Trang

Sunday, April 22, 2012

ĐỖ QUYÊN – THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG THƠ CẦN GIẢI THÍCH GIÁ TRỊ (PHẦN 1)

 
“Mỗi tác giả, tác phẩm là một chữ, một câu
 trong bài-thơ-chung của nghệ thuật thi ca”
(Đ.Q)

* *

I. Tóm tắt quan niệm dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị:

Chúng tôi cho rằng, luôn chảy trong tâm trí chúng ta một dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị, như lần đầu tiên đã nêu trong bài đăng trên Tạp chí Nhà văn số 2/2009 về tác giả Tuyết Nga[i].   

Không lệ thuộc hay-dở, mới-cũ, hiện đại-truyền thống, cách tân-cổ điển… Có những tác giả của dòng thơ này không tạo động, cứ lặng lẽ trôi với chân giá trị riêng. Trên văn đàn cũng như giữa công chúng, đó không hẳn các sáng tác “có vấn đề”. Nhưng với quan niệm mỹ học và nghề nghiệp, đó là những sáng tạo gây ám ảnh âm ỉ - một trong các nhận dạng của thơ. Văn minh và văn hóa càng phức hợp, trong văn học, nhất là ở thơ, sự hiểucảm ngày càng bị vượt quá, nếu chỉ đọc bằng hai con mắt hiểucảm. Con-mắt-thứ-ba khi đọc thơ là gì? Chắc là không có lời đáp; hoặc không chỉ có một lời đáp, nếu không muốn hỏi “Liệu cái đang đọc có phải là thơ không?”

Vì sao có loại thơ cần giải thích giá trị, ngoài các phê bình, nhận định thông thường?
Thi ca cũng như con người. Có những thơ chỉ đọc một đôi lần là biết cảm nhận được hay không. Đó là loại thơ-đọc-một-lần. Ngược lại, có loại thơ-đọc-đi-đọc-lại. Ví như thơ của Nguyễn Du, Bùi Giáng, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Thanh Tâm Tuyền, Tố Hữu, Nguyên Sa, Thâm Tâm, Tế Hanh, Du Tử Lê, Nguyễn Khoa Điềm, Viên Linh, Phùng Cung, Vũ Quần Phương, Hoàng Hưng, Nhã Ca, Thi Hoàng, Ý Nhi, Chân Phương, Nguyễn Đạt, Phạm Đình Ân, Hoàng Vũ Thuật, Thường Quán, v.v… (Trong số này có nhiều tác giả rõ không phải là “tác giả khó”, thậm chí còn là “đại chúng”.)
Mai Văn Phấn cũng là một tác giả có thơ-đọc-đi-đọc-lại!

Còn kiểu phân loại nữa, quen thuộc, nhưng ít ai muốn định danh dóng diết, rằng có thứ thơ-cho-người đọc, và có thứ thơ-cho-người-viết. Về đối tượng, vô hình trung, có ba loại: Sáng tác dành cho người đọc nói chung; Sáng tác dành cho không chỉ người đọc mà cả người viết; và Sáng tác dành cho người viết nói chung, nhất là người phê bình. Thơ ở loại thứ ba nên gọi là thơ-cho-các-nhà-thơ,thơ-cho-các-nhà-phê-bình. Đó là thứ thơ mang tính sống còn của nghề nghiệp: đặc trưng thể loại, phương pháp sáng tác, hình thức ngôn ngữ và thẩm mỹ nhận thức - cả bốn tiêu chí đều ở đỉnh: hoặc là lao xuống tiêu tùng, hoặc là bay lên thăng hoa. Đặng Đình Hưng (thể loại và thẩm mỹ), Dương Tường (ngôn ngữ và hình thức), và nhiều thơ của Trần Dần (thi pháp), Lê Đạt (ngôn ngữ) ở thời kỳ sau, một số sáng tác của Nhóm Mở miệng (thẩm mỹ) và rất nhiều sản phẩm của trào lưu hậu hiện đại là thuộc loại này. Lặp lại cách nói của Margaret Atwood: Có một số tác giả thơ phải đợi tới lúc người đọc sẵn sàng với họ; và trong việc đọc có thể xảy ra may rủi.
Ở thơ loại thứ hai, để làm người đọc, có thể cảm được. Nhưng để tri nhận nó, cần mang tâm thế như kẻ sáng tạo. Trong ba loại, loại này chiếm số lượng cao nhất các bài thơ hay. Đó là thơ của tất cả, vì tất cả. Thơ Mai Văn Phấn thuộc về loại này.

II. Điểm lại một số bài phê bình, nhận định:

Trong chừng 15 bài phê bình, nhận định (không kể phỏng vấn) về thơ Mai Văn Phấn, chúng tôi muốn chia sẻ hoặc bàn lại với bài của Dương Kiều Minh, Inrasara, Đặng Thân, Nguyễn Việt Chiến, Lê Vũ, Nguyễn Hoàng Đức. (Mời xem phần Phụ lục với một số trích lược)
Hầu như chưa thấy các bài phê bình học thuật? Chính thế, khi được biết các nhà phê bình kinh viện chiếm tỷ lệ 8/17 trên tổng số tham luận viên, chúng tôi vững tin: Thơ Mai Văn Phấn đang có cơ để định giá, luận bàn một cách toàn diện, chính quy và khoa học tương xứng với ý nghĩa của mình!

III.  Những dấu ấn nghệ thuật:

III.1. Mai Văn Phấn cách tân nương theo mọi nẻo đường:

Nhìn nhanh các thời kỳ, dễ thấy tác giả đi vào đường lối cách tân rất tự nhiên và thoải mái. Từ năm 1999 (với trường ca Người cùng thời) đến 2003 (tập Vách nước), thúc bách thay đổi thi pháp truyền thống của anh đã may mắn được cộng hưởng với môi trường chính trị, văn hóa và văn học Việt Nam và quốc tế. Thế hệ Mai Văn Phấn và kế tiếp có thiên thời - địa lợi. Chỉ còn ở tài năng cá nhân mà thôi.

Những dịp vinh danh các nhà cách tân mới, âu cũng nên tái giải thích giá trị các cách tân gia tiền bối… Cách tân văn nghệ phải từ yêu cầu của cả xã hội. Cách tân thơ còn cần sự đồng hành của cải cách ngôn ngữ và được các điều kiện văn hóa chấp nhận. Văn chương là của chung thiên hạ. Không bao giờ và không ở đâu, chữ nghĩa được là ý muốn của một cộng đồng cách biệt, hay một nhóm văn sĩ riêng lẻ. Các trào lưu văn nghệ luôn thoát thai từ những biến động văn minh, văn hóa.
Thơ Việt đã có một số minh họa: Đó là sự hình thành và phát triển rực rỡ của cuộc cách mạng Thơ mới 1932-1945; Đó sự ra đời của dòng thơ tự do từ đầu thời kháng Pháp 1945 với những tên tuổi cách tân đầu tiên so với thơ tiền chiến (dù ít ỏi về số lượng và chất lượng) và sau đó đã trở thành biểu tượng - Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Nguyễn Đình Thi - rồi chuyển tiếp sang 1954 bằng Nhóm Sáng tạo với Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa qua các thành tựu ổn cố; Đó là dòng thơ Tân hình thức Việt với lý thuyết và thực hành gây tác động ít nhiều đáng kể từ ngoài nước tới trong nước ở thập niên qua… Và lịch sử sáng tạo thi ca Việt Nam từng có một trang kỳ dị với một loạt các nhà cách tân là hệ quả của một tư trào văn nghệ: đó là Trần Dần, là Lê Đạt, là Đặng Đình Hưng, là Hoàng Cầm. Dù chịu ảnh hưởng hay không, có thể nói hầu hết các tác giả thơ ở mọi phong cách cùng thời hay sau đó, cũng đã nhìn ra ý nghĩa nghệ thuật của vấn đề. Chúng tôi cho rằng cả hai nhân vật chính của cuộc hội ngộ hôm nay - Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn - cũng nằm trong số đó!
Có chữ “kỳ dị” ở trên là bởi cuộc cải cách và hiện đại hóa văn chương ở miền Bắc từ sau 1954 là không tự nhiên với biến cố Nhân văn - Giai phẩm, đúng như Đỗ Lai Thúy mới rồi nói về xuất xứ cách tân ở Lê Đạt: “…do các ông cách li với xã hội, rơi vào sự cô đơn, dồn tới một là cách mạng (trong thơ) hai là chết.” Có lẽ sinh ra trong cưỡng bức, không ít sáng tạo ngôn ngữ của Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng đã là các thí nghiệm bất tử. Và có thể mãi là các thí nghiệm văn học, ở mức văn bản, chưa thành phẩm ngay cả với phê bình học thuật. Chúng tôi cảm tưởng, chỉ Hoàng Cầm tìm được điểm dừng. Đến như Thanh Tâm Tuyền, lĩnh hội đầy đủ các điều kiện thiên thời -địa lợi - nhân tài như thế, cũng chỉ có được dòng thơ tự do “hũ nút” của mình trôi trong các năm 1956-64 và trên không quá một phong cách; ngưng viết hàng chục năm và khi viết lại đã trở về truyền thống với phong thái riêng. Cho tới nay, có thể hiểu rằng, công lao “tột đỉnh” ở các sáng tạo của Trần Dần, Đặng Đình Hưng và Dương Tường không chỉ là cách-tân-được-gì, mà còn là không-thể-cách-tân-được-gì; Tức là đã phác họa ra một số giới hạn trên trong hành trình biến đổi thi ca Việt.

Đọc Mai Văn Phấn gần 15 năm, nhưng chỉ hơn ba năm nay, chúng tôi mới tin mình đúng khi đặt thi sĩ ở ngoài danh sách các tác giả song hành giữa nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật hiện đại. Nhiều, rất nhiều nhà thơ Việt Nam đã rạng rỡ ở phong cách song hành, và chỉ ở phong cách này: Hồ Dzếnh và Đồng Đức Bốn; Hữu Thỉnh và Trần Mộng Tú; Tô Thùy Yên và Lê Đạt; Nguyễn Trọng Tạo và Phạm Phú Hải; Nguyễn Duy và Nguyễn Bình Phương; Bích Khê và Tam Lệ… Chỉ bằng tâm thức muốn xô lề phá lối, là gượng như Phạm Tiến Duật đã từng trong ít năm, là bấp bênh như Dư Thị Hoàn trong ba, bốn năm trước, là “sát thi” như Đỗ Trung Quân đang làm. Là hao phí chất lãng mạn trí thức mà hiện thực, da diết mà nhị nguyên hiếm có, như Bằng Việt gần đây. Với Việt Phương, kẻ hậu sinh cứ tiếc: sự trở về truyền thống nguyên sơ trong thực tiễn thô ráp đã không nên chuyện ở một người từng đạp tung cửa đi tìm và đã đến hiện đại. Phạm Đình Ân có nguồn thơ dân tộc sinh ra đã thành hiện tại, nên tiến thoái chầm chậm. Cũng nên khu biệt những cách nhìn khác: Truyền thống mà không hoặc ít Hiện đại, ngay với những tác giả đã kinh điển hay rất mới; ví như Đoàn Văn Cừ và Trương Nam Hương, Phạm Thiên Thư và Thanh Nam, Huy Thông và Hà Thượng Nhân… Hiện đại mà ít Truyền thống, như Nguyễn Vỹ và Như Huy, Lê Thị Thấm Vân và Nguyễn Hoàng Tranh… Thế mới biết, đến cùng, nghệ thuật là sự chao lệch giữa hai bàn cân Truyền thống - Hiện đại. Mọi khuynh hướng và thi cảm, mọi hình thức và nội dung, chỉ là những quả cân lớn bé, những xô lệch của bàn tay nhân sinh hay của mặt bàn thời thế!

Thơ Mai Văn Phấn mang tải những-thi-pháp ẩn hiện trong khi cách tân. Nghệ thuật biểu đạt không hẳn nhiều tượng trưng ít siêu thực, nhưng quyết không là hiện thực hay lãng mạn đơn tuyến. “[Tập thơ] Hôm sau là hiện thực giả định trong khi Và đột nhiên gió thổi là hiện thực tâm tưởng” (Dương Kiều Minh). Tân cổ điển? Cũng là cách gọi cho rất nhiều tác giả khác mà các khái niệm của lý thuyết thơ Việt chưa theo kịp: Phùng Khắc Bắc, Thi Hoàng, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh... Nhưng Trần Nhuận Minh và Tuyết Nga; Nguyễn Bình Phương và Lê Văn Ngăn, thì hẳn là tân cổ điển rồi. Ở Mai Văn Phấn, lượng trí huệ của thi ca, tức cái trực giác của thi sĩ, đã dấu hiện thực và lãng mạn nằm nghỉ nơi tầng dưới của ngôn ngữ. (Xem tiếp mục IV.4. Vấn đề thi pháp…)

Trừ một ít bài hơi “quậy” trong tập Hôm sau (như Bài học, Chỉ là giấc mơ, Hội chứng từ một tin đồn…), khi phá cách Mai Văn Phấn thường cố công vừa phá vừa lập, ngay tại chỗ. Và người đọc không kịp nhận ra. Ở các lần đọc sau cũng thế, nếu không đổi cách đọc. Bút thuật vừa phá vừa lập này, chúng tôi lờ mờ thấy rằng, ai biến hóa được thì sẽ thành thi hào, như Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát: thi bá; bởi nhị vị tiên sinh phá dữ dội và mê mải quá, nhiều khi để lại những hoang vu trong lòng người đọc. Hoàng Hưng thành quả, thi sĩ phá vừa phải, nhiều khi không buồn phá, cứ xây nhiều cái mới cạnh thứ cũ đang đổ nát. Nữ sĩ Dư Thị Hoàn không chịu, người toan đòi phá banh, “gót chân” mải “nện xuống dữ dằn”, mà không đưa tay xây cất khiến các vệt thơ hậu hiện đại tạo nên một công trường.

Cách mạng, cải cách, cách tân, đổi mới văn nghệ thường được xét theo cặp phạm trù nội dung và hình thức. Ở một số tác giả “khó”, nên chăng thêm cặp phạm trù láng giềng: nội tại và ngoại hình. Và sẽ có nhiều tập hợp: Như trước, trong nội dung có hình thức. Nay, trong nội tại có cả nội dung và hình thức; trong nội dung có cả nội tại và ngoại hình… Đọc Mai Văn Phấn, chúng tôi cứ như đang loay hoay với một con xúc xắc!

Trước khi tới từng mặt của thi pháp, bút pháp, thủ pháp theo các sáng tác cụ thể, mong tiếp cận đặc điểm tìm tòi ở Mai Văn Phấn, chúng ta nhìn lại một điểm son dư luận trên gương mặt văn học đang được thị sát.
Chúng tôi chưa được đọc một bài viết nào về thơ Mai Văn Phấn tỏ các phản ứng quyết liệt như đã và đang từng với đa số các tác giả mở đường khác. Đây còn là một tác giả hiếm có của văn đàn Việt hiện thời: đứng chắc trong dòng chính thống về tư cách văn nghệ sĩ, đĩnh đạc về nhân thân, mà vẫn “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc” theo các trào lưu tân thời nhất. “Từ tốn, cẩn trọng với một nền tảng xúc cảm có bề dày, bề rộng, Mai Văn Phấn vẫn giành được cảm tình của bạn đọc tại thời điểm trong chính bản thân anh đang diễn ra một ‘cuộc cách mạng’ “. [ii] (Khánh Phương)

Chúng tôi thử đưa ra một số lý do:
Một là, nhà thơ đã tạo động dưới nền móng, không khiêu khích về hình thức trên gần hết các tiêu chí dễ thấy của thơ. Ngay với một ít bài có đôi ba yếu tố dễ tạo phản cảm (như câu: “Đạo mạo chỉnh lại con c... trong túi quần nơi hội họp” – Bài học) cũng không là hồn vía của trường thơ này. Cái nền tảng đó là môi trường thơ, đời sống thơ, và đạo thơ.
Hai là, sáng tạo của Mai Văn Phấn tới gốc cả nội dung lẫn tư duy nghệ thuật, nhưng không qua các vấn nạn thời cuộc Việt Nam (như ở Nguyễn Đức Tùng và Trần Tiến Dũng), ngôn ngữ không đột biến (Nguyễn Quốc Chánh và Trần Quang Quý), ý thức không gấp gáp (Hoàng Hưng và Inrasara), không khiêu khích văn hóa truyền thống (Vi Thùy Linh và Nhóm Mở miệng), không phá tan hình thức (Dương Tường và Nguyễn Thúy Hằng), không luận lý chay (Nguyễn Hữu Hồng Minh và Như Huy)…  Các so sánh đó chỉ để thấy độ trung dung về cách thể hiện và hiệu quả thay đổi từ thơ Mai Văn Phấn.
Ba, đây là loại thơ tâm linh, dễ đọc từng câu đoạn mà khó hiểu bao quát, và chắc chắn không là loại thơ để hiểu, thậm chí cũng không để cảm. Để giác ngộ chăng? Có lẽ nhờ thế, ai không thấy hợp, khó bề phê phán.
Bốn là các đơn vị của thơ hầu như không thay đổi so với quan niệm quen thuộc: đa số câu thơ có ngữ pháp bình thường; hình ảnh gần gũi; nhịp thơ dễ, nhẹ; cấu trúc bài thơ và đoạn thơ là tuyến tính; từ vựng phổ thông, giọng điệu không gây hấn.

III.2. Thơ hậu hiện đại của Mai Văn Phấn với phương pháp phê bình:

Lối thơ cách tân của tác giả này đòi hỏi nhiều phương thức lý giải khác nhau. Với hai tập mới nhất, khó đọc nhất là Hôm sau (mang đậm sắc hậu hiện đại) và Bầu trời không mái che, nếu như được dùng phê bình giải cấu trúc (thi pháp học văn hóa)[iii] thì có lẽ sẽ hiệu quả nhất chăng? Dưới đây, chúng ta dần dần thấy hai tập thơ có nhiều điểm lọt vào tầm ngắm của phương pháp luận được xem là “trước cuối cùng” trong lý luận văn học thế giới và Việt Nam. Với hai tập này, tính nội tại của thơ không còn cố định, kết cấu nghệ thuật được buông lỏng. Tác giả luôn loay hoay vượt qua những hạn chế của văn chương truyền thống để đi tới văn hóa phổ cập khi chú ý cảm thức và tâm linh. Dù nhiều lúc cần “lách rào” để không lệ thuộc vào hệ thẩm mỹ cổ điển và vươn tới “giá trị tiêu dùng”, Mai Văn Phấn không hề thách thức văn hóa dân tộc, tập tục truyền thống, mà trái lại đã chuyển chúng sang cách đón nhận mới, nghệ thuật và bài bản.

Tiện dịp xin biện biệt một điều có thể là nhầm lẫn trong dư luận, về bản chất và mục đích sáng tạo của hai hiện tượng là Nhóm Mở miệng và Vi Thùy Linh. Ở một diễn đàn khác, chúng tôi đã có lần nói về Nhóm Mở miệng như là hiện-tượng-văn-hóa trong văn học và thực hiện bằng thơ. Nay, bổ sung: Vi Thùy Linh là hiện-tượng-văn-hóa có tính văn chương, có chất thơ ở cấp độ cao. Và, lối thơ cách tân của Mai Văn Phấn mang cốt cách văn hóa. Khi đón nhận các tác giả này, nên xem diễn ngôn văn học là các liên văn bản. Chẳng nên - mà cũng không thể - “đọc” từng bài thơ, từng câu thơ, từng ý thơ như nhiều người đã làm với Vi Thùy Linh, nhất là với Bùi Chát và Lý Đợi. Với Mai Văn Phấn ở hai tập thơ mới, và với không ít các tay bút hậu hiện đại khác, loằng ngoằng nhất là Đặng Thân, vì không là hiện-tượng-văn-hóa thì sẽ không cần cách đón nhận phi văn chương như thế. (Xem tiếp IV.4.2.)

III.3. Những cảm nhận rời:
III.3.1. Giọng thơ Mai Văn Phấn, ngay ở một số ít bài bạo nhất, cũng trung dung về thái độ mà không nhân nhượng về mỹ cảm. Hình ảnh tràn ngập vẫn không phóng dật. Gợi cái đa diện trong vũ trụ để nhắm các nét tinh vi của đời sống.
III.3.2. Với ba tác phẩm mới nhất, đây là loại thơ để đọc khi không còn việc gì hơn là đọc thơ. Không hẳn bởi “cái chia rẽ một bên tâm hồn tác giả, một bên những người đọc.” (Chế Lan Viên)
III.3.3. Trừ tập Hôm sau, thơ Mai Văn Phấn tưởng cổtân; nhưng là cái tân không tạo sang chấn. Khác hẳn nhiều nhà cách tân khác cùng thế hệ, như Nguyễn Quang Thiều ở hai điều: hình tượng thơ và văn xuôi hóa thơ. Chắc chắn có lớp độc giả không ưng, thậm chí ghét, thơ Mai Văn Phấn giai đoạn từ sau năm 2000. Hình như các độc giả đó chỉ lầu bầu thôi; chứ không “la rủa tru tréo” như với các tác giả khác. Mà muốn lầu bầu với thơ Mai Văn Phấn cũng không dễ, như đã nói. Thật tình, chúng tôi đang hồi hộp trong Hội thảo, giới hàn lâm-khoa bảng sẽ “lầu bầu” ra sao?
III.3.4. Chất chân quê trong thơ Mai Văn Phấn không qua sự kiện, tự sự thẳng thớ, tình cảm trực tiếp mà qua hình ảnh, người, vật độc lập. Thiên nhiên đồng quê cụ thể lại siêu nhiên. Cùng Phùng Cung, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều, Đồng Đức Bốn; Mai Văn Phấn là người làm thơ hiện đại hóa theo kiểu riêng vẻ chân quê trong thơ Việt Nam.
III.3.5. Trong thơ đương đại Việt có những cặp bài trùng, như Nguyên Sa và Thanh Tâm Tuyền; Mai Văn Phấn và Nguyễn Quang Thiều... với cái khác nhau trong thi pháp và thi cảm, khiến cách nói này được nghiệm đúng: Trời đã sinh ra Tuyền và còn sinh ra Sa!”; “Trời đã sinh ra Thiều và còn sinh ra Phấn!”
III.3.6. Có tác giả hợp với nhà thẩm thơ hơn cả; có tác giả hợp với nhà phê bình hơn cả; lại có loại chỉ hợp với nhà lý luận. Nguyễn Tất Nhiên, Phan Thị Thanh Nhàn là loại thứ nhất. Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo là loại thứ hai. Huy Cận, Xuân Diệu thì là cả thứ nhất lẫn thứ hai. Loại thứ ba thuộc về các tác giả có sáng tác thí nghiệm, như đã nêu. Chúng tôi vẫn chưa biết Mai Văn Phấn là loại nào?
III.3.7. Thật ra câu thơ thứ hai nên là câu kết! Nó chỉ không nên được viết ra ngay lập tức mà thôi. Bằng không, câu thứ hai (thật sự) và các câu sau đó, sẽ không ra nổi. Nhưng khác với đại đa số đồng nghiệp, Mai Văn Phấn là dạng nhà thơ không cần mẹo luật này. Anh thường ít có các câu kết đóng đinh độc giả, theo kiểu thơ Đường luật hay thơ nói chung. Trong thời kỳ truyền thống và tiền hiện đại của mình, tác giả cũng làm được một số ít bài có kết nổi trội, nhất là với loại có “cốt truyện”, hay chủ điểm cụ thể: “Ai như là Tám Bính?/ Tắm bằng nước mắt Ông” (Nguyên Hồng vào nhà thờ), “Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi/ Chim có về bới tóc tôi mà làm tổ?” (Lời người trồng hoa). Điều này, trong cách đọc thông thường, bị coi là nhược điểm. Chắc vì thế họ Mai sớm đi tìm các lối ngả khác, hợp hơn?
Tất cả, đúng ra là 26/27 bài, ở tập Hôm sau, đi theo cung cách hậu hiện đại. (Bài Giấc mơ vô tận không theo cách đó, nhưng vì “có công” mang tải câu thơ tựa sách cho tập thơ sẽ ra vào năm sau là Bầu trời không mái che nên được chiếu cố chăng?!) Vì thế kết của mỗi bài thơ theo kiểu gì cũng được. Nếu là siêu độc giả, mỗi chúng ta có bổn phận và quyền lợi làm một câu kết cho mình và độc lập với cái kết của văn bản (chứ không phải của tác giả.) Chúng tôi thấy 4 bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Bài học, Sống hồn nhiênGiả thuyết cho buổi sáng hôm sau có câu kết phải nói là bất ngờ, đáng danh làm kết. Nhưng không phải là cái bất ngờ bất khả thế của những cái kết trong thơ bình thường. Chẳng hạn, khi Mai Văn Phấn đi ngủ, hay lên hẳn Văn Miếu (Hà Nội) vài ngày tham dự Ngày thơ Việt Nam 2011, hậu hiện đại như Dư Thị Hoàn hay truyền thống như Trần Quốc Minh đều có thể thừa cơ làm một cái kết xứng danh Dư Thị Hoàn, xứng danh Trần Quốc Minh. Điều kiện hậu hiện đại đã sai khiến tác giả “chết” những khi cần “chết”, đã điều hành trò chơi văn bản bị xâm thực bởi các diễn ngôn văn hóa có thể trái ngược nhau, các hình thức văn học có thể mâu thuẫn nhau. Nếu liên văn bản (tưởng tượng) đó được thực hiện bởi các liên-tác-giả cùng hệ thống thì, trên thực tế, các nhà phê bình theo trường phái Roland Barthes sẽ dễ tháo gỡ văn bản hơn.  
Còn hai tập Và đột nhiên gió thổi Bầu trời không mái che thì không có các “bài thơ” theo nghĩa thông thường. Ngay các bài lẻ ở Và đột nhiên gió thổi cũng là các đoạn rời trong một tập hợp thơ. Bầu trời không mái che đã cho khái niệm “bài thơ” thăng thiên, nói gì đến kết với luận! (Xem tiếp mục IV.8. Nói riêng về ba tập thơ mới nhất)
III.3.8.  Đồng ý với Khánh Phương, từ khởi đầu đến năm 2000, tạm lấy mốc với tập Vách nước, Mai Văn Phấn là “nhà thơ ‘dễ đọc’, dễ gây thiện cảm”. Và đúng như Dương Kiều Minh đã khái quát: “Hình thức thể hiện trong giai đoạn này, từ nhịp điệu, kết cấu bài thơ... chưa vượt ngoài những hình thức giá trị ổn định của thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ XX.”. Nhưng cho phép chúng tôi được phản biện, không hưởng ứng với Dương Kiều Minh về nhiều trích dẫn thơ được đánh giá hơi cao trong bài. (Phụ lục – 1)

Vì sao trong thời kỳ này “những ý tưởng, hình ảnh lạ” của tác giả chỉ mới “tạo nên sự độc đáo nhất định”? Như các câu “Đem hồn ta rót cho hồng chân mây” (Rượu xuân); “Hồn mình dựa chốn mong manh/ Rồi hư danh ấy cũng thành hư không” (Kinh cầu ban mai) đều chỉ thấy chữ, thấy cảnh. Không thấy hồn người! Hay “Tán lá hiện ngôi nhà bình yên/ Phía sau nằm úp một con thuyền/ Lá rụng khi dòng xanh tưởng cạn/ Con thuyền phía ấy lật mình lên” (Chiếc lá): về ý có phát hiện, một quan hệ thiên nhiên thú vị (lá và thuyền) trong nhân sinh (nhà), nhưng diễn đạt vụng và vội (ở chữ “lật”). Câu chót suýt bị thành… vè! Gần đây Nguyễn Thế Hoàng Linh thường theo cách này trong tâm trạng hài tếu.

Đó là vì trong phép truyền thống các ý, các hình thường nếu không được tu từ đặc sắc thì phải với bút pháp lọc lựa khổ công. Như không ít người làm thơ khác, Mai Văn Phấn, trong thời kỳ đó, có một sở đoản là… ứ chịu dừng ở đỉnh. Chúng tôi tin rằng, tác giả với tài cao như thế dư biết đó là “đỉnh”, nhưng lại tưởng sau là “đỉnh” sẽ là “đỉnh” nữa. Thưa không! Thuật làm thơ phương Đông khó là ở điểm dừng, ở chỗ bỏ đi. Bùi Giáng thường làm thơ ngắn, rất nhiều câu chữ là là mặt đất, thậm chí thô lậu, bên cạnh các câu chữ thăng thiên. (Sở trường này khiến tiên sinh, trên thực tế, đã không thể làm nổi một bài thơ dài, một trường ca nào chăng?)
Ở bài Qua hoàng hôn, Mai Văn Phấn đã tạo đỉnh ngay ở câu đầu tiên“Hoàng hôn như một cửa chùa”, rồi lại “thừa thắng xông lên” câu thứ hai “Hư không trên ngón tay vừa đi qua” không được như đỉnh, lại đòi làm đỉnh. Cứ thế, cả bài thơ đi xuống trong sự loay hoay tìm từ lập ý. Tản mát, xao xác, để rồi cả bài thơ nằm dài ra ở câu chót: “Cho ta về lại luân hồi kiếp sau.” Tiếc! Nếu biết cấu tứ hơn, Qua hoàng hôn có đủ các điều kiện để là một thi phẩm đặc sắc.
Còn bài Rượu xuân, so với mặt bằng thơ, kể cả lúc này, cũng là một bài thơ khá. Nhiều điểm hiển lộ các chỗ mạnh yếu của tác giả để từ đó thành tựu trong các thời kỳ sau. Đọc đến câu “Bầu trời tựa cái chén không”, chúng tôi rùng mình. Đỉnh! Dù trước đó có hai, ba cái nhấp nhô khác (“Nỗi buồn cầm cũng nhẹ tênh/ Buông vào đáy nước rùng mình đậu tăm”). Đến đây, xin được kể một giai thoại dường như gia đình nào cũng có: Thằng con bà chị gái tôi, hồi 5 tuổi, một sáng chủ nhật, ngủ dậy tè ẩu xong bèn vươn vai trước cửa nhà sát mép Hồ Tây, rồi bỗng kêu to: “Trời như một cái vung lớn…” Nghe thấy, mẹ nó sợ quá, ngỡ con mình sắp hóa thần đồng; hớt hải ôm lấy con và vội bị miệng nó lại. Thế là thằng bé nghiễm nhiên trở thành VIP của cả nhà cả họ suốt vài  năm! Chúng tôi thường đem cái-bịt-miệng-của-người-mẹ trước một ông Trạng con tưởng tượng để rèn thơ mình, để đọc thơ người. Nhà thơ là trẻ thơ. Thi thoảng “phụt” ra dăm chữ vài ý của trời. Làm thơ may mắn là biết tự bịt mình sau mỗi ý, chữ trời cho. Thi sĩ của chúng ta, trong bài thơ đang nói, đã không may khi làm nhòa đỉnh đi bởi câu kế, “Đem hồn ta rót cho hồng chân mây”, đầy những tu từ mòn vẹt và có phần khiên cưỡng.

Thế đấy! Mai Văn Phấn không là chủ nhân của các câu thơ, đoạn thơ hút hồn theo nghĩa đơn tuyến. Các bài hay và khá của thi sĩ đều là những mạng đan xen trên một phông văn hóa ổn cố bằng loại ngôn ngữ giản dị, chiêm nghiệm. Khó mà tìm được bài nào hoàn hảo ở lộ trình đầu của người thơ này, nhưng từ các sự chưa hoàn hảo đã ló rạng tiềm năng cho một cách viết khác. Hoàn toàn khác!

IV. Các vấn đề riêng trong thơ Mai Văn Phấn:

IV.1. Những bài thơ tiêu biểu:

Nếu buộc phải coi đơn vị là “bài thơ” theo cấu trúc bình thường, chúng tôi thấy, tất cả các bài thơ làm nên tên tuổi Mai Văn Phấn đều thuộc giai đoạn cuối, trong hai tập Và đột nhiên gió thổi Hôm sau. Dùng lại lời Hoài Thanh về Nguyễn Đình Thi, có thể nói: Các bài thơ hay của Mai Văn Phấn không nhiều, nhưng những bài thơ không hay cũng không nhiều. 
Các bài tiêu biểu: Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Tắm đầu năm, Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, Gió thổi, Sống hồn nhiên, Bài học, Chuyện còn dài.
Những bài này xứng mặt trong các bài thơ điển hình của trào lưu văn học hậu hiện đại Việt Nam. Ở đây dùng các chữ “điển hình”, “tiêu biểu”. Bởi phải nói sòng phẳng rằng, chưa thể (và không biết đến bao giờ?) có khái niệm “hay” trong dư luận cho một tác phẩm cách tân mang phong cách hậu hiện đại. Không chỉ với văn học Việt, mà ở bất kỳ nền văn học nào, ngay cả các quốc gia sản sinh ra trào lưu này. Với phong cách hiện đại, và nhất là với các trào lưu trước đó, dù sao tiêu chí “hay” dễ được đồng thuận hơn.
Chúng tôi đã thú vị đi thú vị lại trước các bài bình, lời bàn của Bão Vũ (Tắm đầu năm), Lê Vũ (Bài học). Ba nhà thẩm thơ Đặng Văn Sinh, Đặng Thân và Nguyễn Hoàng Đức đưa ra ba diễn giải Ghi ở Vạn Lý Trường Thành đều đắc ý…

Và đây là lời bình của chúng tôi với bài Gió thổi:
Mai Văn Phấn vẫn còn nhiều rung động của tuổi yêu với hình ảnh "Con sâu đo em đu lên người anh". Câu kết đã làm nên chuyện: "nhưng tất cả ngọn cây đều bạt về một phía." Thi sĩ người Nga Joseph Brodsky là bậc thày của thủ pháp, tạm gọi là, hình ảnh lớn đứng trên vai các hình ảnh nhỏ. Gió thổi có nhiều hình ảnh nhỏ đỡ một hình ảnh lớn là vậy. Đó là một thủ pháp khó trong thơ ca Tây phương; tạo vẻ đẹp giản dị, bất ngờ, lại... dân chủ! Khác thơ Đông phương, thường tụ vào một hình tượng chủ, mang nặng tình ý, tư tưởng - tất cả dệt nên một cái khá mông lung gọi là tứ. Có tứ thơ, với gia giảm tu từ, qua các âm điệu, sắp xếp câu chữ thì sẽ cấu tứ được thành bài thơ. Độ lớn của hình ảnh trung tâm không phải vì nó lớn thật sự, tuyệt đối mà lớn tương đối, nhờ nhiều điều nâng nó lên. “Tất cả ngọn cây đều bạt về một phía" đã được tôn lên từ "hôn nhau trong hành lang hẹp", "Con sâu đo em đu lên", “thác đổ đều đều…" Thủ pháp này làm cho triết lý của thơ đến rất vô tình, từ các sự tượng hình, mô tả. Bao năm nay thơ Nguyễn Đình Thi chinh phục độc giả một cách nhẹ và dai có lẽ cũng nhờ vậy chăng?

IV.2. Thơ Mai Văn Phấn với “những câu thơ hay”:

Nhà thơ của các câu thơ hay - đó là một đề tài sôi động, nhất là với thơ phương Đông, trong đó có Việt Nam. Với thơ được hiện đại hóa, đơn vị câu thơ khó có vẻ đẹp ổn định. Sự thẩm thơ trên câu cũng hoang mang theo. Lê Đạt, Hoàng Cầm, thậm chí không cách tân như Phùng Quán, có nhiều câu được cho là để đời, trộm nghĩ cũng có phần nhờ “ăn theo” tên tác giả. (Nói vui tí tẹo, xin các cụ tha tội: Nếu cũng như câu thơ đó là của Lê Văn Đạt hay Hoàng Thị Cầm chửa chắc mấy ai đã chịu thẩm chịu thấm?) Với Trần Dần thì khác: Những câu được ca tụng thực ra mang dáng vóc tư tưởng trong khổ thơ ngắn. Và chính người cũng sinh hạ cả một đường thơ mini đó thôi! Vấn đề “câu thơ hay” quả là bất định, trong đó các yếu tố như tác giả (và nhân thân), xuất xứ (tình thế), và nhất là quán tính thẩm mỹ của dư luận đã lấn át tính văn chương.
Chúng tôi tin rằng, các tay phê bình, điểm thơ Mai Văn Phấn phải hơn một lần gặp khó khi chọn câu thơ điển hình, xuất thần. Đây là một tác giả hoàn toàn không dễ xơi với các phê bình gia lười nhác quen dùng tài hoa và kiến văn để nếm một thìa canh phán cả bàn tiệc. Những bài thơ hay ở Mai Văn Phấn, và các tác giả tương tự, là sự kết hợp không những hài hòa ở từng câu lẻ mà – quan trọng - được xây cất trên một tầng nào đó. Gọi được tên của cái tầng đó ra, là mong muốn của tham luận này hòa chung cả cuộc Hội thảo.

Như nói trên, cây viết này hầu như không hạ xuống, những câu thơ tuyệt bút, riêng rẽ và yên vị. Trong thời kỳ đầu, nhà thơ cũng có các câu thơ đứng được. Nhưng lại có dáng chông chênh. Sang thời kỳ cách tân, thi thoảng anh cho ra các câu được độc giả cảm phục: nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã từng thốt lên “hằng đời người mới có” với câu “Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh”; còn chủ bút tạp chí Thi Bình, nhà thơ Hàn Quốc Ko Hyeong Ryeol đánh giá câu “Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ” trong bài Tắm đầu năm  “dường như tiêu biểu cho phong cách thơ Mai Văn Phấn”. Ngẫm kỹ sẽ thấy hai câu đó cũng chỉ có sức khi sống trong toàn văn bản; không chỉ trong bài, đoạn đó mà cả tập thơ, trường thơ Mai Văn Phấn. Khác hẳn với lối tu từ truyền thống, những câu “hằng đời người mới có” thường bỏ bài thơ ra ở riêng!

Cũng vậy, Nguyễn Hoàng Đức muốn rằng tác giả này cần phải thêm các “phương ngôn cứng”, vì “độc giả nhớ về nhà thơ nào đó lại phải ghi dấu ở câu nào hết sức cụ thể.” Có nhẽ đâu thế! Bởi đã đi qua cách làm thơ cần các câu thơ hay và độc lập, không biết nhà thơ của chúng ta có trở về “tắm lại lần hai”, sau tác phẩm mới nhất Bầu trời không mái che? Bởi chính nó làm nên phong cách thơ Mai Văn Phấn đang thành quả ở giai đoạn thơ cách tân của mình. Bởi với tinh thần hậu hiện đại, những câu thơ gây choáng, những cách làm thơ thôi xao Giả Đảo đã không còn thích hợp. Nói đâu xa, đến như Nguyễn Quang Thiều cận cổ điển, hiện đại rồi hậu hiện đại, cũng khó có thể đáp ứng yêu cầu của Nguyễn Hoàng Đức? Chúng tôi có trong tay, trong mắt những câu cứng cáp của nhà cách tân đầu bảng thơ Việt đương đại đó. Rất nhiều. Mà không sao có nổi trong… đầu! Thêm bằng chứng nữa: chúng tôi nhìn nhận, về phong cách hậu hiện đại ở hải ngoại, đi tiền phong là Ngu Yên, còn tạo ảnh hưởng nhất phải là Nguyễn Hoàng Nam, đến mức Đỗ Kh. – người có tác động rõ rệt đến các tác giả hậu hiện đại trong nước - thường gọi kẻ trẻ hơn mình một con giáp là “thầy”. Lăng-xê dông dài để hỏi một câu: Liệu có ai nhớ nổi một “câu thơ hay” của Nguyễn Hoàng Nam?
Chính Mai Văn Phấn tuyên ngôn trong nhiều tiểu luận, trả lời phỏng vấn, gần giống trao đổi sau đây cùng chúng tôi tháng trước: “Thực ra những câu thơ hay, tuyệt bút giờ đây không phải là cái đích của những tác giả cách tân. Sự khác biệt giữa hệ thống thơ ‘cũ’ và ‘mới’ chính là vậy. Hệ thống thơ cũ tập trung vào các điểm chói sáng; trong khi hệ thống mới chủ yếu thiết lập từ trường thơ. Nếu cứ đòi hỏi các ‘câu thơ hay’ thì chưa thoát khỏi vòng kim cô của quan niệm truyền thống”. Còn Nguyễn Đức Tùng, cũng trong vòng chia sẻ này, đẩy vấn đề xa hơn: “Tuy nhiên nếu ‘phương ngôn cứng’ suy rộng là các điểm thi pháp sáng chói, các khúc quanh và nơi tập trung thẩm mỹ” thì sao? Vâng, một thách đố cho những tác giả muốn mở lối đi về giữa hai, ba thi pháp. Họa có Trần Dần mới nhiều “phương ngôn cứng” trong một bàn tay mà hai mặt trái phải đều có cái gọi là thơ!
Nhưng nói gì thì cũng không qua mặt được sở trường sở đoản. Văn chương Mai Văn Phấn nói chung không thuộc tạng tinh sắc ở các sang chấn cô đọng, ở các thi tứ lập ngôn. Có lẽ tự biết mình, người thơ này đã không chiêm bái hào quang có được chút ít trong “miếu đường” lãng mạn pha hiện thực, để rồi anh đã “đi về những hướng sao rơi”. Và cũng khác với Nguyễn Hoàng Đức, chúng tôi lại mong họ Mai chỉ nên thâm canh trên cánh đồng thơ. Không giống với Nguyễn Quang Thiều; truyện, ký sự, kịch bản có thể sẽ không chào đón Mai Văn Phấn! Tiểu luận thơ thì OK! Mà ngay trong cái thể loại không có tính thể loại ấy, nhà thơ của chúng ta cũng vẫn hơn người ở các luận cứ nền gốc, trong khi các ví dụ, dẫn chứng thường tản mạn, và đôi khi để hớ. Phạm Khải đã tinh tường chỉ ra ở cách làm thơ truyền thống tiêu biểu có một hạn chế mà đa số chúng ta ít nhiều mắc phải: “Tô Hà là người rất có ý thức tạo dựng toàn bài bắt đầu từ việc tạo dựng nên những câu thơ hay. Phương thức sáng tạo ‘phát một’ theo kiểu súng trường của anh đã khiến cho mỗi câu thơ là một ý, chúng có đích để đến, bởi vậy mà chúng thường tách bạch, đổ bóng, hắt bóng xuống nhau chứ không mấy khi ‘bén rễ’ sang ‘đất’ của nhau.”

Chúng tôi không chúc Mai Văn Phấn có nhiều “câu thơ hay”, nếu như xâm phạm đến cái hay trong cả trường thơ của mình! Vẫn có những chàng trai không đẹp với chiếc răng khểnh… Vẫn có những cô gái không duyên với cái núm đồng tiền…

IV.3. Nội dung, tư tưởng:

Có thể hình dung được phần nào nội dung và tư tưởng thơ Mai Văn Phấn qua tên các tác phẩm đã xuất bản: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999), Trường ca Người cùng thời (1999), Vách nước (2003), Hôm sau (2009), Và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010).

Khi đặt các cuốn sách đó lên chiếc bàn ba chân của thơ ca thế giới trong tương quan với tư tưởng của mỗi nền văn minh, chúng ta sẽ thấy nhà thơ này vẻ như nghiêng về văn hóa Ấn Độ - ở đó đạo giáo, tâm linh là nền tảng của tư duy, trong khi văn minh Tây phương thuộc về triết luận, và Trung Quốc là của đạo đức. Do ảnh hưởng ở mức quyết định của thơ Trung Hoa, thơ Việt ít có sự bất ngờ rành mạch ở tư tưởng. Trong quan niệm làm thơ, người mình không chuộng sự biến thiên ở ý tưởng thông qua chi tiết, mà tỉ mỉ tạo động với tu từ bằng một vài quan niệm sống đã thành đạo lý. Không thuần Việt trăm phần trăm như thế, ý niệm tâm linh đã như sợi chỉ đỏ chạy dọc hồn thơ Mai Văn Phấn! Giai đoạn gần đây đã bừng sáng trong tập Bầu trời không mái che. Còn ở thời kỳ đầu nó cũng lấp lóe trên cả những chủ đề đời thường: “Biết ơn sợi tóc trên đầu/ Buộc ta vào những nhiệm màu khói sương” (Bâng quơ), hay rõ rệt trong các chủ đề tôn giáo, tâm linh ở bài Qua hoàng hôn.
Ngoại lệ duy nhất về nội dung có thời cuộc là trường ca Người cùng thời đan xen nhiều chủ đề và đối tượng khi tác giả truy tìm vấn nạn từ các xã hội và các nền văn minh, trong đó có hai cuộc đại chiến thế giới của thế kỷ 20, nhưng hướng giải quyết lại thuộc về nền văn minh tâm học của tương lai. Nhân sinh quan và thế giới quan của tác giả được tuyên bố rõ trong chương cuối của trường ca:Đã hé mở cánh cửa nền văn minh tâm học, những linh hồn tâm hồn có đủ lương năng, lương tri rời thể xác tìm nhau. Vượt gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng, trái tim hiền lành rung động các vì sao.” (Xem tiếp mục IV. 9. Thơ Mai Văn Phấn và vấn đề trường ca)

Cũng gần thế, Trần Nhuận Minh có một hướng khác với khuynh hướng hiện thực XHCN, bằng loại  thơ, và nhất là tổ khúc, trường ca luận đề. Có lẽ cảm quan tâm linh đã góp phần làm một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mỹ và xây dựng CNXH vượt lên chính mình và cả thời đại. Hướng này vẫn đồng hành với những gì nhà thơ phục vụ lâu nay trên nền thơ mang cảm hứng sử thi và nội dung chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Thơ Mai Văn Phấn rất ít thời thế, càng không có các chủ đề chính trị, sự kiện thời sự. Ở giai đoạn sau, có thể xem đây là loại thơ không đề tài (trừ đề tài muôn thuở và căn bản là tình yêu đôi lứa). Thơ này rất gần nghệ thuật phương Đông ở chỗ tư tưởng qua tả cảnh, nhưng lại xa phương Đông ở cảm xúc sầu đau. Mai Văn Phấn không làm ra thứ thơ để đọc xong thấy đau đớn, da diết vì buồn. Kể cả ở thời kỳ đầu với các bài sát tim gần máu nhất, chúng tôi như không thấy bài nào của anh khiến người đọc đổ lệ theo nghĩa đen cùng nghĩa bóng. Chất thiền thi đã vượt thắng nỗi sầu thi nhân chăng? Tiêu chuẩn quen thuộc - cái buồn sầu chính là hồn vía trong một bài thơ - không tìm được đất sống ở nhà thơ này!
Trong những gì chúng tôi được đọc, nhất là ở bản thảo Thơ tuyển Mai Văn Phấn (dự tính ra vào tháng 4/2011 này), tuyệt không có bài nào về chiến tranh? Bài duy nhất về đề tài hậu chiến là Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc. Là người lính từ trước mốc lịch sử 1975 và phục vụ trong quân ngũ 8 năm, nhà thơ có tác phẩm xuất bản kể từ 1992 (Giọt nắng). Kể như anh đã “kinh qua” thời kỳ Đổi mới từ 1986. Phải chăng đó là một trong các lý do để bút pháp truyền thống và hiện thực XHCN ở thời kỳ đầu không thả neo lâu được? Câu hỏi này chỉ có thể dành cho Mai Văn Phấn. Dù ngẫu nhiên hay chủ đích, sự nhổ neo đã là động thái đúng và dứt khoát, về tư duy và cảm hứng sáng tạo. Không thế, chắc là nhân vật chính trong Hội thảo hôm nay không là Mai Văn Phấn!
Chủ thể của tự ý thức, cái tôi trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn, không phải là cái tôi công dân, cái tôi sử thi, hay cái tôi riêng tư. Mà là cái tôi nhân sinh. Nhà thơ chuyển từ quan niệm thơ là nỗi lòng mình, mục đích khiến cảm động lòng người đến thái độ coi thơ là cách lập ngôn, làm thơ là thực hiện đạo sống. Hai đối tượng chính đã lập trình dòng thơ này là con người và thiên nhiên, đến mức tác giả không nén được, phải tuyên bố bằng câu kết của trường ca Người cùng thời: “Khắp nẻo không gian đã giãn ra cho tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp/ Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!”
Với Mai Văn Phấn, thêm một kinh nghiệm nữa trong việc làm thơ: điều đầu tiên không phải là luyện chữ; mà là luyện tâm.

IV.4. Vấn đề thi pháp và thơ Mai Văn Phấn:

IV.4.1. Không kể được âm thầm viết từ trước bởi các thi sĩ đứng đầu Nhóm Nhân văn - Giai phẩm và một vài thi hữu gần gũi, sau Đổi mới 1986 cho đến tận 2011 này, cả trong lẫn ngoài Việt Nam, đã và đang bung nở nhiều loại thơ khác hẳn với những gì gọi là thơ trước đó. Sẽ không quá lời khi cho rằng, với mỗi nhóm tác giả, thậm chí mỗi tác giả, có một loại-thi-ca-mới xuất hiện! Có những loại nằm vào các khuôn viên hay ở đường biên các trào lưu văn chương trước đó hay đương thời. Có không ít loại không hoặc chưa định danh được, mà thi ca Mai Văn Phấn là một.

Không ít bài phê bình (Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Việt Chiến, Đặng Văn Sinh - Phụ lục) và cả các tuyên bố của tác giả đã đóng đai một số khuynh hướng thơ quen thuộc trong lý luận thi ca Việt Nam và thế giới lên thơ Mai Văn Phấn. Tác giả đã tự lý giải: “Vong thân tức một cuộc cách mạng trong thi pháp, sự tái sinh/lột xác để đến với một chân trời khác. Sau khi vượt thoát khỏi hệ mỹ cảm cũ, năm 2009 tôi in hai tập thơ với hai phong cách, khuynh huớng khác nhau. Hôm sau là hướng triển khai phong cách hậu-hiện đại kiểu Việt Nam. Và đột nhiên gió thổi thuộc cổ-điển-mới. Đến Bầu trời không mái che, tôi không còn bận tâm về khuynh hướng, chủ thuyết. (…)”[iv]

Đồng ý, dù không hoàn toàn. Nhưng khó mà phản biện những gì chưa chia sẻ. Bởi tính đa phong cách từ sản phẩm ngôn ngữ trữ tình này, chúng tôi sẽ gợi ý cách nhìn khác hoặc bổ sung.

IV.4.2. Thi pháp văn chương, nhất là thơ, chỉ viên mãn khi có những liên mạng nào đó trong hay ngoài hệ thống với văn hóa của ngôn ngữ mà nền văn chương đó sử dụng. Tức là không thể có thứ thi pháp hoàn thiện để mà toàn cầu hóa; bởi vì chẳng thể nào có văn hóa toàn cầu. Giản dị là không hề có ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) chung cho nhân loại. Mọi nỗ lực trong văn minh, huyền thoại, lịch sử hay trên thực tế (với Quốc tế ngữ Esperanto) là lý tưởng nhân văn cần có nhưng không thể có.

Trong số các tác giả mà giới phê bình báo chí thường gọi chung là “trẻ và hậu Đổi mới”, Nguyễn Lương Ngọc, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải đã làm lạ hoặc chuyển biến một mặt nào đó ở ngôn từ và ý niệm. Thay đổi thi pháp tổng thể, Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều; và dữ dội hơn về cấu trúc thể loại và diễn ngôn là Đỗ Kh., Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh, Nguyễn Đình Chính, Đặng Thân, đã “cách tân” thơ. Hai chữ này ở đây có thể khác về nội hàm như trên một số báo chí. Dương Tường đã phân biệt ở một hiện tượng: “Thơ Vi Thùy Linh có cái vẻ mạnh mẽ của nó, song để nói là cách tân thì e là chưa.” Trong tham luận, chúng tôi tạm gọi “cách tân” nặng về hình thức, “đổi mới” nghiêng về nội dung, dù ở hầu hết các tác giả thành đạt thì tuy hai là một. Trong trẻo, Anh Ngọc đổi mới cái thật của hiện thực chiến tranh và đời sống; Cảnh tỉnh, Nguyễn Duy đổi mới cái thiện của một xã hội hậu chiến; Bão táp, Phùng Quán đổi mới cái chân của nhân sinh, của thời đại. Sông núi thi ca Việt Nam thế kỷ qua có những đỉnh cao một mình một cõi vút trời xanh, không bằng sự cách tân hay đổi mới, không ràng buộc truyền thống hay hiện đại: Quang Dũng và Nguyễn Tất Nhiên; Thâm Tâm và Nguyễn Đức Sơn… đã đưa hơi thở đương thời tới mai sau bằng cái thi ca kỳ khôi không thể nào thay thế.

Với Mai Văn Phấn, chúng tôi muốn mượn cách nói đắc địa: “cách tân (văn học) từ cách tâm.” Và đề nghị không như thế cho trường hợp Vi Thùy Linh và nhất là cho Nhóm Mở miệng, như Hoàng Hưng[v] từng làm, bởi ở các thi sĩ đó sự cách tâm nằm trong ý nghĩa cách tân về văn hóa bằng phương tiện văn học (xem mục III.2.) Khi Hoàng Hưng viết, “Vi Thùy Linh chẳng hạn gây chấn động nhờ cảm hứng bạo liệt, tuôn trào của người đàn bà yêu một thứ tình khát dục không cần kiềm chế hay giấu giếm, là tiếng nói chân thực của một bộ phận lớp trẻ thời chuyển tiếp hai thiên kỷ”, thì đó là văn hóa; Còn “[Vi Thùy Linh] chưa mới bao nhiêu về thể điệu, cấu trúc, từ pháp, cú pháp”: đó là văn học!
Trong các hiện tượng về quan hệ văn hóa trong văn học đương đại ở một-nửa-thế-giới Việt - người phụ nữ, người yêu, người vợ, người mẹ Việt – có sự công phá trong thái độ ở Lê Thị Thấm Vân; sự ẩn sâu ở Xuân Quỳnh; độ nhuần nhụy văn chương ở Nhã Ca, Phan Huyền Thư. Với thơ Mai Văn Phấn, người tình nữ là yếu nhân không chỉ ở đối tượng trữ tình. Trong giai đoạn cách tân của tác giả, chủ thể trữ tình nhòa đi nhờ nghệ thuật giải trung tâm. Cái tôi trữ tình - mặt trời sáng tạo trong các phong cách tiền hiện đại và hiện đại - bây giờ chỉ là mặt trời hoàng hôn. Nhân vật “Anh” là anh của ước lệ sót lại. “Em” cũng vậy. Liệu có bất ngờ không khi chúng tôi so sánh, rằng thiên nhiên và tâm linh Việt ở hai tập Và đột nhiên gió thổi Bầu trời không mái che có vai trò như thời cuộc và đời sống thường nhật của nửa nước Việt Nam ở các thập niên 70-80 của thế kỷ trước trong thi ca Xuân Quỳnh? Nhân vật người tình của Mai Văn Phấn trong diễn ngôn hiện đại không khác lắm, về Việt tính, với nhân vật người yêu của Xuân Quỳnh ở ngôn ngữ lãng mạn và hiện thực XHCN. Khác về cấp độ phổ cập hóa ở toàn cõi Việt Nam và thế giới hóa: Ở tác giả đầu, Việt tính của ái tình nam nữ nằm sâu trong văn hóa, trong tâm linh Việt; với tác giả sau: người con gái Việt mang một văn-hóa-yêu đặc thù ở miền Bắc Việt Nam thời hòa bình và thời chiến tranh chống Mỹ. Cùng trang lứa và thời đại với nữ sĩ, trong số các tác giả (mà tất cả đều là nữ) đã viết thành công về đề tài phụ nữ, về nữ quyền và tình yêu, chưa nói đến tính nghệ thuật (hay dở), thì Ý Nhi có thơ cao về tính văn học (học thuật), Dư Thị Hoàn có thơ xã hội hơn về văn hóa nữ quyền (nghề nghiệp). Nhưng thơ Xuân Quỳnh đã là đại biểu Số 1 cho phong cách diễn ngôn thời đại mà nay đã bị vượt qua về văn học, về thi pháp. Vì sao nó sẽ mãi còn được xã hội hóa, được ở vị trí tiêu biểu trong văn học Việt Nam? Vì tính văn hóa thời cuộc mà dòng thơ Xuân Quỳnh từng tận lực tận tâm chuyên chở. Cái tôi ở thơ của nữ sĩ đầu là cái Tôi phụ nữ miền Bắc Việt Nam; với hai nữ sĩ sau không vậy: đó là những cái tôi văn học. Có nhiều dòng thơ Việt như thế, đã vòng qua thi pháp để vượt lên thi pháp, nhưng không phải dòng nào cũng trở nên đại diện văn học.

Để rõ hơn mối liên hệ văn hóa với thi pháp văn chương của thơ Mai Văn Phấn, chúng tôi thử phụ họa bằng các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam quan trọng nhất.

Vũ Trọng Phụng, qua tiểu thuyết và ký sự, đã tạo những cơn bão cách mạng về văn hóa (và ít nhiều về tư tưởng) trên sân cỏ văn học và báo chí đương thời. Các lỗ hổng về nghệ thuật thể hiện được khỏa lấp bởi sự dấn thân không khoan nhượng về nội dung cùng đẳng cấp khác biệt ở phương pháp sáng tạo thể loại và phong cách ngôn ngữ. Vũ tiên sinh đã văn chương hóa và báo chí hóa được một khối lớn trong văn hóa Việt.

Nguyễn Huy Thiệp - một dòng văn đã cuồn cuộn chảy, và sẽ còn chảy lâu nữa, trong lòng độc giả. Bình nguyên văn hóa Việt đã làm màu mỡ cho dòng sông Nguyễn Huy Thiệp! Ngay cả ở nơi nào đó trong hay ngoài bình nguyên, để đọc văn chương ấy người ta cũng có thể không cần ngước lên, cúi xuống những ngọn núi, các vực sâu của xã hội, chính trị Việt đương thời. Thi pháp văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp, trên thực tế, đã và đang làm nên giáo trình của một trường-phái-văn-học Việt không-mang-tên Nguyễn Huy Thiệp. Sông văn Nguyễn Huy Thiệp không đổ ra biển được cho đúng vòng luân hồi thiên địa trong Việt Nam (tạm chưa tính ngoài thiên hạ), có lẽ vì thiếu sức đẩy bất tận của chất tiểu thuyết chăng? Tiếc mà không làm gì được. Văn hóa Việt lỡ một cơ hội có tính thế kỷ!

Nguyễn Khải là một nhà-văn-của-chế-độ trước khi là thư-ký-của-thời-đại. Tiểu thuyết, truyện, ký là phương tiện trời cho, thời đại tặng và chế độ giao phó cho bàn tay và khối óc ấy. Làm văn chương, Nguyễn Khải phải giấu đi trái tim - nơi chứa chất hồn vía văn hóa Việt mà ông không thể không bày tỏ. Yếu tố văn hóa trong người-văn này đã làm phẳng đi những gì của thời cuộc, thời thế và bao trùm là của chính trị Việt Nam lúc đó. Văn hóa đã hiện đại hóa văn học Nguyễn Khải! Phương pháp sáng tác hiện thực XHCN đã được chắp cánh bởi tất cả những gì nhà văn có: bàn tay, khối óc và trái tim. Cho đến cuốn hồi ký cuối đời - văn bản cuối cùng - đó vẫn là một liên văn bản của toàn hệ thống con người, văn chương, văn học và văn hóa mang tên Nguyễn Khải. Về học thuật, nhà văn đã vô thức cập nhật vào bút pháp của mình một vài cách biểu hiện của các trường phái khác hiện thực XHCN, khác Marxism.

Nam Cao là một tác giả văn xuôi Việt hiện đại mà chúng tôi cho là lớn lao, là có một không hai như một văn sĩ tạo ra văn phái nguyên chấtthuần túy. Bất kể nhân thân và tác phẩm của người, giai đoạn trước trong dòng hiện thực phê phán, giai đoạn sau thuộc về đường lối văn học cách mạng. Văn hóa và tất cả những gì khác mà Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp lăm lăm trên tay, người đã cho trước vào các trang văn trước khi hạ bút. Có thể nói, văn học và văn hóa Việt thêm một lần bị trúng đạn, và một Lỗ-Tấn-của-Việt-Nam như thế đã không thể xuất hiện!

Thời cuộc Việt Nam và cao vọng chính trị đã từng làm yếu đi một dòng văn chương đang sắp sửa trở thành bộ phận quyết định của nền văn học Việt đương thời với cha đẻ là một tác gia văn xuôi thực sự làm cách mạng văn hóa bằng văn học và báo chí: Nhất Linh! Khuynh hướng lãng mạn và hiện thực tiền chiến của Tự Lực Văn Đoàn đã được xây dựng trên một công trường văn hóa Việt ngổn ngang các tòa nhà phong kiến - thực dân, các nguyên vật liệu Trung Hoa - Pháp… Văn Nhất Linh vượt xa hơn thế so với các tác giả cùng văn phái bằng bút pháp chính luận chưa hoàn thiện của mình. Nhưng dòng văn của ông không thể đi trước thời gian.

Văn minh, và nhất là văn hóa vùng đất mới, trong đó có nền báo chí khai phóng miền Nam Việt Nam, đã là cửa biển cho nhiều dòng sông văn học truyền thống đổ về: Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam. Thi pháp không tân kỳ nhưng tươi mạnh, hai dòng văn học này đã thành kinh điển nhờ Việt tính khỏe khoắn và bao dung mang sắc thái văn hóa phương Nam.

Không thể trở thành kinh điển, bởi còn nhiều pha tạp gấp gối cả về văn hóa (Âu - Mỹ) lẫn văn chương (ảnh hưởng từ các trào lưu văn học, tư tưởng, lối sống Pháp - Mỹ), Túy Hồng và Mai Thảo; Nguyễn Thị Hoàng và Thanh Tâm Tuyền; Dương Nghiễm Mậu và Thảo Trường; v.v… và v.v… nhìn chung không ai vượt trội hơn ai, bằng tiểu thuyết, truyện dài, truyện ngắn đã diễn tả chính xác tâm thức và gương mặt giới trẻ, văn nghệ sĩ, trí thức và thị dân Sài Gòn - đô thị miền Nam Việt Nam sau hòa bình 1954 và trong cuộc chiến 1965-1975. Cho đến nay, cùng với thơ, văn xuôi tiếng Việt lần đầu, và có lẽ là chót, tìm được các diễn đàn tự do, hỗn loạn và phóng túng đến thế với hầu hết các nhóm phái, trào lưu văn học đại diện cho mọi giai tầng xã hội. Nhưng khác với thơ, hệ văn xuôi miền Nam nói trên không có được sự chuẩn bị văn hóa cần thiết và tương xứng với các phong cách hiện đại, các chủ nghĩa mới lạ của văn chương và tư tưởng thế giới mà nó được hay bị ảnh hưởng.
Còn nữa

ĐỖ QUYÊN



[i] Đỗ Quyên: “Về một dòng thơ cần giải thích giá trị - Trường hợp Tuyết Nga”, vannghesongcuulong.org 9/2/2009
[ii] Khánh Phương: “Mai Văn Phấn, từ bóng tối của im lặng, đổ vỡ…”, Báo Thể thao & Văn hoá 6/2/2004; Thơ tuyển Mai Văn Phấn, NXB Hội Nhà văn 2011
[iii] Trần Đình Sử: “Toàn cảnh Thi pháp học”, lythuyetvanhoc.wordpress.com 13/9/2010
[iv] Nguyễn Hoàng Diệu Thủy: “Có còn vong thân?”, Phỏng vấn Mai Văn Phấn tienphong.vn 24/2/2011 
[v] Hoàng Hưng: “Thơ – Cách Tân Và Cách Tâm”, vanchuongviet.org 21/2/2011


No comments:

Post a Comment