Trang

Thursday, April 19, 2012

HỒ THẾ HÀ – NHỮNG MẢNH VỠ TIỀM THỨC TRONG THƠ NGUYỄN HOA


Gần năm mươi năm dấn thân vào nghiệp bút nghiên, Nguyễn Hoa đã có một hành trình thơ không bình lặng. Thơ anh luôn đồng hành cùng những vui buồn năm tháng và thường trực một trái tim nhạy cảm thi sĩ để ngân vang những ba động cuộc đời, nhất là những năm chiến tranh ác liệt. Ở đó, mỗi dòng thơ, bài thơ của anh là chứng chỉ tinh thần không chỉ riêng anh mà còn là tiếng nói trữ tình nhập vai, nói lên những nhịp đập thổn thức của nhân dân và thời đại.

Mối quan hệ giữa thơ và đời hình như không có những gián cách tình cảm và khát vọng nhân ái; trái lại, nó luôn chan hòa và vẫy gọi cộng cảm, sẻ chia những gì đồng nghĩa với tình yêu và sự sống thật rồi sẽ lên ngôi và hiện hữu tươi nguyên giữa cuộc đời mà anh gọi là “Bắt đầu từ nỗi nhớ – Nỗi nhớ không sợ thời gian”. Thơ Nguyễn Hoa là những mảnh vỡ thời gian và nỗi nhớ buốt nhức nỗi niềm nhân thế ấy, chúng có khả năng vẫy gọi liên chủ thể tiếp nhận và đồng cảm. Nó như ước muốn của nhà thơ “Ước muốn tôi – Bài thơ không lặp lại”.
Cầm trên tay tập thơ mới nhất của Nguyễn Hoa Máy bay đang bay và những bài thơ khác, do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2011, tôi bất chợt nhận ra nỗi niềm suy tư, trăn trở trong hiện tại và hoài nhớ xa xăm của anh một cách chân thành, xao động. Phải chăng trong sự tất bật thường nhật của cõi người đã làm cho thơ anh tự tỏa phát và giàu có hơn lên trong ‎‎í nghĩa tồn sinh và bất ổn của cõi người để biết yêu và biết mơ mộng về những điều hằng cửu tốt đẹp. Vì vậy, có thể thấy cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Hoa là sự hòa quyện những suy tư lớn về nhân dân, đất nước, con người và những vi diệu đời thường của tình yêu và k‎í ức trong từng chặng hành trình sống và sáng tạo mà thơ tự nguyện lưu giữ như báu vật:
Tôi có lỗi nếu tôi không ghi lại
Gió ơi thôi thổi mà – trang giấy run run

(Lời người pháo thủ Điện Biên)
Trước hết là mẹ và đất đai. Mẹ và Đất đã lưu truyền và cho con người sự sống. Đất làm nên màu xanh và hạt lúa sẩy vàng mà nhà thơ luôn mắc nợ: “ Với đất nâu tôi có lỗi nhiều – Với cây lúa tôi có lỗi nhiều”. Hình tượng đất trong thơ Nguyễn Hoa luôn hiện lên một cách ám ảnh, day dứt: “Tôi biết mặc áo nâu từ khi biết khóc – Nước mắt ngấm vào vai áo mẹ tôi – ngấm vào đất”. Những hình ảnh: đất, đất đai, đất nâu, đất dày, đất sâu, rồi đất ơi, Đất nước… luôn xuất hiện trong thơ như  nỗi niềm buốt nhắc:
Tôi ăn hạt gạo của đất chắt chiu
Ngọt thơm có nắng mưa dài
Tôi nhìn bàn tay mẹ tôi
Có mặt trời lửa xuống đậu
Có trời sao khuya khoắt xuống đậu
Bàn tay mẹ nuôi lớn cuộc đời tôi
Trang sách dạy tôi niềm khao khát của đất
Đất không thể xác xơ
Từ triệu năm hoang sơ
Hạt lúa người gieo thành hạt gạo
Qua nghìn trận giáo gươm, dông bão
Áo mẹ bạc màu
Đất nâu sẫm lại
(Đất nâu)
Vì vậy mà trong suốt dặm dài ly cách, bao giờ anh cũng nghĩ về đất đai, nghĩ về mẹ trong ‎ân nghĩa và day dứt : “tôi cùng bè bạn ra đi – mang màu áo xanh cây lúa – màu hy vọng cuả mẹ – của đất nâu”. Đó không phải là những lời đưa đẩy mà là gan ruột chắt từ tình yêu và máu thịt chính mình. Bởi vì anh đã cùng bao đồng đội đi về phía mặt trời như truyền thuyết mẹ Âu Cơ để làm nên màu xanh sự sống:
Đất đai ơi!
Chúng tôi lưng trần mà cuốc đất
Tay không mà đánh vật
Với hoang sơ ngàn triệu năm rồi
` biết mồ hôi rỏ xuống đất đai
Như dòng sông đang chảy

(Những người đi về phía mặt trời)
Trong liên tưởng sóng đôi, đất và mẹ có sự công hưởng về triết lí sống của nhân gian. Mẹ là biểu trưng cho những gì thiêng liêng, kỳ diệu nhất nhưng cũng day dứt, muộn sầu nhất:
Mẹ ơi
Mẹ mặc áo nâu sồng thêm trẻ
Lúa đầy tay mẹ
Quyển vở mát tay con
Làng mở sang trang
Mẹ gọi
Làng ơi
Long lanh giọt nước mắt tràn
Hình ảnh“mẹ thân cò lặn lội”, “Ruộng đồng mẹ gánh trên vai – Sớm sớm ngóng sao Mai – Chiều chiều  trông sao Hôm mọc” lòng khấn thầm cho con đi đánh giặc bình yên. Trong nỗi nhớ thường trực, mẹ choán hết tâm tư và tình cảm của các con, để có một ngày chúng con lại về trong vòng tay của mẹ sau bao nhung nhớ muộn sầu.
Mẹ ơi
Con là đứa trẻ trở về
Như trưa nào tan học
Da xanh mét, sốt rừng ngã nước
Nhưng con đã đi suốt mười năm đánh giặc
Mẹ ơi!
Tóc mẹ bay trắng một khoảng trời
Khoảng trời đời con xa mẹ
Áo nâu ngày ấy
Tay mẹ gầy ống có chùng ra
Con biết bao năm qua
Mẹ gánh trên vai tất cả
Bởi mẹ là Mẹ.

(Mẹ)
Sau hình tượng đất và mẹ là hình tượng lửa. Lửa và mặt trời trong thơ Nguyễn Hoa vừa là cổ mẫu văn hóa vừa là những hình ảnh sinh động trần thế. Nó biểu hiện cho những gì đồng nghĩa với nhiệt huyết, tinh thần minh triết của sự sống, nó có khả năng soi sáng, tẩy uế và sự sinh sôi; đồng thời, lửa cũng tượng trưng cho những gì chết chóc, tàn phá và thiêu hủy; lửa của dục vọng, của sự trừng phạt hoặc lửa của chiến tranh tàn bạo. Trong thơ Nguyễn Hoa, lửa có cả hai biểu tượng nghĩa ấy. Nó vừa là lửa của sự sống vừa là lửa của chiến tranh hủy diệt ghê gớm.
Mặt trời lặn xuống đây
Thức suốt đêm trong ngọn lửa
Chúng tôi ngồi cùng đất
Xòe ngắm hai bàn tay
Chưa ai nói hết với ai
Cái phập phồng trong đêm không ngủ
Chúng tôi ngồi tâm sự với đất đai

(Những người đi về phía mặt trời)
Lửa trong thơ Nguyễn Hoa luôn ám ảnh và trở thành câu hỏi bất tận về sự hiện tồn của vũ trụ. Từ thuở hoang sơ, con người đã tìm ra lửa và giữ lửa đến bây giờ. Ngọn lửa ấy đã thành biểu tượng văn hóa mà con người không thể không biến nó thành những giá trị mới trong quan hệ kinh nghiệm sống muôn màu muôn vẻ trần gian.
người đến đây là ai?
cùng ngọn lửa đêm nay xua cái rét
người có thật là người bạn đất
hãy hát râm ran gọi sáng mặt trời

(Câu hỏi)
Gió đã cõng ngọn lửa thổi qua bạt ngàn sông núi để ngọn lửa không già cỗi trước đất trời, trước thiên nhiên xanh thẳm.
Cùng với gió thời tạo trời lập đất
Gió lật mở cho tôi xem quyển lịch con người
Có thật
Từ trang đầu tiên:
lửa – nấu nồi cơm Thạch Sanh
lửa – cho tôi và các bạn nữa
châm đỏ lên điếu thuốc cuốn bẹp đầu
lửa – nấu nồi cơm dã ngoại bên nhau
lửa – ánh sáng ngọn đèn tôi ngồi viết
trong đêm thăm thẳm sâu sự sống với muôn loài
                                 (Con Tổ quốc)
Chính từ đó lửa trở thành cổ mẫu văn hóa, “những độ lửa hoàn nguyên” từ đôi bàn tay con người đã làm nên màu sứ men lam Đông Thành lấp lánh hoa văn cuộc sống và tình yêu vĩnh cửu.
Sứ có tiếng nói của sứ – tiếng nói là hình dáng
Còn men sứ thế nào ra màu bích ngọc
Còn độ lửa thế nào ôi màu hồng ngọc
Từ đất, từ đá, từ lửa, từ bàn tay…

(Sứ Đông Thành)
Lửa soi sáng những đêm dài, xua rét buốt trong đêm; lửa còn là tội lỗi của kẻ thù; lửa soi đồn giặc cho rõ mặt những thú tính trong đêm.
Vầng lửa bay lên
Vầng lửa trong đêm
Vào cư xá chúng bay đang ở
Cho chúng bay chết trong sặc sụa
Gục đầu vào khát vọng cuồng điên
Vầng lửa bay lên
Vầng lửa trong đêm
Từ trong lòng thành phố này vút dậy
Chúng bay đến đất này
Chúng bay nhận lấy
Mỗi trái rốc-két này từ trái tim ta
Bốn mươi vạn người nhận ra
Vầng lửa trong đêm
Vầng lửa dân chài
Từ một trăm mười bảy năm ủ lại

(Thành phố đêm pháo hoa)
Tôi cũng chú ‎‎‎ý trong thơ Nguyễn Hoa hình tượng gió. Gió hồn nhiên, gió mát mỗi cuộc đời, gió dông bão, gió giao tranh giữa bạt ngàn lau trắng từ thời hồng hoang thổi mãi đến bây giờ. Có cả ngọn gió thăng trầm mang hồn sứ điệp từ thời Nguyễn Trãi – Người về từ Đông Quan thổi mãi đến thời ta, nghe âm vang trong tâm thức, nghe nhức nhối nỗi niềm minh triết, nghe uất nghẹn những thế sự thăng trầm.
Có một ngày như thế
Của thuở sáu trăm năm
Người về từ Đông Quan
Dâng cho người ở Lam Sơn
Một trái tim
Mười năm thành Đông Quan thao thức
Một trái tim
Thấm mưa rơi ải Bắc
Thấm máu rơi của người dân chim Lạc
Mỗi ban mai bị giặc hành hình
Ba ngàn ban mai thành Đông Quan mưa nắng…
Hẳn lúc ấy, người về từ Đông Quan đứng thẳng
Vai kề vai cùng người ở Lam Sơn
Uống chung chén rượu thề nâng gươm
Hẳn lúc ấy người về từ Đông Quan
Chụm đầu cùng người ở Lam Sơn
Đọc Bình Ngô Sách…
Bài thơ Người về từ Đông Quan là tiếng vọng của lịch sử, là nhắc thức thời đại hôm nay về nhân tình thế thái, về dâu bể trầm luân mà ở đó, hình tượng Tổ quốc được vẹn nguyên, trong mắt người Lam Sơn bỗng “Sáng bừng xanh – đôi mắt – một nhà thơ… Và người về từ Đông Quan – Chân giày cỏ – Mải đi – Sáu trăm năm đến bây giờ chưa nghỉ!”. Chính từ có một ngày như thế – một ngày Nguyễn Trãi “chân giày cỏ – ‎‎‎quần áo vải thô – Từ thành Đông Quan bị cầm tù – Trốn về đây tìm gặp người đi cày ở Lam Sơn dựng nghĩa” để có một minh sư cùng minh quân Lê Lợi mười năm dựng nghĩa và vang dội chiến công.
Và con đường trở lại Đông Quan
Chính con đường đi hết lòng mình sau trước…
Đã có thật từ đây
Một Đông Quan không còn bóng giặc
Một Đại Việt không còn bóng giặc
Để đêm đêm: cửa mở ngỏ – mọi nhà
Ngân nga cánh cò bay xa
Trên vai người đi cày, đi cấy
Đây là bài thơ hay và giàu hàm ngôn, triết l‎í của Nguyễn Hoa, làm hiện lên không phải chỉ chuyện một vĩ nhân mà cao hơn là những vấn đề thuộc về lịch sử, văn hóa, về những chân lí và sự lựa chọn của con người trước những ngả ba lịch sử. Nằm trong mạch cảm xúc trên, Nguyễn Hoa đã tái hiện lịch sử thời chống Mỹ thật hào hùng và xúc động qua Bài thơ cây cầu. Tác giả ước mong bằng k‎í ức của mình, bài thơ không lặp lại để “Trước trang giấy quen – Tôi biết số phận những con chữ xếp hàng – phải vượt” để viết về cây cầu huyền thoại Hàm Rồng một thời và mãi mãi. Nó như chứng nhân của thời gian và lòng quả cảm của con người để cây cầu không bị hủy diệt bởi đạn bom và mai sau cây cầu thành vĩnh viễn, thành sự sống nối liền Nam Bắc.
Vẫn sống con đường số một vào Nam
Vẫn sống con đường số một ngày đêm
Có một cây cầu in vào trí nhớ
In vào sách vở
Và cây cầu đi vào bất tử
Tác giả da diết một nỗi niềm không nguôi về cây cầu qua bao bom đạn mà vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ bao người. Và với tác giả “ Nếu có thể bây giờ bài thơ viết lạiTôi sẽ viết y nguyên lặp lại tự câu đầu”, bời vì tình yêu cây cầu “ như tia chớp bầu trời – Tôi muốn giữ tình yêu tia chớp – mới đích thực cây cầu”. Tình yêu lại hồi sinh trong vằng vặc trời sao.
Và tình yêu em anh có gì sánh kể
Có thể nào sánh kể tình yêu lứa đôi cho tất cả cây cầu

Nhưng tự lòng thành được nói lời tha thiết:
BÀI THƠ CÂY CẦU được sinh tự TÌNH YÊU
Thơ Nguyễn Hoa không mới về thể thơ và hình thức biểu đạt, nhưng lại có thế mạnh về vốn sống và sự ám ảnh lớn về nhân sinh, kiếp người do anh biết lọc từ hiện thực những sự việc và kinh nghiệm quan hệ giàu tính triết ly, chiêm nghiệm thông qua cách tổ chức tứ thơ, hình ảnh thơ và liên tưởng thơ gần gũi mà bất ngờ. Và sau tất cả những hiện thực tâm trạng và hiện thực liên tưởng ấy là khát vọng hiện sinh đầy trách nhiệm của những con người biết sống, qua sự đối chiếu với thời gian, sự sống, cái chết cũng như những thường nghiệm khác của cuộc sống để hoàn thiện nhân cách và dự cảm tương lai.
Chúng ta đang hoàn thiện
Tôi đang hoàn thiện
Bằng cách nào
Con người có hơn hai triệu năm hoàn thiện
Bao nhiêu thánh thần xuất hiện
Có cái gì giống cái đẹp vĩnh viễn
Cái đẹp chúng ta sáng tạo ra
Cái đẹp có cánh
Con người bay…
Cả chính chúng ta đã sinh ra bao ràng buộc
Trật tự những ràng buộc
Trong thế giới đổi thay                                               
Vậy là tất cả phải luôn trong sự chiêm nghiệm và dự cảm để biết những gì đã qua và những gì đang đến, những gì đang có, cần có và sẽ có để hướng những khát vọng vào đường chân trời phía trước, dù đó là việc làm thầm lặng và không ít hệ lụy: “Cứ như thế – Tôi dự cảm về tôi – Về con người – Như trái đất – Không mất”.
Dự cảm lặng lẽ
Có thể nhờ dự cảm lặng lẽ
Con người đang tìm ra cái ác
Cái ác lẩn không nhìn thấy trong nhà kính pha lê
Cái ác nằm trên cái pít và các bài toán
Và cái xấu làm trống rỗng tâm hồn
Sự ích kỷ, sự nô lệ
Trong trang sức đồ vật
Lại mong dự cảm có thật
Về tình yêu
Hoàng hôn chiều
Bàn tay trong bàn tay run rẩy
Và nụ hôn sáng lên lấp l‎áy
Có thể là mắt, có thể là sao
Ấm áp nhau
Vì nhau
Tồn tại!

(Dự cảm)
Vậy mà trong hiện tại, con người luôn hiện hữu giữa không gian đa chiều, thời gian đa phương hướng . Ở trục tọa độ không – thời gian đó, trên ta là bầu trời cao rộng, còn dưới ta là mặt đất cần mẫn, nhọc nhằn với bao thử thách khắc nghiệt mà con người buộc phải vượt lên chính hoàn cảnh và số phận mình “để chiến thắng sự cô đơn”. Và cũng chỉ có thơ mới giúp Nguyễn Hoa tự vấn, tự thú:
Năm các bạn đón bình minh thế kỷ
các bạn có thể đọc thơ tôi như người đồng chí
mong không chiếu cố cho mình điều gì quen
đã chín giờ ba mươi phút dêm
ngọn đèn điện mới sáng đủ rõ ràng chữ viết
đĩa rau muỗng chưa đầy
trong mâm cơm tập thể…
Tôi đã viết bài thơ của những ngày này như thế
về đồng đội hy sinh
năm dân tộc không làm người nô lệ
năm đất nước chuyển mình

(Gửi năm tôi 53 tuổi)
Nguyễn Hoa luôn đứng ở hiện tại, đối chiếu với quá khứ và mơ ước tương lai trong cảm giác mắc nợ và có lỗi nếu không viết về những gì làm mình khổ đau, tự hào và nếm trải : “Tôi có lỗi nếu tôi không ghi lại – gió ơi thôi thổi mà – trang giấy run run”. Cứ thế, anh tạ ơn cõi người, đất đai và những gì đã cho anh biết buồn vui, ân hận. Nhưng rồi, con người phải hóa giải cô đơn để sống có ích :  “Nếu chết là điều đáng sợ – Thì cô đơn còn đáng sợ hơn”. Vì vậy mà mỗi chủ thể luôn soi mình vào cảnh vật thiên nhiên để biết mình không cô lẻ và bất lực trong hiện tại.
Nhìn những cánh chim ngang trời
Mỗi người phải biết tự mình bay lên bằng đôi cánh

(Dưới mặt trời
Vậy là một khát vọng hòa hợp, sum vầy và sinh sôi lại hiện ra trong mỗi hồng cầu đỏ thắm. Sự tái sinh nào cũng từ đất mọc lên.
Tôi là cánh rừng hoang mọc cây cỏ dại
Bạn bè của chim và của mặt trời
Lời là gió chưa biết mình có tuổi
Hát không ngừng để tìm bạn của tôi

Người yên nghỉ nở thành hoa của đất
Thành mặt trời rực rỡ mỗi sớm mai

(Bạn của đất đai)
Nguyễn Hoa suốt đời gắn bó với thơ, coi thơ là lẽ sống và tình yêu. Từ năm 1988 tập thơ đầu tiên Dưới mặt trời được xuất bản đến tập thơ mới nhất lần này (2011) Máy bay đang bay và những bài thơ khác, Nguyễn Hoa đã có 15 tập thơ lần lượt ra mắt cùng bạn đọc. Quả là anh yêu thơ và sống chết với thơ như duyên nghiệp. Đó là nghiệp và duyên mà anh phải tu chữ để đạt đến bờ giác ngộ trong ngôi đình thiêng thi ca như anh tự thổ lộ : “ Mỗi người sinh ra ở trời đất đã có một số phận riêng và mỗi người từ trong sâu thẳm cõi lòng đều có những nỗi niềm riêng : khát vọng, vui buồn. Nói lên được điều ấy bằng ngôn từ chính là thơ – một thể loại linh thiêng của con người”.
Nguyễn Trọng Tạo – bạn thơ tri kỷ của Nguyễn Hoa đã nghĩ về thơ Nguyễn Hoa từ bản chất: “Tôi đọc anh mà hình dung ra cả con đường nhọc nhằn gian khó của đời lính đời thơ đời sông đời núi. Những bài thơ hổn hển trải lòng nhà thơ sau những cuộc đi dài, sau những chiêm nghiệm đời người đêm trắng, sau những gian lao được mất sống còn. Và tôi gặp một Nguyễn Hoa trăn trở nghĩ suy ghi ghi chép chép trang trải nợ người, một Nguyễn Hoa như thoát ra khỏi nỗi lo MÁY BAY ĐANG BAY ở độ cao trên bão” để nhìn về phía trước biết đường thơ còn dài”. Và để biết mỗi câu thơ của ngày hôm nay phải vượt qua dáng hình và tư duy của câu thơ ngày qua mỗi ít. Đó là khát vọng của bất cứ nhà thơ nào trong hành trình sáng tạo. Và Nguyễn Hoa là một trong các nhà thơ như thế – cần mẫn, tin yêu và đang vượt qua chính mình, dù có lúc anh cũng không ít lần thất bại.
                                                                         @
Tôi yêu qúy Nguyễn Hoa và thơ Nguyễn Hoa từ mấy mươi năm nay, và bây giờ càng yêu qúy, bởi bao giờ thơ anh và con người anh cũng luôn chân thành, nồng ấm tình yêu con người và sự sống. Chúng như những ngọn lửa trong đêm bập bùng vẫy gọi bạn bè cùng quây quần bên nhau những ngày đông giá rét. Từ những tập thơ ưu tiên cho sự dồn nén, kiệm lời, chưng cất với thể ngắn – rất ngắn như những biến thể của thơ tứ tuyệt Việt và Trung Hoa và thơ haiku Nhật Bản, lần này Nguyễn Hoa như muốn cân bằng và giãi bày những ẩn số thi ca và cuộc sống một thời đã qua và trong hiện tại với bao nỗi niềm và sự việc dồn nén nên anh ưu tiên cho sự mở rộng hình thức câu thơ và dung lượng hiện thực được đề cập. Và như một thể nghiệm đã từng bỏ quên, lần này anh đã chứng minh cho khả năng và dự cảm của thơ khi không muốn lặp lại mình ở Máy bay đang bay và những bài thơ khác. Và anh đã thành công. Dù không phải không có những biểu hiện chân thành đến quá ngưỡng, làm cho những bài thơ, câu thơ có phần dàn trải theo phương thức tự sự. Nhưng rồi bình tĩnh đọc lại cả tập thơ, ta vẫn không khó khăn gì để nhận ra hành trình thơ anh đang tiến về phía đổi mới thi ca: “Trước trang giấy quen – Tôi biết những con chữ xếp hàng phải vượt”.
Vỹ Dạ – Huế, 12 – 2011

HỒ THẾ HÀ


No comments:

Post a Comment