Raymond Firth
Lời người dịch: Biểu tượng trong văn học đã được đề cập đến khá nhiều trong các tác phẩm phê bình văn học ở Việt Nam cũng như trên thế giới dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, tính chất đa nghĩa, trừu tượng, thậm chí là mơ hồ của các biểu tượng khiến cho việc phân tích và giải mã biểu tượng trong các tác phẩm văn học không dễ dàng, đôi khi lâm vào tình trạng bế tắc, tạo nên những “cuộc tranh luận liên miên về ý nghĩa của những biểu tượng” (Raymond Firth). Để tháo gỡ những bế tắc nói trên, chỉ “một mình” phê bình văn học sẽ rất khó giải quyết được hết những“đặc tính khó lường”của biểu tượng. Vì vậy, vấn đề giải mã biểu tượng cần có một cái nhìn tổng thể bao gồm cả văn học cũng như những ngành học thuật khác có liên quan như logic học, ký hiệu học, nhân học,…
Ở đây, chúng tôi xin trích dịch một phần trong cuốn
Biểu tượng: Chung và riêng của GS. Raymond
Firth (1901-2002) về vấn đề tiếp cận biểu tượng trong văn học dưới
con mắt nhà nhân học như một
góc nhìn tham chiếu cụ thể, mà theo ông:“Tiếp cận nhân học, với việc
áp dụng một cách đầy đủ, sẽ có mục tiêu riêng của nó để đưa ra một sự mô tả
mang tính hệ thống và phân tích các hành động mang tính biểu tượng bằng phương
diện ngôn từ và phi ngôn từ của nó; để phân biệt các thành phần có ý nghĩa của
hành động nói trên từ những gì ngẫu nhiên; để đánh dấu những thói quen hoặc các
yếu tố chuẩn mực ngược lại với những gì thuộc về cá nhân và các phong cách
riêng; làm sáng tỏ từ chính người đang thực hiện hành động, những người tham
gia và những người không tham gia với những ý nghĩa mà họ đã gắn kèm với hành
động; và để đưa tất cả những cái đó vào một khung khái niệm chung, và trong một
khung cảnh cụ thể với vị thế và mối quan hệ nhóm của những người liên quan.”**
Sự quan tâm về những biểu tượng trong văn học có thể
tìm thấy từ rất lâu trong lịch sử. Trong chương 3 tôi sẽ khảo sát về một vài ví
dụ ở đầu thế kỷ XIX. Những công bố về biểu tượng luận*** trong văn học suốt cuối thế kỷ XIX, và những cuộc tranh
luận liên miên về ý nghĩa của những biểu tượng, đã không có được những xem xét
về mặt nhân
học đối với các biểu tượng. Nhưng nếu không trở nên quá phức tạp, những
vấn đề này trong văn học ít ra cũng được tập trung cao hơn về chất
lượng. Vô tình, họ đã báo hiệu trước cho ngày nay những quan tâm về mặt
nhân học đối
với mối quan hệ giữa thực tế xã hội và những mô hình đã được xây dựng để thể
hiện vấn đề đó. Diễn ra song song theo hai hướng: các nhà biểu
tượng luận phản đối sự mô tả tự nhiên như như một sự khêu gợi cho dù đó là mục
tiêu có thể đạt được; và bằng cách tìm kiếm sự diễn giải về những nguồn lực sâu
xa mà ở đó bản thân những người thực hiện đã không nhận biết được. Nhưng sự
khác biệt vẫn được thể hiện. Trong thơ ca, đặc biệt, ở những thập niên cuối thế
kỷ XIX, mục tiêu hoạt động của các nhà biểu tượng luận đã thay thế trường phái
hiện thực bằng ‘ý tưởng,’ Nhưng ‘ý tưởng’ là tính liên tưởng chứ không phải là
phép phân tích, mang tính cảm xúc hơn là trí tuệ.
Toàn bộ thơ ca đều dựa vào biểu tượng luận. Trong
truyền thống Pháp, như trường hợp, Francois Villon, với tính cách mạnh mẽ và
nhân văn nhất trong rất nhiều bản ba-lát (badlad)**** của ông, thường sử dụng một hình ảnh biểu tượng. Sự đắng cay,
ám ảnh nỗi nhọc
nhằn où sont les neige d’antant? ( Tuyết rơi năm trước giờ ở
đâu?) gợi lên không chỉ đơn thuần là những ngày đã qua trong tên bài thơ, mà
còn là, như người ta có thể nghĩ rằng, sự thuần khiết, sự bình tâm và sắc đẹp
của tất cả những gì mà người ta có thể giữ lại cho người thân yêu nhất. Nhưng
điều này khác xa so với thái độ mà các nhà biểu tượng luận đã tuyên bố[1]. Biểu tượng luận của Mallaramé và những người theo trường phái
của ông lại mang mục đích khám phá sự thuần khiết trong thi ca xuất phát từ
những gì được cho là phi logic, tính chất bất hợp lý của bản thân ngôn ngữ, cố
gắng, ví dụ, để diễn tả những ý tưởng thông qua sự kết hợp hình dạng và màu
sắc. Verlaine nói về Mallarmé rằng ông đã bị choáng ngợp bởi sức mạnh của cái
đẹp, và rằng sự trong sáng đối với ông là một nét hoa mỹ thứ hai. Bản thân
Verlaine đã viết, trong Poemes Saturniens:
Le Poète, L’Amour du Beau, voila sa foi,
L’Azur, son étendard, et L’Idéal, sa loi.*****
Ở đây Azur, trong xanh, mô tả qua thơ bằng
ngôn ngữ biểu tượng như bầu trời, vô định. Nhưng những tác động có liên quan
lại rất phức tạp. Biểu tượng luận trong thơ Pháp ở đây đối nghịch mạnh mẽ với
chủ nghĩa hình thức cổ điển của những thế hệ trước. Nó cũng đối nghịch với tâm
trạng thất vọng theo sau thất bại của quân đội Pháp trước đó hai thập niên.
Nhưng trên hết – không tách rời những gì đã được đề cập trước đó – chính là,
như Alfred Poizat đề cập, ‘sự mơ tưởng bước vào trong văn học, là sự
quay trở lại với quan điểm từ bên ngoài vào nội tâm’ (1924, 143). Hoặc như
Arnold Hauser đưa ra một tổng kết: ‘Với biểu tượng luận, toàn bộ thực tiễn kinh
nghiệm chỉ là một hình ảnh về một thế giới ý tưởng’ (1952, II, 896). Mallaramé
cũng bị cuốn hút bởi ‘những ý tưởng huyền bí’; ông và những người cùng cộng tác
lập luận rằng chỉ có những thực tế hiển nhiên là những ý tưởng của chúng ta và
theo sau là những giấc mơ, những sự tưởng tượng của chúng ta. Chúng ta chỉ có
thể biết về thế giới bên ngoài thông qua những hình ảnh sống trong ta và bằng
những phản ứng thông qua các giác quan của chúng ta. Mối quan hệ giữa cụ thể
với khái quát, những cái được cảm nhận với người cảm nhận, có thể được tạo ra,
nó được cho là, không cần cố gắng công khai khái niệm. Những sự trình bày trực
tiếp rõ ràng về những chuẩn mực có ý thức càng ít bộc lộ chất thơ hơn là những
sự bày tỏ gián tiếp bóng gió mơ hồ dường như càng thúc đẩy sự vô thức. Chưa kể
tới chủ nghĩa lãng mạn trong nửa đầu thế kỷ, với ý thức vun đắp cảm xúc có chủ
ý, đã bị loại bỏ, đặc biệt khi nó đã sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ theo quy ước truyền
thống. Đóng góp thông qua những đòi hỏi về khiếu thẩm mỹ thuần khiết hơn, mà ở
đó các biểu tượng sẽ diễn tả bản chất thực của những mối quan hệ thỏa đáng hơn
một tập hợp cách thức mô tả, là một nền tảng tinh thần, ý tưởng về một sự bất
đồng nội tâm, tính chất bất tương xứng với những gì biểu tượng đại diện cho
biểu hiện ngoại vi. Hence Bowra (1943, 2-12) đã nhìn lại hoạt động của các nhà biểu
tượng luận thế kỷ XIX trong văn học Pháp như tính chất bí ẩn căn bản – trong
sự mãnh liệt, sự phi lý, sự coi thường của nó đối với những niềm tin khác và sự
tín nhiệm của nó vào thế giới dựa trên các giác quan. Cho nên, trong khi
Mallarmé nói về nghệ thuật với sự khách quan, bằng cách tập trung vào những
cách nhìn của cá nhân ông, các nhà biểu tượng luận đã nhấn mạnh tới hiệu quả
của đặc tính chủ quan trong nghệ thuật của ông. Michaud, bằng những cứ liệu
toàn diện, đã chỉ ra một vài luận điểm khác nhau của các nhà biểu
tượng luận. Nhưng ông đã nhìn thấy thông điệp cốt yếu của biểu tượng luận chính
là việc đưa ra một sự tổng hợp về sự diễn tả đồng thời ở những mức độ khác nhau
của thực tế, hoặc diễn tả niềm tin với những giá trị khác nhau ở cùng một thời
điểm. Vì vậy, biểu tượng chính là sự khám phá của một khía cạnh sự thật, sự
thật trong khía cạnh chủ quan của chính nó (1947, 414- 20). Và như Michaud đã
chỉ ra, bất cứ những gì được phán xét sẽ đều có hiệu lực
như những tranh cãi của các nhà biểu tượng luận, họ đáp lại tuyệt
vời bằng cách mang tới biểu tầng nhận thức quá trình biểu tượng hóa.
Quan điểm của những người theo trường phái tượng trưng cổ điển trong văn học, có
quan hệ mật thiết với hội họa, đưa ra hai loại ý kiến về những biểu tượng, mà
qua đó ảnh hưởng của chúng mang đến nhiều thách thức trong hướng tiếp cận nhân học đối với
các chủ thể. Họ đã khẳng định tính ưu việt bằng việc thừa nhận tính chất cá
nhân của biểu tượng; và họ cho rằng sự ám chỉ hoặc bản thân thực tế, chỉ có thể
được hiểu rõ duy nhất thông qua biểu tượng. Một nhà nhân học thường
quan tâm trước hết tới tính phổ biến của việc sử dụng biểu tượng, và mục đích
của anh ta là chia tách biểu tượng từ đối tượng được đề cập để từ đó có thể mô
tả các mối quan hệ giữa chúng. Nhưng trong khi xem xét bề ngoài của thơ
ca hoặc nghệ thuật nói chung, những cái nhìn công thức đã đặt chúng vào trong
những tác nhân kích thích và sự xem xét kỹ lưỡng của nhân học.
Tác động qua trào lưu của các nhà biểu tượng luận là rộng lớn và kéo dài, và
trong những hình thức được sửa đổi, nó đã đạt tới vị thế toàn cầu. Bowra đã
nhận ra bản sao của nó ở Anh trong các trào lưu nghệ thuật của Rossetti, Pater
và Oscar Widle. Nhưng với Mallarmé ‘thần tượng vĩ đại’ của ông chính là Edgar
Allan Poe, người ông cho là đáng ‘ngưỡng mộ’ và là người đã viết nên một bài ca
bi tráng –‘Lăng mộ của Edgar ‘Poe’- Le Tombeau d’Edgar
Poe’ (Verlaine, 1884, 54,55; Bowra, 1943, 9).
Biểu tượng luận với các nhà văn Mỹ
thế kỷ XIX như Poe, Melville và Henry James đã được cân nhắc làm chủ đề để phân
tích trong phê bình văn học. Từ các giả định văn hoá khác nhau được
dựng lên trong các phân tích, sự đối chiếu giữa các nhà phê
bình và các
nhà nhân học có thể khiến chúng trở nên linh động và
nhạy cảm hơn, cũng như việc trang bị thêm các quan điểm mới cho nhân học biểu
tượng. Tôi chỉ đưa ra đây một vài gợi ý đơn thuần theo hướng tiếp cận nhân học.
Tác giả của một trong những công trình quan trọng nhất vể lĩnh vực này là
Charles Feidelson (1953), đã tranh luận rằng ở đó có một ‘hình mẫu gia đình’
(family pattern) trong văn học Mỹ được bắt đầu bởi Hawthorne, Emerson và
Poe và kết thúc bởi Melville và Whitman; rằng mô hình này là một dạng biểu
tượng luận; và rằng khái niệm biểu tượng luận không chỉ là chìa khóa trong bối
cảnh của họ mà còn là một sự liên kết giữa giai đoạn đó với giai đoạn hiện nay
(Feidelson, 1953, 3,5). Được xếp vào nhóm lãng mạn – những người theo thuyết
tiên nghiệm (transcendentalists) – được xem như những học trò nhỏ
của các bậc thầy châu Âu trong lĩnh vực này; trong vai trò là những nhà biểu
tượng luận, mặc dù bản thân họ không hề nhận ra danh hiệu này,
họ có thể được tín nhiệm bởi tính độc lập trong văn học, hướng
tới ‘một trào lưu ngụy biện (sophisticated) có ảnh hưởng nhất trong lịch sử văn học.’ Với
sự thích nghi phổ biến trong sự phân loại này, một nhà nhân học không
quan tâm – mặc dù anh ta có thể chú ý tới sự chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Nhưng
nó rất có ý nghĩa khi được đặt trong bối cảnh của văn học, được
tín nhiệm với biểu tượng luận trong những hoạt động của anh ta giúp một nhà văn có
được dấu ấn riêng biệt. Một vài nghiên cứu trong lĩnh vực này đã có các công
trình phân tích ít nhiều tạo dấu ấn với nghiên cứu nhân học; một số
công trình khác xem xét một cách không trực tiếp liên quan đến nhân học. Nhưng
trong cả hai loại này đều được sử dụng những phương pháp phân tích văn học ưa
thích – trong việc nhận dạng và mô tả về các biểu tượng của chúng.
Biểu tượng luận trong Moby Dick của Melville là một chủ đề nghiên cứu
trong nửa thế kỷ.[2] Nhưng Feideson đã tìm ra biểu tượng luận ngầm ẩn trong tác
phẩm Typee của Melville, một cuốn sách mô tả sâu, nó đã được sử dụng
một cách trơn tru cho chuyến đi khám phá về dân tộc học ở đảo
Marquesas, nơi Melville đã ở đó một tháng vào năm 1842. Với Feiderson cuốn sách
chủ yếu như một cuốn nhật ký hành trình; bối cảnh của nó là trên mặt
đất; và ‘ngôn ngữ thường không chào đón cách giải thích mang tính biểu
tượng.’ Chưa kể đến những thứ tầm phào trong trải nghiệm của của Melville dường
như ‘do dự bên rìa sự mở rộng tính biểu tượng’ thể hiện trong những tác phẩm
sau này của ông. Sự phát triển của ý tưởng này là một niềm hứng thú từ khía
cạnh nhân học.
Typee, mở ra ‘thuật bản đồ cơ bản’ của Melville về ranh giới của trái
đất và biển cả, nhấn mạnh hình dạng tròn của đảo được bao quanh bởi đại dương.
Mà theo Feideson, hình bóng của nó là hình mẫu thế giới của Melville, trong
quan điểm của phê bình văn học, tạo sự chú ý giống như khái niệm vũ trụ
hình cầu của Emerson. Ngày nay nó làm phát sinh vấn đề thẩm quyền – về mối quan
hệ giữa biểu tượng hóa và kinh nghiệm thực tế – thích hợp cho tất cả các nhà nhân học quan
tâm đến biểu tượng luận mà không phải chỉ quan tâm đến các hòn đảo ở Thái Bình
Dương. Vì vậy Typee của Melvill không chỉ là một trong những nguồn tư
liệu bán dân tộc chí (semi-ethnography) cho sự hiểu biết của chúng ta
về những điều kiện tiếp xúc văn hóa sơ khai ở Polynesia, mà còn gợi lại những
trải nghiệm về cuộc sống đơn giản ở môi trường đảo Thái Bình Dương. Bản thân
tôi cũng tán thành với những nhận xét của ông. Là một người đã từng sống một
thời gian dài trên hòn đảo xa xôi biệt lập như Polynesia và hàng ngày phải đối
mặt với nước ba bề bốn bên mênh mang đến tận chân trời, tôi cũng đã rất ấn
tượng bởi ‘vòng tròn’ vũ trụ ở đảo của tôi. Không mang những suy nghĩ của
Melville, tôi đã viết về hòn đảo này: ‘trong một lối nghĩ giản lược trừu tượng
người ta có thể nghĩ về Tikopia giống như một vòng tròn bằng đất được bao quanh
bởi sự buồn tẻ của đại dương, và ngay trong bờ đất là một vòng những ngôi nhà…’
(1936, 79; 1969, 65). Nhưng trong cách nhìn tương tự với khái niệm của
Melville, được diễn tả bởi Feideson, hai quan điểm đã được đưa ra. Quan điểm
thứ nhất là sự nhận diện hình mẫu trừu tượng trong lĩnh vực đo vẽ địa hình
không nhất thiết là phải giống với nhận diện một biểu tượng, trừ phi phạm vi
của biểu tượng được thực hiện trong ý nghĩa rất rộng về mọi đại diện của lĩnh
vực này. (Một họa sĩ trừu tượng có thể từ chối thẳng thừng rằng những hình mẫu
anh ta đã tạo ra có mọi đặc tính biểu tượng). Một hòn đảo nhỏ trong một đại
dương bao la thì bản thân nó không phải là một hình ảnh biểu tượng,
mặc dù nó có thể dễ dàng dẫn Melville tới những công thức của những biểu tượng
đã lập. Quan điểm thứ hai cho rằng trong khi Feiderson kết nối Melvill với
Emerson trong sự phát triển thuộc tính biểu tượng, chủ yếu bằng tính chất tương
phản trong những hình ảnh biểu tượng của họ, ông dường như mê muội giữa những
mẫu hình học (geometric
patterns) trong thế giới tương ứng của họ: một hình mẫu tròn của hòn đảo và đại
dương bao quanh chỉ có vẻ bề ngoài hơi giống hình cầu trong công thức kinh
nghiệm được mô tả của Emerson. Như tôi nhìn thấy, ví dụ về biểu tượng luận
‘tiềm ẩn’ (latent) đối với Melville có thể sử dụng như một loại biển báo cho các nhà nhân học quan
tâm tới việc nhận diện tính biểu tượng, hình dạng nguyên bản trong việc thể
hiện vũ trụ luận tự nhiên và xã hội. Nhưng những lời bình luận của Feideson về
biểu tượng luận trong văn học nói chung đã bao hàm nhiều phát biểu có
giá trị khi cho rằng trọng tâm của biểu tượng luận không nằm ở những cảm xúc
riêng tư, mà ở phương tiện công khai của ngôn ngữ (Feideson, 1953, 51). Nói
cách khác, giao tiếp là một thử nghiệm về sự tồn tại của một biểu tượng.
Với Henry James tầm quan trọng của biểu tượng luận trong văn học đối với
các nhà nhân học có thể
còn sâu sắc hơn nhiều. Trong tác phẩm The Turn of the Screw, chúng tôi
đã đưa ra nhiều nguyên liệu thô (raw material) cho loạt câu hỏi ấn tượng về bản
chất của các cấu trúc tinh thần, những ý tưởng về việc kiểm soát nhân cách bởi
một người khác, những hình thức biểu tượng hoá nguồn lực tinh thần, mối
quan hệ của tính vô tội với kiến thức về cái xấu xa. Tất cả những vấn đề này
xuất hiện trong các hình dạng khác nhau như các vấn đề trong nghiên cứu nhân học về ma
thuật và những vấn đề có liên quan. Nhưng những gì Edmund Wilson đã gọi là sự
mơ hồ của James có thể đề ra một vấn đề hấp dẫn về mối quan hệ giữa quá trình ý
thức và vô thức trong sự hình thành biểu tượng. Edmun Wilson được Feiderson
thừa nhận là người đưa ra những bình luận tạo dấu ấn đầu tiên về sự tương đồng
giữa các nhà văn
Mỹ thế kỷ XIX với các nhà nghệ thuật theo trường phái biểu tượng để
tạo ra những tác phẩm văn học hiện đại. Hơn một thế hệ trước, Wilson đã
trải qua bao đau đớn để làm sáng tỏ những biểu tượng như ông đã cảm nhận được
nó khi Henry James bày tỏ ‘sự ức chế kinh niên’ của ông – một vài mức độ của sự
bất lực trong sinh hoạt tình dục. Một sự diễn tả mang tính biểu tượng, theo Wilson,
về sự trong trắng trinh nguyên của những cô gái mới lớn đã bị xâm phạm hoặc huỷ
hoại. Trong một ví dụ tiêu biểu, Wilson nhận ra ‘một trong những biểu tượng kỳ
lạ nhất’ với hoàn cảnh của Jame chính là hình người mẫu bằng sáp trong cửa sổ ở
cửa hàng của một người thợ làm đầu ở Paris, một trong những câu chuyện về một
người đàn ông đang yêu; rút cục anh ta đã mua hình người mẫu và đưa cô ấy về nhà sống
cùng. Ý nghĩa lớn lao trong trong sự phân tích diễn giải này chính là lời phát
biểu cho rằng hình người mẫu đã bị cắt ngang phần eo lưng (cut off at
the waist)[3]. Sự quan tâm của các nhà nhân học tới ví dụ này chủ yếu là ở phương pháp
luận. Rằng một hình mẫu điêu khắc có thể thay thế cho một con người và rằng sự
bất lực trong tình dục (chỉ là ‘một nửa người’) có thể được đại diện bởi một
hình dạng thiếu cơ quan sinh dục và chân, không phải là những ý tưởng tiểu
thuyết đặc thù. Mà ở đó cũng không thích hợp với nhân học trong
việc truy nguyên những ý tưởng này với sự tưởng tượng kỳ quặc của Henry James.
Nhưng trong xu thế thịnh hành của những quan tâm về mặt nhân học đối với
biểu tượng luận, các phương pháp phê bình văn học trong việc nhận diện các biểu tượng lại
được ưa thích. Rõ ràng ông đang sử dụng rất nhiều tranh luận ad hominem (cho
con người, mang tính định kiến trong tiếng Latin – ND). Khái niệm hoặc sự
mô tả bán thân – đầu, ngực và thân trên – giống như là những mô tả về một con
người hiển nhiên không phải dấu hiệu bất lực tình dục trong bản thân người
nghệ sỹ – nếu không thì toàn bộ số đông các nhà điêu khắc, những người vẽ tranh chân dung
và những nhà nhiếp
ảnh trong xã hội sẽ đều bị ám chỉ, thậm chí những người mua hình người mẫu về
để sử dụng cũng bị coi là ‘giống như vậy.’ Đặc trưng biểu tượng của tranh chân
dung đã rất nổi tiếng. Nhưng trong câu chuyện của James hình người mẫu không
phải là một chân dung; người đàn ông đã phải lòng với hình người mẫu; không
phải với một người đang sống; và anh ta đã thể hiện sức mạnh vượt qua nó bằng
cách mua nó và sống chung với nó. Trong câu chuyện hình người mẫu là một biểu
tượng riêng cho nhân vật chính. Những gì nhà phê bình đã hoàn thành là tạo ra sự chuyển
tải và giải thích nó như một biểu tượng riêng cho chính tác giả. Với các nhà nhân học, điều
này đã làm nảy sinh vấn đề tạo những bước chuyển, về tiêu chuẩn mà qua đó một
sản phẩm đặc biệt trong một tác phẩm của một tác giả lại được nhặt ra như một
định hướng biểu tượng nhân cách của chính tác giả, và những người khác bị bỏ
lại sau như những sáng tạo của tính tưởng tượng giản đơn không ngụ ý về nhân
cách tác giả của họ.
Vấn đề này chính là: Làm thế nào để người ta có thể nhận diện một đối tượng
hoặc một hành động mang tính biểu tượng, không chỉ với sự diễn giải mà còn với
chính tác giả của nó, khi anh ta không đưa ra manh mối rõ ràng? Đó là một vấn
đề cần được các nhà nhân học quan tâm hơn so với những gì nó đã được
thực hiện trước đây. Trong một bài luận nhạy cảm khác của Wilson, tôi không tìm
thấy hướng dẫn về vấn đề phương pháp luận, mặc dù nó ngụ ý rằng việc nhận diện
những biểu tượng riêng về một người của công chúng có thể là một mối quan tâm
chung. Nhưng với một ý nghĩ nảy sinh bởi sự tương phản – nhà nhân học sẽ phải
đối mặt với vấn đề nhận diện các biểu tượng cá nhân có thể tìm sự bào chữa về
thẩm quyền của anh ta bởi những gì anh ta quan sát sẽ là hệ quả. Hành vi đối
với hình người mẫu của người thợ làm tóc dừng ở phần cuối trong câu chuyện của
James – ‘những gì đến sau đó’ chẳng hơn một trò đoán mò. Nhưng nếu một con
người, theo quan sát của nhà nhân học, mang hình nộm một người phụ nữ bằng gỗ về nhà, toàn
bộ chuỗi hành động của người đàn ông và người nhà sẽ là manh mối tìm kiếm, và phản hồi lại
bằng những sự công nhận hoặc mâu thuẫn với suy luận ban đầu của nhà nhân học về
những gì có liên quan đến biểu tượng luận. Mặc dù các nhà nhân học chịu
nhiều sự thúc ép hơn phê bình văn học trong những thẩm quyền mang tính biểu
tượng, nhưng có nhiều cơ hội hơn trong việc kiểm chứng chúng sau này.
Người ta thường chỉ ra rằng các nhà biểu tượng luận trong văn học không
thống nhất được dưới bất kỳ quan điểm đơn lẻ nào, nhưng được xếp vào những ý
tưởng công bố trong giai đoạn thoái trào xuyên suốt từ nhạy cảm mãnh liệt của
chủ thuyết Nietzsche cho tới thuyết huyền bí và huyền thoại Cơ-đốc. Và trong
những nghiên cứu hiện đại ở Pháp về lĩnh vực này, đặc biệt, hết sức tỉ mỉ và
tinh tế – xa hơn rất nhiều so với những gì tôi có thể trình bày ở đây. Nhưng
những khám phá về biểu tượng luận với văn học trong nhiều mối quan tâm trí tuệ nói chung
đã làm nảy sinh một vài loại vấn đề đáng quan tâm đối với các nhà nhân học: Những
hiện tượng nào sẽ được coi là có tính biểu tượng và những tiêu chuẩn nào sẽ
được sử dụng để nhận diện chúng? Việc khám phá có thể đi bao xa trong việc nhận
diện về những biểu tượng bị che dấu hoặc tiềm ẩn mà bề ngoài không được nhận
thấy bởi tác giả của chúng? Đâu là mối quan hệ giữa biểu tượng chung và các
biểu tượng riêng của các nhà thơ hoặc nhà văn? Và liệu ở đó có tồn tại sự đối nghịch
không thể hòa giải giữa khía cạnh thẩm mỹ, thuộc về những khía cạnh vể trực
giác của sự nhận dạng biểu tượng và một sự lĩnh hội mang tính trí tuệ về hình
thức và chức năng biểu tượng?
Đinh
Hồng Hải dịch
* Bài này trích trong cuốn: Biểu tượng: Chung và riêng
(Symbols: Public and Private) của GS. Raymond Firth, do nhà xuất
bản Đại học Cornell
ấn hành năm 1973. Đinh Hồng Hải dịch, với sự cộng tác của Chu Tú Lệ.
** Raymond Firth, Sđd, tr. 27.
*** Thuật ngữ symbolism được chuyển ngữ sang tiếng Việt là chủ
nghĩa biểu tượng hoặc biểu tượng luận. Ở đây, chúng tôi sử dụng biểu
tượng luận để thống nhất với các bản dịch trong cuốn sách của Raymond
Firth đã đăng tải – ND.
**** Một thể thơ giàu giai điệu, thường được viết cho nhạc – ND.
[1] Xin tham khảo Guy Michaud (1947, 637) – ở mọi thời đại, biểu
tượng luận luôn có trong nghệ thuật và văn học (du Symbolisme); nhưng biểu tượng
luận (le symbolisme) thực sự đã nhìn thấy ánh sáng ở Pháp vào nửa cuối
thế kỷ XIX. Tham khảo Etiemble, người đánh giá Catulles Mendes với ý kiến
rằng biểu tượng cũng lâu đời như thế giới của chúng ta; đề cập đến rất nhiều ý
nghĩa của biểu tượng và sự biến đổi to lớn trong định nghĩa về biểu tượng luận;
và đưa ra một bài phê bình chặt chẽ về những quan điểm về Rimbaud như một người
theo trường phái biểu tượng (1961, 67,68, 89-90).
***** Tạm dịch: Với nhà thơ, niềm tin của họ chính là tình yêu vào
cái đẹp/ Với bầu trời, uy lực của nó chính là sự khoáng đạt và lý
tưởng.(theo Linh Giang)
[2] Nó đã được Victor Turner sử dụng trong những so sánh về nhân học, 1962
[3] Edmund Wilson, Sự mơ hồ của Henry James (The
Ambiguity of Henry James, 1962, 147, 149n; bài luận được xuất bản đầu tiên vào
năm 1938). Nó cũng có sự trừng khớp khi cho rằng giữa ‘những biểu tượng về hình
ảnh người phụ nữ’ được đưa ra bởi Cuộc đình công giành quyền tự do cho những
người phụ nữ ở London vào tháng 3/1971 chính là một hình nộm của người thợ may,
bị cắt ở phần eo lưng (Observer, 7/3/1971)
Nguồn: Phebinhvanhoc.com.vn
No comments:
Post a Comment