam trở thành một nhóm riêng trong cộng đồng quốc gia
trong một thời gian dài.”107 Một lối phê bình như thế phản ảnh một sự quên
lảng gia trọng (bên cạnh nhiều yếu tố khác nữa) về nỗ lực văn hóa rất tích cực
do chính những vị tu sĩ dòng Tên nầy của đoàn truyền giáo của Trung hoa, trong
đường hướng của Matteo Ricci (+ 1610). Lối phê bình đó không đứng vững trước
những sự kiện, đặc biệt là khối lượng sáng tác và phát hành của văn chương kytô
giáo bằng chữ nôm, khởi đầu ngay từ các thời đầu tiên của công việc truyền
giáo. Khi nhà truyền giáo Jerónimo Mayorica qua đời năm 1659, bề trên đã viết
một loại điếu văn và nhắc đến ” thư viện phong phú gồm 48 bộ sách mà ngài đã
viết hoặc dịch ra tiếng nói và ra chữ viết của xứ ấy”108 . Và mãi cho đến
ngay giữa thế kỷ 20, dưới chế độ thực dân Pháp, các nhà xuất bản công giáo Việt
Nam vẫn phổ biến cho kytô hữu nhiều sách bằng chữ nôm và chữ hán.109
Ngoài ra, trong giai đoạn đầu, rất
ít kitô hữu hiểu được lối chữ Việt theo vần latinh mà các vị thừa sai có thể
chỉ cho họ, vì chữ viết nầy hoàn toàn xa lạ. Như thế, tại sao lúc bấy giờ
Francisco de Pina và các người kế tiếp ông lại phí nhiều công sức và tài trí để
sáng tác rồi hoàn chỉnh lối viết theo mẫu tự latinh, tức là chữ quốc ngữ ấy? Sự
kiện đã xảy ra vì chữ quốc ngữ có mục đích trước hết là để dạy cho các nhà
truyền giáo và giúp họ sử dụng. Nó cống hiến cho các vị nầy một bước trung gian
rất thuận lợi để tiếp cận với lối nói của người Việt; ngoài ra, nó còn đem lại
một phương tiện trao đổi về mặt học hỏi và giao tiếp bằng chữ viết với những
người Việt lãnh đạo chính yếu của cộng đoàn, mà người ta buộc phải học lối viết
mới nầy trong mục đích hạn chế đó.110 Tình trạng phổ biến rất hạn chế của
chữ quốc ngữ như thế, sẽ biến đổi một cách chậm chạp vào giữa thế kỷ XVIII. Chỉ
đến lúc nầy, chữ viết theo mẫu tự latinh mới bắt đầu lan tràn rộng rãi hơn
trong cộng đồng người Kitô giáo; đây là vì những lý do an ninh trước một chế độ
cấm đạo111 và cũng có thể vì việc sử dụng rất tiện lợi.
Viễn tượng mới đó kéo theo hậu quả
không thể tránh khỏi đó là sự tiến hóa dần dần chữ quốc ngữ. Mục đích chính lúc
đầu đòi hỏi phải ưu tiên cho khía cạnh thuần túy ngữ âm, nghĩa là cho việc mô
tả cách phát âm, nhằm giúp cho người ngoại quốc mới bắt đầu học đọc tiếng Việt
cho thật đúng. Khi việc sử dụng lối viết nầy được phổ biến hơn nơi những người
nói tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ, thì người ta lại ưu tiên khía cạnh âm vị
học,112 thiết thực cho họ hơn.
Trong khuôn khổ của bản văn nầy,
chúng tôi xin chỉ nêu lên một thí dụ. Trong lối viết quốc ngữ, mà cuốn từ điển
của Alexandre de Rhodes cho ta thấy, các phụ âm mũi cuối mặt lưỡi- vòm trước
(consonnes nasales finales dorso-prépalatale), mặt lưỡi - vòm mềm
(dorso-vélaire) và môi-vòm mềm(labio-vélaire) được diễn tả bằng ba lối chép
thành chữ khác nhau, như sau: (chẳng hạn <lành>); (chẳng
hạn <làng>), và một dấu gọi là dấu apex, lấy từ dấu til
(tilde) chữ viết Bồ đào nha <~> , đặt ở trên đầu chữ nguyên âm
(chẳng hạn <làõ>, ngày nay viết là <lòng>). Những lối
ghi chép đánh dấu đó phản ảnh cách đọc chuẩn của vùng Hà nội, đúng như một
người Bồ đào nha cố nghe và phân tích được dựa vào hệ thống ghi chép mà người
ấy quen thuộc. Trong lối viết nơi cuốn từ điển của Pigneau de Béhaine và Taberd
(xem chú thích số 114), hai mẫu phụ âm sau cùng nêu lên trên đây lại cho chép y
như nhau là “ng”, bởi lẽ chúng không đối chọi gì nhau, sự xuất lộ của chúng lệ
thuộc vào nguyên âm đi trước. Việc phân biệt hai mẫu phụ âm nầy đối với một
người gốc Việt Nam là việc thừa. Người ta hầu như đã đơn giản hóa đến mức tối
đa khi chung lộn hai ký hiệu “nh” và “ng”: trong hệ thống tiếng Việt, không cần
đến sự phân biệt nầy nếu lưu ý đến các nguyên âm /a/ và /œ/113
Cần lưu ý rằng đây không hề có việc
sửa chữa những sai lầm có thể có về việc ghi chép, nhưng nhằm đơn giản hóa các
luật của nó.114 Nhưng thực sự thì đổi thay không nhiều lắm, nên ngày nay
chỉ cần học vài phút thì độc giả Việt Nam có thể đi vào toàn bộ các bản văn
bằng quốc ngữ viết vào thế kỷ XVII.
Vì chữ nôm và chữ hán cũng rất khó
học đối với giới cai trị của Pháp, không kém gì trường hợp của các vị truyền
giáo trước đây, nên chế độ thực dân đã tha thiết ngay với lối chữ viết theo mẫu
tự latinh nầy; sau nầy họ đã cho nó một qui chế chính thức, buộc phải sử dụng
trong tất cả các dịch vụ hành chánh.115 Và như vậy, vào đầu thế kỷ XX,
chữ viết theo mẫu tự latinh do người Bồ Đào Nha gợi ra trước đây bắt đầu lan
tràn ra ngoài cộng đồng Kitô giáo. Nho sĩ yêu nước trong xứ, rất đông, cương
quyết chống lại sự mới mẻ nầy, nại lý do bảo vệ truyền thống và bản chất Việt
Nam. Nhưng dần dần, vì nhận thấy hiệu năng thiết thực của nó, họ lại cố học chữ
viết lối mới và sử dụng.116 Sự thành công của chữ quốc ngữ không phải là
kết quả của sự áp đặt do luật lệ của bạo quyền. Ai cũng thấy kháng cự chống lại
chữ viết mới mẻ nầy chẳng lợi ích gì; tương lai xã hội lại đòi hỏi phải canh
tân cơ chế xã hội và đẩy mạnh giáo dục quần chúng. Dường như sau những thất bại
của các phong trào yêu nước vào năm 1930, những đối kháng về chữ quốc ngữ không
còn nữa; giới ưu tú lãnh đạo đã rút tỉa bài học qua các biến cố đau thương nầy.
Vậy mà chữ nôm từ lâu chỉ dành cho một thiểu số nho sĩ, giới nho quan truyền
thống. Chỉ có chữ quốc ngữ mới cống hiến được phương tiện kiến hiệu nhằm thoát
ra khỏi tình trạng nầy và cổ võ cho lý tưởng thoáng hé lộ.117
Những xác tín như thế trở thành phổ
biến khi nhìn về một Việt Nam thời hậu thực dân. Và chữ nôm bị xóa dần đi đến
độ biến mất hẳn; chữ viết của các nhà truyền giáo trước đây và của người Pháp
nay trở thành chữ viết duy nhất của tất cả người Việt Nam: “quốc ngữ”. Mọi
người dùng chữ quốc ngữ, và chữ viết đó đã chứng thực rằng nó có thể áp dụng
một cách dễ dàng và hữu hiệu để đi vào tất cả các lãnh vực của kiến
thức.118 Ngoài ra, chính chữ quốc ngữ đã cống hiến nhiều hơn cả trong
việc bảo tồn sự thống nhất ngôn ngữ, ngay cả trong cuộc chiến gay gắt giữa đôi
bên: nó đẩy lui được các khuynh hướng chủ trương phân cách, một cách hữu hiệu
hơn điều người ta có thể mong ước thực hiện hoặc nơi một lối chữ viết áp dụng
âm vị học một cách rốt ráo do một số người chủ trương.119
Làm sao quên được công trình vĩ đại
mà các vị tiên phong của công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã thực hiện? Những
điều mà các vị truyền giáo dòng Tên đến từ Bồ Đào Nha, do Bồ Đào Nha gửi đi, đã
thực hiện trong phạm vị ngữ học kỳ cùng là những công trình có tính cách quyết
định cho tương lai văn hóa Việt Nam đến độ ngày nay tương lai đó không thể quan
niệm được nếu không có chữ viết theo mẫu tự latinh. Tấm bia tưởng niệm đã được
dựng lên lại vào cuối năm 1995 ở thư viện quốc gia tại Hà Nội, và chỉ tôn vinh
một mình Alexandre de Rhodes; đó là một dấu hiệu cho thấy sự đóng góp văn hóa
đặc biệt của người Bồ Đào Nha còn bị quên lảng, ngay cả trong giới khoa học.
Nhưng người ta cũng thấy nơi tấm bia
kỷ niệm đó một dấu chỉ chờ đợi, một mấu móc đầu tiên nhằm nối lại cuộc đối
thoại văn hóa với Tây phương về quá khứ chung và về tương lai. Trong khuôn khổ
đó, nước Pháp và các nước nói tiếng Pháp chắc chắn có đóng một vai trò; nhưng
thật đáng tiếc là các nước nầy đã không hợp tác với các quốc gia tây phương
khác nữa để cùng thực hiện cuộc đối thoại nêu trên, vì kinh nghiệm về Á châu
của họ xa xưa hơn, và họ lại không có nhược điểm của một quá khứ thực dân còn
gây ấn tượng đau thương nơi ý thức quốc gia của người Việt Nam.
NGUYỄN ĐĂNG TRÚC
Quá hay !
ReplyDeleteTrước đây tôi có lần ngẫm nghĩ (và cũng ngẫm nghĩ mà thôi)- Thế nhưng từ đó, tôi nêu giả thuyết như cách của người Mỹ và tôi thấy cũng có gì đó chưa thỏa đáng. Tôi nghĩ rằng Alexdre de robe không thể vừa sáng tạo chữ vừa ra tự điển được, vì lúc đó chỉ một mình ông biết. Thế thì nó phải có trước đó, và phải thông dụng. Tôi hình một việc, vì tàu buôn phương Tây đến Trung Quốc từ đời Hán (việc này có tài liệu), vậy không lẽ 2 bên chỉ ra dấu bằng tay thôi sao? Mỗi một năm đến Trung Quốc 1 lần, mà việc giao thương luôn luôn cần sổ sách, chí ít đánh dấu chỗ mua nào tốt và rẻ (đặc điểm của con buôn), thì họ ghi tiếng Hán không thể đọc mà phải là chữ phiên âm La-tin. Việt Nam thời gian dài dùng chữ Hán, sau này con buôn gặp chuyện biến động ở Trung Quốc thì ghé lại Phố Hiến, cũng dùng chữ hán thì tại sao không lấy chữ phiên âm ấy ra mà dùng. Vì vậy, theo tôi nghĩ chữ Ngữ văn đã có từ trước Alex nhiều.
ReplyDeleteTuy vậy, Alex có một đột phá quan trọng, cũng như trước Galile1o nhiều người ngắm nghía bầu trời rồi, đến khi ông có những đột phá khẳng định trái đất hình cầu vậy. Cho nên, việc ghi nhận công trạng của Alex sandre de robe cũng thật xứng đáng, nhưng việc nghiên cứu nên tìm tòi nguồn gốc chữ quốc ngữ thiết nghĩ trước đó nhiều.
NCL