Trang

Monday, April 2, 2012

NHÀ THƠ LÊ ĐẠI THANH – BÍ ẨN MỘT ĐỜI THƠ


Có rất nhiều gia đình nhiều đời làm nghệ thuật ở Việt Nam theo kiểu cha truyền con nối, và gia đình nhà thơ Lê Đại Thanh là một điểm sáng của nền nghệ thuật nước nhà. Sau này các con của ông như một lẽ tự nhiên trở thành những nghệ sĩ thực thụ. Trong số đó, có một người con gái đã sinh trong dòng họ này ba ái nữ xinh đẹp, nổi tiếng, tài năng: Lê Vân, Lê Khanh, Lê Vy…

Nhâ thơ Lê Đại Thanh
Tài năng hay định mệnh? Dòng máu nóng dữ dội, cuồng nhiệt, đam mê, đầy năng lượng của người ông, nhà thơ Lê Đại Thanh đã truyền sang các con, các cháu tố chất nghệ thuật tài hoa và bản lĩnh của mình. Có hàng trăm bài báo viết về ông, coi ông là cuốn từ điển sống của Hải Phòng, nhưng như càng khám phá về ông thì càng thôi thúc, dẫn dụ bởi sự ma mị, bí ẩn đầy lôi cuốn.
Bố tôi là học sinh của Trường Bưởi  khóa 1927-1932, khóa đó tốt nghiệp ra trường những trí thức lớn của Việt Nam đầu tiên như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng bí thư Trường Chinh, danh họa Nguyễn Gia Trí… và trong số đó có bố tôi - nhà thơ Lê Đại Thanh. Bố tôi tuổi Đinh Mùi sinh năm 1907, bằng tuổi nhà thơ, kịch sĩ Thế Lữ. 
Tuổi Đinh Mùi đã được xác lập trong tử vi chỉ có hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, nên sau khi ra trường nhiều người theo con đường chính trị, nhưng như định mệnh, bố lại theo con đường nghệ thuật, mặc dù năm 1946 ông đã là thành viên của Ủy Ban kháng chiến lâm thời Hải Phòng. Có một bức ảnh vẫn được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng, bố tôi đại diện cho giới trí thức ở Hải Phòng, ông cao 1m80 mặc bộ đồ trắng đứng cạnh Trung tướng Nguyễn Bình.
Bố tôi lấy mẹ tôi khi bà mới có 16 tuổi. Mẹ tôi trong vòng 15 năm sinh 10 người con. Ngày xưa ấy chỉ cần một cú sốt dịch, một lần thương hàn là đã mất đi một con người. Tôi mất đi hai người chị, hai người anh. Cho đến lúc tôi biết tất cả mọi sự thì tôi có tất cả 6 anh em, bây giờ chúng tôi chỉ còn lại có 4 người.
Ở Hải Phòng, bố tôi thành lập đoàn kịch và tập ngay trong gia đình tôi, vì nhà tôi có diện tích rộng, bố tôi vừa là tác giả lại kiêm luôn công việc đạo diễn. Mẹ tôi là diễn viên. Chị Lê Mai tôi cũng đóng trong đoàn kịch đó. Vì thế ban ngày mọi người tập ngay tại căn phòng khá rộng của nhà tôi, đến tối lại sang diễn ở Nhà hát lớn Hải Phòng.
Trước năm 1960, không khí về văn hóa  nghệ thuật thật tuyệt diệu. Anh lớn tôi Lê Đại Châu tham gia vào viết kịch, anh Lê Đại Chương đi vào đoàn kịch Cổ Phong. Chị Lê Mai lúc đấy chưa lên Hà Nội, ở nhà diễn cùng với mẹ tôi. Kinh tế gia đình tôi lúc ấy cũng khấm khá, mẹ tôi lại là người hiếu khách, rồi do bố tôi quảng giao quá rộng, nhà tôi trở thành cái chiếu nghỉ, nơi giăng dít của những nghệ sĩ lớn của Hà Nội trên đường xuống Hải Phòng đi Đồ Sơn hay đi Cát Bà, Cát Hải.
Tôi nhớ những ngày họa sĩ Dương Bích Liên xuống và ở tại nhà tôi. Cứ buổi sáng anh Liên dậy tắm, nhà chúng tôi không có máy nước nên tôi phải đi gánh nước về cho anh tắm. Anh chải tóc bằng dầu bóng, sau đó anh cầm cái cặp vẽ của anh đi. Buổi tối, anh về và nói với mấy thằng em bé xíu: "Này, hôm nay mình vẽ các em xem đi...". Nền nhà của chúng tôi được trải rô ti trắng, anh Liên đặt những bức tranh trên cái nền rô ti trắng đó. Chúng tôi xem tranh bằng đèn dầu thắp trên những cái đèn chai mà chúng tôi tự chế tác, đốt bằng dầu mazuts. Thế rồi cũng có lúc nhà văn Nguyễn Tuân, nhà thơ Chế Lan Viên, ông Tế Hanh qua lại, họa sĩ  Bùi Xuân Phái qua lại, và cứ ăn ở nhà tôi như thế.
Nhà tôi có bàn ăn lớn bằng gỗ sồi có thể ngồi được 12 người. Tôi nhớ có những bữa ăn và chúng tôi cứ loanh quanh để được nghe họ nói rất nhiều chuyện. Nhà thơ nói về thơ, họa sĩ thì nói về hội họa. Mẹ tôi vừa yêu chồng thương con, vừa phải chiều bạn của chồng mình, và phải chịu đựng những người bạn ấy trong cá tính riêng của họ. Ví dụ như họa sĩ Hoàng Lập Ngôn, ông nói nhiều đến độ bố tôi thường ngày cũng là một người hay nói, nhưng bố tôi phải ngồi im, không xen nổi một cái cắt ngang nào, thì mẹ tôi có gọi Lê Đại Chúc với tôi ra: "Hai đứa ra đứng nhìn bố các anh im kìa".
Bố tôi là người lịch lãm và vì tính đào hoa đã làm khổ mẹ tôi trong một thời gian rất dài nhưng mẹ tôi chấp nhận. Sau khi bố tôi mất, bản thảo của ông còn lại quá nhiều. Lúc sống ông viết như một người mộng du, thậm chí chúng tôi nói rằng cho bố tôi ăn uống thật ngon, mặc thật đẹp, không cho ông viết, không cho ông nghĩ thì chắc với ông là địa ngục. Có bao nhiêu tiền là ông đi mua giấy, mua mực. Ông luôn dùng bút mực chấm, nên quần áo của bố tôi  dính nhiều mực.
Ông biết đến 7 ngoại ngữ do tự học. Có một lần, ông nói: "Bố muốn đọc Lép Tônxtôi bằng nguyên bản".  Và ông quyết định tự học tiếng Nga. Ông mua cuốn từ điển cứ hai, ba ngày ông lại xé vài trang từ điển bỏ vào cái túi của ông. Sau này ông viết tiếng Nga theo lối  sách in chứ không viết được theo chữ thường. Ông học vào tất cả những lúc nào có thể học được. Mờ sáng, người ta đã nghe thấy tiếng ông rì rầm đọc, cơ quan bên cạnh thốt lên: "Giời đất ơi! Ông cụ Lê Đại Thanh 4 giờ sáng đã đọc tiếng Nga rồi!". Nhưng họ rất tôn trọng ông. Không có một lời ta thán nào cả. Bởi vì họ biết bố tôi là ai. Người ta gọi bố tôi là cuốn từ điển sống của Hải Phòng.
Gia đình bố không được giàu như gia đình bên mẹ. Ông ngoại tôi là một người giàu có, đến mẹ tôi được gả cho bố tôi còn giữ được cái mức của gia đình khá giả. Nhưng rồi theo thời cuộc có những biến động. Năm 1957, một sự cố xảy ra và đổ ập lên đầu những người trong gia đình. Chúng tôi lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí là thiếu ăn, thiếu mặc. Từ năm 1957 cho đến 1979 là lúc tôi được đi học thì mất 22  năm. Cho dù không có điện, không có nước, cả gia đình đói và ông cũng đói, thậm chí là đói triền miên, nhưng ông không bộc lộ là ông đói và chúng tôi nhận ra được nghị lực của sự chịu đựng trong con người ông.
Sau sự cố xảy ra, chị Lê Mai phải rời Nhà hát kịch Việt Nam, anh trai tôi Lê Đại Chúc làm công nhân bốc vác ở cảng Hải Phòng 2 năm, còn tôi đi đẩy xe bò, rồi làm công nhân sửa đường hơn một năm, sau đó tôi lại thi tuyển vào Đoàn kịch Hải Phòng. Cứ thế dần dà anh em chúng tôi thoát ra khỏi tình huống không ai mong muốn đó. Nhưng khi chúng tôi nhìn vào nghị lực của bố mình thì như ông đang tiếp lửa cho mình..
 Bố tôi có một bài thơ rất nổi tiếng là bài "Di chúc". Ông mất năm 1996 nhưng bài "Di chúc" đã được ông viết năm 1965. Phải có tình huống về cuộc sống, về nghề nghiệp, về niềm tin, nên bố tôi linh cảm viết bài "Di chúc" chăng? Ông viết những câu chữ như được rút từ ruột, từ gan. Đặc biệt trong bài này ông không có một lời nào oán thán bất kỳ một đối tượng nào của thi ca cả.  Sau khi bố tôi mất có khoảng hơn 20 tờ báo in lại bài "Di chúc" của ông. 
Khi tôi học lớp cao cấp chính trị của Trường Nguyễn Ái Quốc thì bài "Di chúc" được một GS-TS - thầy Phúc - Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng đã đọc lên trong lớp. Thầy Phúc nói trong giáo án ông hướng dẫn về triết học và tư tưởng phương Đông thì ông thấy có bài thơ rất gần với tư tưởng và tinh thần của triết học phương Đông, và ông đọc cho cả lớp nghe. Ông đọc xong, tôi giơ tay xin phép thầy cho tôi được trao đổi. Tôi có hỏi ông: "Thầy có được bài thơ này trong điều kiện nào?". Ông có nói: "Bài thơ in ở trên rất nhiều báo và tôi đọc thì  thấy rất gần với chuyên luận, chuyên đề của tôi". Tôi bảo: "Đó là bài "Di chúc" của bố tôi. Và xin phép thầy cho tôi đọc lại. Sau khi tôi đọc xong thì rất nhiều người trong lớp học nói: "Chiều ngày hôm nay làm sao anh cho chúng tôi mỗi người một bản để cho chúng tôi lấy đó làm lẽ sống".
“Nếu tôi chết hỡi những người thân đừng nhỏ lệ/ Hãy ngâm với tôi một khúc ngắn thơ tôi/ Chết là trở về tinh thể sao trời trả trái đất những gì vay mượn trước/ Chào những bộ hành tuổi xanh xuôi ngược/ Tôi xuống ga đời trả lại vé quê hương/ Người làm thơ coi cái chết bình thường vì cuộc sống chỉ là một hành trình có hạn”.  Đấy là khổ đầu tiên, của bài "Di chúc".
Bài "Di chúc" có một số phận rất thú vị. Câu chuyện xảy ra cách đây 3 năm. Một bài phóng sự điều tra của Huỳnh Dũng Nhân trên Báo Lao động, viết hai ông già bị HIV giai đoạn cuối nằm cạnh nhà thờ Đức Bà ở TP HCM. Hằng ngày có những chiếc xe đi qua, thanh niên tình nguyện, xe y tế và nhưng không thấy một xe nào dừng lại. Tôi không thấy một bàn tay nào đưa ra. Cho đến một buổi sáng anh ấy thấy một trong hai người có tuổi đã nằm chết ở bên vệ đường và ai đó đã để lên tay chắp của người ra đi ấy một nải chuối, để rồi ít thời gian sau xe đến đưa xác người xấu số đi.
Anh nhà báo quyết định tiếp cận với ông già còn lại, tìm hiểu xem họ là ai. Thật bất ngờ ông già còn lại đó đọc cho nhà báo nghe bài thơ tuyệt mệnh. Ngay sau đó toàn bộ bài thơ tuyệt mệnh đó được in trên báo Lao động. Đó chính là bài thơ "Di chúc" của ông Lê Đại Thanh. Nhà báo kia ngạc nhiên: Tại làm sao một con người lao động ấy ở một nơi vạ vật mà lại có được bài thơ tuyệt mệnh hay đến như thế (?!).
Vậy là, thơ của ông đã đến được với người cùng khổ. Đó chính là mục đích trong cuộc đời ông. Bố tôi có thể chỉ giữ cho mình một bộ quần áo, còn bộ thứ hai sẵn sàng tặng người khác nếu như người đó cần. Bố tôi có thể nhịn đói và đưa cho người khác những đồng tiền cuối cùng của mình. Hôm bố tôi mất, tang lễ đang tổ chức thì có một người công nhân vạm vỡ, mặt bặm trợn đi vào tay không và nói rất cộc cằn: "Cho xin hương nào". Gia đình chúng tôi hơi sửng sốt. Anh ấy quỳ xuống vái trước quan tài của bố tôi. Xong anh ấy đi ra, tôi hỏi chuyện: "Anh là ai?". Người ấy bảo: "Tôi chả là ai cả. Nhưng với tôi có một câu chuyện với ông là thế này. Ngày hôm đó, tôi đói, vợ tôi ốm, con tôi ốm, tôi định làm liều thì có một người nói với tôi: "Từ từ, có cụ Lê Đại Thanh đang đi tới đấy. Cụ hay giúp đỡ mọi người lắm, ra nói với cụ đi". Người công nhân đó đã đi ra nói với bố tôi và anh ấy kể lại: Ông bố tôi nhìn anh, không nói gì cả, ông lấy tất cả những đồng tiền cuối cùng trong túi áo, túi quần của mình và nói: "Tất cả cái này là cho con, thôi con về mua cho vợ, cho con…".
Người công nhân đó nói với tôi nhờ có số tiền của ông bố tôi cho, nên ngày hôm đó, anh không làm liều. Nếu anh ta làm liều thì có thể rơi vào vòng lao lý. Và vì thế khi nghe tin bố tôi mất, anh ấy vẫn nghèo, không hoa, không hương, đến quỳ xuống bên quan tài nấc lên khóc kể cho tôi nghe lại câu chuyện đó. Cuộc  đời của bố tôi rất nhiều chuyện như thế.
Ông sâu sắc nhưng rất đỗi ngây thơ, ông có câu rất ngây thơ trong bài "Ngây thơ". “Ú tim tôi đi nấp em đi tìm/ Con người bên này bên kia trái đất/ Ta yêu con người ta mãi tìm nhau/Ú òa! Em đi ra tôi đi vào bóng tối/ Mười ngón tay mành mành đan vội/ Tôi biết, em mở mắt mà tôi không nói”. 70 tuổi ông  viết bài thơ này. Ông tin vào con người.
Tôi hiểu rằng bố tôi phải đau hơn vì ông là trụ cột của cả gia đình. Anh em chúng tôi có một giai đoạn khá khó khăn. Thậm chí vì sao tôi chỉ là Lê Chức thôi. Có lúc chính bố tôi nói: "Con bớt đi chữ "Đại", chữ "Đại" hơi bị nặng con ạ, vì nó có dấu nặng. Chữ "Đại" hiểu theo một nghĩa nào đó lại là chữ "To". Đã to lại còn nặng". Nhưng tôi lại hiểu ông muốn có ai đó ít biết tôi là con của ông Lê Đại Thanh. Tôi nhận ra được tình thương ấy, để bớt cho con mình một cái gì đó. Ta cứ hình dung: "Thôi, con ơi, con đừng mang họ của bố nữa, để cho con nhẹ hơn trong cuộc đời". Nếu nói thế mới thấy rằng ông đúng là một người trí thức. Và định mệnh của ông cũng thế. Đến lúc này tôi trở về chữ "Đại" như một sự biết ơn ông, vì thế  sau 10 năm ông mất tôi làm tập thơ "Lê Hoa" với tên của 3 bố con - Lê Đại Thanh, Lê Đại Chúc, Lê Đại Chức.
Trong chúng tôi có ông Lê Đại Thanh. Trong chúng tôi có bà Đinh Ngọc Anh (vợ nhà thơ Lê Đại Thanh - PV).  Trong chúng tôi có tất cả sự thành đạt và thất bại, những nỗi đau, sự thiếu thốn và  những gì đó gắng gỏi mà chịu qua thời cuộc của tất cả anh em mình.  Kể cả những điều như bố tôi nói: "Con đừng mang thêm chữ Đại nữa". Không ruột thịt, không nhận thức được, không một người bố nào nói với con mình như thế. Trong sự trưởng thành của anh em chúng tôi, lúc niềm tin của mình với cuộc sống, với nghề nghiệp bị dao động, cả một gia đình lại hiện lên. Trong con người của bố là thơ ca, là kịch, là đạo diễn và trong đó có cả nhân cách sống, cả bản lĩnh của sự chịu đựng…
* Ghi lại theo lời kể của NSƯT Lê Đại Chức, Phó chủ tịch Hội NSSK Việt Nam - người con út của nhà thơ Lê Đại Thanh.
Trần Mỹ Hiền

No comments:

Post a Comment