Mùa hè:
Cũng như mùa xuân và mùa thu, mùa
hè cũng có những bức tranh đẹp gợi cảm:
Dưới trăng, quyên đã gọi hè,
(1307)
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm
bông. (1308)
Khác với các nhà thơ khác miêu tả
mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng ve
sầu tái tê, hoa phượng đỏ trời, gió nồm lồng lộng, bức hoạ mùa hè trong thơ
Nguyễn Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắc gọi mùa. Cái
rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng gam màu đậm đặc rực rỡ của hoa lựu như
đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Sự
sống và sắc màu như trổi dậy mạnh mẽ đơm hoa kết trái. Thiên nhiên như khêu
gợi con người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người
”toà thiên nhiên”
-Mùa hè còn được ghi nhận trong sự
vận chuyển màu sắc, sự vận hành của thời tiết chuyển mùa-xuân sang hè,
hè sang thu :
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy
xanh. (1474)
Sen tàn, cúc lại nở
hoa,
(1795)
Mùa đông :
Có lẽ đây là mùa thi hào đề cập ít
nhất, chỉ một lần duy nhất nhưng nó cũng trở thành“nhân vật” nhằm diễn tả nỗi
sầu muộn khắc khoải chờ mong của chàng Thúc đang đếm từng thời gian trôi chày
mong ngày gặp lại cố nhân:
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang
xuân. (1796)
Tìm đâu cho thấy cố
nhân?
(1797)
Dưới ngòi bút của thi hào thời
gian co giãn rất linh hoạt. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các mùa trong thơ
Nguyễn Du, Xuân Diệu có viết:”Bốn mùa chuyển rất thần tình …Với một câu thơ ,
Nguyễn Du cho diễn ra cả một mùa; với hai câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả
một năm” [92,136] và có khi là cả ba năm”Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Dù xuân hay hạ, thu hay đông, tất
cả đều có những tín hiệu đặc trưng, những gam màu phù hợp: gam màu lạnh
chủ yếu là màu xanh thường được dùng cho mùa xuân, gam màu nóng chủ yếu là
vàng-đỏ thường được dùng cho mùa thu và hè.
Thiên nhiên dưới ngoài bút thi hào
như đẹp hai lần. Ngoài những hình ảnh mang tính ước lệ còn có những sáng tạo,
phá rào bất ngờ. Những phá rào ấy thường để lại những kiệt tác có một không
hai .
2-2) -Cảnh lầu Ngưng Bích:
Như các nhà nghiên cứu đã khẳng
định đây là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm
Truyện Kiều. Bức tranh được phác hoạ thông qua cảm quan của con người, nhân
vật duy nhất và cũng là trung tâm của bức tranh. Dưới ánh trăng lầu Ngưng
Bích như cao hơn (trăng như sắp chạm vào đầu). Nhân vật trữ tình ở trên tầm
cao có thể quan sát không gian đủ hướng:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
(1033)
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở
chung. (1034)
Bốn bề bát ngát xa
trông,
(1035)
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm
kia. (1306)
Bức tranh mở ra từ từ, mở cả hình
ảnh lẫn ngữ âm (âm o sang âm a) và nhạt nhoà dần. Cảnh được phối trí theo
kiểu xa gần, cao thấp rõ mờ. Trước hết, đó là cái lầu có tên rất đẹp Ngưng
Bích nhưng lại là nơi giam chặt tuổi xuân con người, xa dần là núi, trăng,
cát, bụi. Tất cả đều là những sự vật hữu hình nhưng vô cảm cách chia “xa,
gần, nọ, kia”. Nét màu chủ đạo và chi phối toàn bức tranh chính là
sắc vàng của trăng. Nhưng không phải là trăng “vằng vặc giữa trời” khi
Kim Kiều thề ước hay “trăng thanh” khi Từ Hải xuất hiện mà là “trăng gần” với
người để chia sẻ nỗi niềm cô đơn, quạnh vắng. Cũng dưới ánh trăng vàng, mọi
vật trở nên nhạt nhoà hư ảo. Trong mắt Kiều, núi non trùng điệp với những sắc
xanh đậm đặc giờ chỉ còn là những đường viền mờ ảo loáng thoáng vắng lặng,
những bãi cát vàng nơi cồn nọ hay những hạt bụi hồng nơi dặm kia trở nên xa
vời. Không gian bát ngát, cảnh vật heo hút, con người càng trở nên nhỏ bé,
chơ vơ, trơ trọi. Bức tranh được thêu dệt bằng sắc màu hư ảo dù đẹp nhưng
buồn, mang đầy chất tâm trạng – hoài niệm, nhớ thương, âu lo.
Trăng hôm nay lại gợi nhớ trăng
năm xưa với đôi tình nhân và chén rượu thề nguyền giờ chỉ còn là kỉ niệm.
Trong chiều sâu tâm thức của Kiều đã hiện ra hình bóng một người yêu lý tưởng
đang khắc khoải chờ mong ngày tái ngộ, hình ảnh người mẹ già không ai chăm
sóc, tựa cửa chờ con. Tất cả những bức tranh vô hình trong tâm tưởng đã biến
thành những bức tranh hữu hình được thêu dệt bằng ngôn ngữ:
Tưởng người dưới nguyệt chén
đồng, (1039)
Tin sương luống những rày trông
mai chờ (1040)
Bên trời góc bể bơ vơ,
(1041)
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
(1042)
Xót người tựa cửa hôm
mai,
(1043)
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó
giờ?… (1044)
Trở về với thực tại dưới mắt Kiều
bức tranh khác lại hiện ra:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
,
(1047)
Thuyền ai thấp thoáng cánh buuồn
xa xa? (1048)
Buồn trông ngọn nước mới sa,
(1049)
Hoa trôi man mác, biết là về đâu
?
(1050)
Buồn trông nội cỏ dàu
dàu,
(1051)
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
. (1052)
Buồn trông gió cuốn mặt
duềnh,
(1053)
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế
ngồi.
(1054)
Bức tranh có cấu trúc khá cân đối:
thuyền- bể, nước- hoa, nội cỏ- chân mây, gió -sóng. Trong cái cao lại ứng với
cái thấp, trong cái lớn lại bao hàm cái nhỏ, có trên ắt có dưới. Không
gian hội hoạ đi từ xa đến gần cuối cùng là trung tâm điểm “ghế ngồi”. Ghế
ngồi hình ảnh biểu hiện sự hiện hữu của nhân vật duy nhất trong khung cảnh.
Nó lại được bao bọc bởi ánh sáng lờ mờ âm thanh dữ dội, sắc màu pha tạp nhàn
nhạt. Đằng sau bức tranh hiện hữu là thế giới nội tâm con người. Một nỗi buồn
vây kín không rứt, một sự hãi hùng lo sợ ở tương lai gần, một khát vọng rất
con người-khát vọng tự do.
2-3) Trăng:
Trăng là hình ảnh quen thuộc
thường xuất hiện trong thi ca. Trước Nguyễn Du và sau Nguyễn Du không ít nhà
thơ viết về trăng. Nguyễn Trãi đã có “Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc.
Thuyền chở yên hà nặng vạy then ”, Hàn Mặc Tử với ”Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay?”, còn ca dao lại viết “Hỡi cô tát nước
bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”. Đó là những bức hoạ trong nhiều
bức hoạ tuyệt tác về trăng. Trong tác phẩm Truyện Kiều, trăng còn xuất hiện
với tần số lớn hơn nhiều. Khảo sát tác phẩm ta thấy trăng có nhiều ý nghĩa và
xuất hiện trong nhiều trường hợp:
-Trước hết, trăng là vẻ đẹp huyền
ảo của vũ trụ, nó tôn thêm vẻ đẹp của cảnh vật chung quanh:
Dưới trăng, quyên đã gọi
hè,
(1307)
Đầu tường lửa lựu lập lèo đâm
bông. (1308)
-Trăng thể hiện thời gian trôi
chảy, lúc chậm chạp lúc bình thường, lúc khẩn trương gấp gáp, góp phần xác
định sự chuyển giao thời tiết. Dưới ngòi bút của thi hào, chỉ có một đôi câu
mà có lúc là đêm trăng, có lúc tuần trăng, có lúc là cả một mùa trăng, thậm
chí là mấy mùa trăng:
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
(251)
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán
lòng. (252)
Nhẫn từ quán khách lân
la,
(287)
Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm
hai. (288)
Lần lần ngày gió đêm
trăng,
(369)
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân
qua. (370)
Chạnh niềm nhớ cảnh giang
hồ,
(1595)
Một niềm quan tái, mấy mùa gió
trăng (1596)
-Trăng tạo ra khung cảnh trữ tình
để nhân vật xuất hiện tâm tình trao đổi trò chuyện. Nó như đồng cảm lay động
sự trở trăn của nhân vật. Thuý Kiều “tựa ngồi bên triện” thì trăng “chênh
chênh ”, Thuý Kiều nhẹ gót thì ánh trăng như “đã xế” xuống gần soi bóng nàng
Kiều :
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
(186)
Tựa ngồi bên triện, một mình thiu
thiu.
(187)
Nhặt thưa, gương dọi đầu cành,
(433)
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh
hắt hiu.(434)
Sinh vừa tựa án thiu
thiu,
(435)
Giở chiều như tỉnh, giở chiều như
mê. (436)
Tiếng sen đã động giấc hoè
,
(437)
Bóng trăng đã xế hoa lê lại
gần.
(438)
Người anh hùng Từ Hải đã xuất hiện
trong khung cảnh gió mát, trời trong, thiên nhiên huyền ảo. Ánh trăng đã tạo
thêm vẻ đẹp huyền bí cho nhân vật huyền thoại:
Lần thâu gió mát trăng thanh.
(2165)
Bỗng đâu có khách biên đình sang
chơi.(2166)
Người anh hùng đi tìm tình yêu có
khác. Mượn ánh trăng tên họ Sở đánh tiếng xuất hiện trong sự dè xẻn, lén lút
để vừa kiếm được tiền vừa kiếm được tình còn Từ Hải thì rất bất ngờ,
đường đột, ngang nhiên, mạnh mẽ.
-Mùa trăng thường đồng nghĩa với
mùa của những hoạt động vào đêm. Có người xem đó là mùa chơi trăng, thưởng
ngọn cảm tác, có người xem đó là mùa hò hẹn, song cũng có kẻ xem đó là cơ hội
thực hiện mục đích của mình. Tú Bà tranh thủ mùa trăng truyền bí quyết
về thuật tiếp khách làng chơi cho những ai mới vào nghề:
Vừa tuần nguyệt sáng, gương
trong, (1191)
Tú Bà ghé lại thong dong dặn
dò: (1192)
Khi “Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa
vành.”(1092) thì cũng là lúc “Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào.”(1094). Và
cuộc ra đi lặng lẽ của Sở Khanh- Kiều cũng ngay vào thời điểm đêm trăng :
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
(1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm
gương.(1120)
Lối mòn cỏ nhạt mùi sương
,
(1121)
Lòng quê đi được bước đường một
đau. (1122)
-Trăng còn là hình ảnh gợi hoài
niệm, nhớ thương, nỗi đau nỗi buồn. Tất cả quá vãng đẹp đẽ giờ chỉ còn là ảo
ảnh chẳng khác nào ánh trăng đã làm nhoè đi mọi vật nhưng làm thao thức những
chuyện tình:
Tưởng người dưới nguyệt chén
đồng, (1039)
Tin sương luống hãy rày trông mai
chơ. (1040)
-Trăng có lúc là người bạn đồng
hành, cảm thông toả sáng giúp con người thoát nạn.” Trăng tà về tây” phải
chăng là sự định hướng về một lối thoát duy nhất cho Kiều:
Cất mình qua ngọn tường
hoa,
(2027)
Lần đường theo bóng trăng tà về
tây.
(2028)
Mịt mù dặm cát đồi cây
,
(2029)
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu
sương. (2030)
Khổ nhục trăm bề, Kiều quyết định
quyên sinh, trăng lại xuất hiện để chia sẻ nỗi đau cùng tận của con người:
Mảnh trăng đã gác non
đoài,
(2617)
Một mình luống những đứng ngồi
chưa xong. (2618)
-Trăng –sự vĩnh hằng của vũ trụ,
trở thành thước đo của lời nguyền ước và là chứng nhân vô ngôn của hai miệng
một lời. Nó đem hết nội lực toả sáng, soi rọi, dõi theo, lắng nghe từng lời
nguyện thề kết tóc xe tơ. Con người là chứng nhân là chuyện thường tình nhưng
vũ trụ tạo hoá trở thành nhân chứng mới là độc đáo. Ai dám thay đổi!
Vầng trăng vằng vặc giữa
trời,
(449)
Đinh ninh hai miệng, một lời song
song. (450)
Còn duyên, may lại còn người
,
(3073)
Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền
xưa.(3974)
-Có khi trăng đã trở thành ẩn dụ
tu từ thể hiện sự tàn phai hoặc ngợi ca vẻ đẹp của con người. Cái đẹp càng có
giá trị đích thực khi đã trải qua bão táp, đó là cái đẹp của sự trải nghiệm,
vẻ đẹp tâm hồn nhân cách:
Bấy chầy, gió táp mưa
sa,
(3099)
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa
cũng
tàn.
(3100)
Hoa tàn mà lại thêm
tươi,
(3123)
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm
xưa.
(3124)
-Trăng còn là biểu tượng của niềm
cô đơn, sự chia lìa đôi lứa :
Vầng trăng ai xẻ làm
đôi?
(1525)
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm
trường.
(1526)
Trăng trong thơ Nguyễn Du có nội
hàm ý ghĩa rất phong phú. Nếu “ánh nắng buổi chiều là cái nhìn ra không gian”
thì “ánh trăng khuya là cái nhìn vào nội giới. Hai tia sáng hội tụ vào ý thức
giúp Kiều nhận định rõ chân tướng của định mệnh”[76,176]
Nguyễn Du đã sử dụng khá nhiều nét
vẽ khác nhau về trăng - trăng chênh chếch (hơi lệch)” Giương nga chênh chếch
dòm song; trăng xế trăng chênh “Chênh chênh bóng nguyệt xế mành “; trăng xẻ
đôi chia cắt “Vầng trăng ai xẻ làm đôi”; trăng tròn sáng tỏ”Vầng trăng vằng
vặc giữa trời”; trăng đầu tháng, trăng cuối tháng”Tuần trăng khuyết, đĩa dầu
vơi”; trăng đầu hôm, trăng giữa hôm, trăng cuối hôm; trăng long lanh đáy nước
“Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”; trăng ngập ngừng trên”Giá trà mi đã
ngậm trăng nửa vành”; trăng lúc nhặt, lúc thưa, lúc bao trùm khắp không gian,
lúc xuyên qua kẻ lá “Nhặt thưa gương rọi đầu cành” Và còn có cả trăng xuân,
trăng thu, trăng hè. Sắc màu của trăng cũng vô cùng biến hoá rất khớp với
không gian thời gian khi trăng xuất hiện- lúc thì sắc vàng dịu nhẹ, rõ
mờ; lúc thì màu vàng đến độ cực điểm”vằng vặc” toả rộng bát ngát cả một vùng
rộng lớn; lúc thì trắng hơi vàng“vẻ ngân”; lúc thì thu nội lực soi rọi vừa đủ
để nhân vật hoạt động. Sự biến hoá về sắc màu, đường nét của trăng thường có
sự đồng nhất với tình cảm con người. Khi con người trầm tư mộng mơ thì “gương
nga chênh chếch”, khi sứ giả Đạm Tiên xuất hiện thì trăng ”chênh chênh bóng
nguyệt”, khi có sự chia lìa mất mát thì “trăng khuyết” ”trăng xẻ” và lúc hai
tâm hồn hoà điệu thì trăng tròn”vằng vặc”. “Cùng một ánh trăng mà không biết
bao nhiêu màu sắc vì diễn tả không biết bao nhiêu tâm trạng: trăng đêm thanh
minh sôi nổi, rạo rực, trăng đêm tình tự huyền ảo, êm đềm, trăng đêm lìa nhà
hiu quạnh, xót xa, trăng ở lầu xanh chán chường nhạt nhẽo, trăng ly biệt Thúc
Sinh đầy nhớ thương mà không hiu quạnh, trăng đêm thoát khỏi nhà Hoạn Thư
lạnh lẽo và hãi hùng ,vv…”[27,193]
2-4) Cảnh Kiều ra đi:
Đây là đoạn thơ rất cảm động và ấn
tượng. Nguyễn Du đã tạc vào không gian xa tít tắp mọt con người với tấm
thân mảnh khảnh lầm lũi trong đồi cát, cỏ cây “mịt mù” và nhạt nhoà dưới màu
vàng yếu ớt của trăng khuya, dần dần mất hút trong con đường dài quanh co vạn
dặm vắng lặng đến rợn người. Chỉ một tiếng động tĩnh rất khẽ của “dấu giày
”cũng nghe thấu. Cấu trúc bức tranh được xây dựng trong sự tương phản
–con người thì quá bé nhỏ trước cái cảnh đêm thì quá mông lung, không gian
thì rộng vô tận. Không chỉ có hoạ, bức tranh thơ còn có nhạc- tiếng nhạc đều
đều của dấu giày hoà cùng tiếng gà canh khuya văng vẳng đâu đây và trên hết
là tiếng nhạc lòng thổn thức lo sợ, tự thương mình :
Canh khuya, thân gái dặm
trường, (2031)
Phần e đường xá, phần thương dãi
dầu! (2031)
Ngôn từ thơ thật đơn giản nhưng
đây lại là hai câu thơ vô cùng đặc sắc. Câu trên mở ra thế giới ngoại cảnh,
câu dưới đi vào thế giới tâm cảnh với hai hướng. Kiều cảm thấy lo sợ điều
không hay có thể đến”e đường xá” khi hướng ngoại và tự thương thân”thương dãi
dầu” khi hướng nội. Cả hai tạo nên một sự cộng hưởng rất lớn về nỗi đau thân
phận. Có thể xem đây là lời than thân của người trong cuộc và sự đồng cảm sâu
sắc của người ngoài cuộc. Những thanh bằng”canh khuya thân, phần e đường”,
những vần có âm vang”trường, đường, thương” liên tiếp xuất hiện trong hai câu
thơ làm cho câu thơ có sức âm vang, có khả năng khơi gợi một niềm cảm thương
về kiếp “hồng nhan đa truân”. Camera của thi hào Nguyễn Du như đã ria đủ hướng
như tìm kiếm, dõi theo từng thao tác của nàng Kiều từ đầu đến cuối, từ khi
thân gái yếu ớt mảnh khảnh cố cất mình qua bức tường hoa đầy hiểm nguy đến
lúc rời xa khu vườn của nhà họ Hoạn trong cảnh ngộ bơ vơ không thấy đâu là
nhà, người thân thích.
2-5) Cảnh sông Tiền Đường :
Nếu trăng trong thơ cụ Nguyễn Du
là “nhân vật im lặng” thì sông Tiền Đuờng là nhân vật biết lên tiếng:
Triều đâu nổi tiếng đùng
đùng,
(2619)
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền
Đường .(2620)
Cảnh sông Tiền Đường vừa được ghi
âm, vừa được hoạ tác bằng hình ảnh.Với những nét cong của những con sóng
đang cuộn tròn vỗ mạnh vào bờ, Nguyễn Du đã tạo ra một dòng sông với bao
sóng nước dao động mạnh mẽ như muốn làm vỡ tung những gì che chắn. Tiếng
triều hay là tiếng thét giận dữ bất bình của vũ trụ trước sự bất công của cõi
người?
Nhưng khi Thuý Kiều được giải
thoát thì sông Tiền Đường lại bình lặng êm ả. Nét vẽ lúc này là những nét
trải dài rộng mở, êm nhẹ :
Bốn bề bát ngát mênh
mông,
(2735)
Triều dâng hôm sớm , mây lồng
trước sau. (2736)
Tìm đến cái chết nơi dòng sông là
môtif giải thoát thường thấy trong văn học trung đại. Đạm Tiên con người “tài
sắc một thì” từng xem nơi đây là mồ chôn của những người tài sắc. Vũ Thị
Thiết khi bị bức tử đã quyên sinh nơi dòng sông Hoàng Giang. Khi bị đưa đi
cống giặc Ô qua, Kiều Nguyệt Nga cũng tìm đến dòng sông.
3) Chất hoạ trong những bức tranh
cảnh sinh hoạt :
Khác với những bức hoạ phong cảnh,
những bức hoạ cảnh sinh hoạt thường có nhiều nhân vật, đường nét vận động
trong nhiều chiều kích không gian, nhất là không gian rộng lớn.
3-1) Cảnh du xuân:
Cảnh du xuấn được vẽ bằng những
nét bút đẹp và sống động :
Thanh minh, trong tiết tháng
ba
(43)
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp thanh.
(44)
Gần xa nô nức yến anh
,
(45)
Chị em sắm sửa bộ hành chơi
xuân. (46)
Dập dìu tài tử, giai
nhân,
(47)
Ngựa xe như nước, áo quần như
nen. (48)
Ngổn ngang gò đống kéo lên
,
(49)
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy
bay. (50)
Mùa xuân, mùa của lễ hội. Lễ hội
thanh minh là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào gần cuối mùa xuân.
Trong lễ hội đó có phần lễ –tảo mộ và phần hội-đạp thanh. Bức tranh được khắc
hoạ trong thời gian tháng ba mùa xuân và không gian tràn ngập ánh sáng với
những thảm cỏ xanh trải dài, người qua kẻ lại tấp nập đông vui. Hoạ sĩ đã
quan sát nhiều góc độ –gần xa, từ mới bắt đầu “sắm sửa” đến lúc cuộc chơi
diễn tiến, sau đó là kết thúc. Nhiều hình ảnh –con người thiên nhiên, mồ
mả tro tiền, ngựa xe và toàn bộ những gam màu- nóng, lạnh được huy động. Nổi
bật nhất là sắc màu vàng của đồ mả, trắng xám của tro tiền- tiêu biểu của
phần lễ và màu vàng nhẹ của nắng xuân, màu xanh hy vọng của cỏ non, sự vận
động nhộn nhịp, đường nét mềm mại- tiêu biểu cho phần hội. Khắc hoạ cảnh
lễ ra cảnh lễ, cảnh hội ra cảnh hội, cái tài của thi hào Nguyễn Du là ở chỗ
đó.
Ngày hội Đạp thanh còn là cơ hội
gặp gỡ và cũng là cái ngưỡng có thể làm thay đổi trong đời sống tâm hồn tình
cảm của nhân vật. Bức hoạ càng trở nên rất sống động, rực rỡ, vui mắt một
phần nhờ nhịp điệu sống khẩn trương dồn dập của những chàng trai cô gái, nhờ
những cặp từ đôi diễn tả trạng thái, hoạt động–nô nức, sắm sửa, dập dìu, mô
tả sự vật- ngổn ngang, những hình ảnh nối nhau, đối xứng.
Tương phản với cảnh đông vui nhộn
nhịp là cảnh về chiều trống vắng lê thê. Cảnh đẹp nhưng man mác buồn:
Tà tà bóng ngả về tây
,
(51)
Chị em thơ thẩn dan tay ra
về.
(52)
Bước lần theo ngọn tiểu
khê,
(53)
Lần xem phong cảnh có bề thanh
thanh . (54)
Nao nao dòng nước uốn
quanh,
(55)
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc
ngang. (56)
Sè sè nấm đất bên
đường,
(57)
Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng, nửa
xanh. (58)
Cảnh có bóng chiều đang xuống chầm
chậm, con suối nhỏ, dòng nước trong, nhịp cầu nhỏ nhắn, ngọn cỏ vàng xanh héo
úa đang chuyển sắc màu, nấm đất nhỏ nhoi lẻ loi bên đường. Bức tranh được
kiến thiết bằng những hình ảnh xinh xắn nhỏ nhắn đáng yêu, bằng những đường
nét uốn lượn, gam màu dịu mát hoà hợp– vàng, xanh, trắng trong một bố cục cân
đối xa gần, cao thấp- nhịp cầu- dòng nước, nấm đất- ngọn cỏ. Cảnh xinh
nhưng buồn. Trung tâm của bức tranh là hình ảnh chị em Thuý Kiều đang cất
những bước chân nhẹ nhàng ngắm nhìn từng cảnh sắc một cách lặng lẽ, nghĩ suy,
nuối tiếc miên man. Đây còn là bức tranh của tâm trạng. Cái nao nao của dòng
nước hay chính là cái nao nao của tâm trạng con người. Ngọn cỏ dàu dàu, nấm
đất sè sè hay chính là sự linh cảm về những điều không vui sẽ đến.
3-2) Cảnh lầu xanh :
Khác với bức vẽ giàu chất lãng mạn
thông thoáng của cảnh du xuân, bức vẽ cảnh lầu xanh vừa có chất hiện thực vừa
giàu tính tượng trưng, điển hình hoá. Nguyễn Du không dùng nhiều đến màu
sáng, chủ yếu sử dụng những gam màu tối để tạo ra những hình khối thể hiện
sự tấp nập:
Biết bao bướm lả, ong lơi
,
(1229)
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt
đêm! (1230)
Dập dìu lá gió cành
chim,
(1231)
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng
Khanh . (1232)
“Bướm, ong, gió, chim, dập dìu,
đưa, tìm”, những hình ảnh xuất hiện dồn dập liên tiếp cùng với những hoạt
động không ngớt, bức tranh đã thể hiện đúng cái bản chất của lầu xanh : xô
bồ, tấp nập, đông đảo, hoạt động vượt qua cái ngưỡng thời gian. Dù bức vẽ
được thiết kế trong không gian có giới hạn nhưng nó vẫn gây ấn tượng mạnh bởi
những âm thanh náo động của tiếng chân người đến kẻ đi, người đưa kẻ tiễn,
tiếng nói, tiếng cười diễn ra thâu đêm suốt sáng. Lối điệp ý ”bướm, ong-gió,
chim, lả- lơi ”, cách chuyển những động từ thành những danh từ ”trận cười,
cuộc say ” đã diễn tả được sự thường xuyên nhưng rập khuôn, sáo mòn.
Mặc dù chỉ ghi lại hiện tượng
nhưng bức vẽ lại có giá trị tố cáo, lên án cái hoạt động tự do ngang nhiên
ngoài vòng pháp luật của những ổ chứa, nơi đã làm hoen ố không biết bao nhiêu
nhân cách, làm nát tan không biết bao nhiêu gia đình. Đau xót, Kiều phải thốt
lên rằng :
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
.
(1233)
Giật mình, mình lại thương mình
xót xa .(1234)
3-3)Cảnh xử kiện:
Khác với cảnh trên, cảnh xử kiện
có vẻ uy nghiêm hơn :
Đất bằng nổi sóng đùng
đùng,
(1405)
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi
tra. (1406)
Cùng nhau theo gót sai
nha,
(1407)
Song song vào trước sân hoa, lạy
quì. (1408)
Trông lên mặt sắt đen
sì,
(1409)
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng
lời: (1410)
Khi miêu tả cảnh xử kiện, Nguyễn
Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ để tập trung vào chi tiết chính – tội nhân
và bản quan, người bị xử và kẻ xử kiện.
Hai nhân vật có sự tương phản về đường nét, sắc mặt, ngôn ngữ, hành động. Đối
với người bị kiện, Nguyễn Du đặc tả những hình ảnh thể hiện sự tàn phai, tan
tác ”Đào hoen, liễu tan, gương lờ, mai gầy”, khúm núm sợ sệt, thái độ căm
lặng, chịu đựng”dám kêu, quì lạy”. Ngược lại, đối với người xử kiện, ông chú
ý đến thái độ lạnh lùng, ra oai, uy hiếp, ngôn ngữ gắt gỏng, khuôn mặt đầy vẻ
cứng rắn, cương nghị “mặt sắt đen sì”. Nguyễn Du khai thác thành công tính
chất bất hợp lý của lối xử kiện lạ lùng, ngược đời, hiếm có- sỉ vả Thúc Sinh,
đánh đập Thuý Kiều và ra lệnh cho trả về lầu xanh. Nhưng đến khi thấu hiểu sự
việc, biết được tài thơ của Thuý Kiều, thì quan xử kiện đã thay đổi thái độ,
sẵn sàng làm chủ hôn. Việc quan phủ nhân danh pháp luật thừa nhận cuộc tình
duyên của Kiều và Thúc Sinh phần nào phản ảnh quan niệm “Trai năm thê bảy
thiếp ”của xã hội xưa. Theo Nguyễn Du ”Chữ tài liền với chữ tai một vần”,
song có lẽ ông cũng không loại trừ trường hợp ngoại lệ. Nhờ tài thơ mà Thuý
Kiều không phải trở về cuộc sống ô nhục nơi lầu xanh.
3-4) Cảnh đốt nhà bắt cóc :
Cảnh đốt nhà bắt cóc chẳng khác
nào một cảnh thực đang diễn ra trước mắt người đọc. Các nhân vật gây án hành
động bất ngờ khẩn trương, gọn gàng khéo léo đúng với thao tác của những kẻ
chuyên săn người, giết mướn- Khuyển , Ưng:
Dưới hoa dậy lũ ác nhân
,
(1641)
Ầm ầm khốc quỉ, kinh thần, mọc
ra! (1642)
Đầy sân gươm tuốc sáng loà,
(1643)
Thất kinh, nàng chửa biết là làm
sao (1644)
Thuốc mê đâu đã tưới
vào,
(1645)
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì!
(1646)
Vực ngay lên ngựa tức thì
,
(1647)
Phòng đào, viện sách , bốn bề lửa
dong.(1648)
Cảnh được vẽ bằng những nét vẽ
mạnh- nhanh, nhiều nét nhọn của giáo gươm tua tủa gợi dữ dội và những âm
thanh rầm rập của tiếng chân đi. Gam màu đỏ bao trùm của bức tranh “bốn bề
lửa dong” đặc tả được cảnh khói lửa ngút trời, nhà tan cửa nát. Đối lập với sự dữ tợn, hầm hầm sát khí của bọn người đao
phủ thủ chuyên gây án là tấm thân bất động, sự đơn chiếc. Nguyễn Du đã chủ ý
vẽ hai cái thây người trong một bức tran– một hồn xiêu phách lạc, một thây vô
chủ bên sông. Với hai hình ảnh ấy Nguyễn Du đã gián tiếp tố cáo cái xã hội vô
trật tự thiếu kĩ cương nơi đó mạng sống con người chẳng được coi trọng. Pháp
luật đâu rồi ? Câu trả lời Nguyễn Du để ngỏ và phần trả lời thuộc về người
tiếp nhận.
3-5) CảnhKiều bị đánh đập:
Trong toàn bộ tác phẩm Truyện
Kiều, không ít lần Thuý Kiều bị đánh đập. Mới mua về, Tú Bà đã ra oai bằng
cách:”Phải làm cho biết phép tao! Chập bì tiên, rắp sấn vào ra
tay.”(977-978). Sau khi bị Sở Khanh lừa vào tròng, Kiều bị đánh đập dữ dội
hơn:”Hung hăng chẳng hỏi, chẳng tra. Đang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời. Thịt
da ai cũng là người, Lòng nào hồng rụng, thắm rời, chẳng đau. Hết lời
thú phục, khẩn cầu, Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa.”(1135-1140). Rồi sau đó
Kiều bị quan phủ đánh đập tra khảo”Ba cây chập lại một cành mẫu đơn...Đào
hoen quẹn má, liễu tan tác mày...Gương lờ nước thuỷ, mai gầy vóc sương.”
(1426-1428-1430). Lần này, người đánh đập lại là mẹ của Hoạn Thư :
côn, ra sức đập
vào,
(1739)
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng
kinh ! (1740)
Xót thay đào lý một
cành,
(1741)
Một phen mưa gió, tan tành một
phen! (1742)
Nếu đặt bốn bức tranh cạnh nhau,
ta sẽ thấy được tài hoạ cảnh của Nguyễn Du. Bốn bức vẽ là bốn bức tranh khác
nhau nhưng lại tiếp nối nhau, bổ sung cho nhau: hai lần Kiều bị Tú Bà đánh
đánh đập, hai lần Kiều bị bọn quan lại tra khảo, chủ chứa dùng roi da còn bọn
quan lại dùng cây và gậy, mức độ và tốc độ đánh cũng ngày càng tăng dần”ra
tay, vùi liễu dập hoa, ra sức đập vào”. Trong bốn bức vẽ, hình ảnh người bị
đánh được miêu tả đậm nhạt khác nhau. Trong lần đánh thứ nhất, Nguyễn Du
không vẽ ra vết tích ở tấm thân nàng Kiều, những vết tích được cảm nhận qua
thông tin”bằn bặt giấc tiên” (bất tỉnh), trong lần thứ hai, ông dùng những
nét vẽ tỉ mỉ giàu chất hiện thực ” Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa”.
Hai lần sau, ông dùng nhiều đến những ẩn dụ tu từ “Đào hoen, mai gầy, gương
lờ, vóc sương, mưa gió, đào lý tan tành”
Bốn lần Kiều bị đánh lại là bốn lý
do có khác nhau –Lần đầu vì Kiều bị tên họ Mã làm cho thất tiết, Tú Bà đánh
để dằn mặt; lần thứ hai Thuý Kiều bị tên Sở Khanh lừa đi trốn, Tú Bà đánh để
làm áp lực đẩy Kiều vào lầu xanh; lần thứ ba, quan phủ đánh vì cái tội ”Mượn
màu son phấn đánh lừa con đen”; và lần thứ tư là do quan niệm “Chồng chung,
chưa dễ ai chiều cho ai”, Hoạn Bà muốn bảo vệ hạnh phúc của con mình.
Ngoài những nét riêng, bốn bức
tranh cũng có những nét chung. Những hình ảnh đối lập tương phản dường như ở
bức tranh nào cũng có- đối lập giữa kẻ có tiền có quyền với thân phận con ong
cái kiến, giữa vũ lực tàn bạo và tấm thân mảnh khảnh chịu đựng. Chất nhân văn
của những trang Kiều chính là thái độ lặng lẽ dõi theo, cảm thông với từng
nỗi đau của nàng Kiều.
3-6) Cảnh Kiều hầu hạ vợ chồng
Hoạn Thư:
Đây là cảnh trớ trêu nhất. Mới hôm
nào Kiều cùng Thúc Sinh chung chăn chung gối, tâm sự tỉ tê thì giờ đây Kiều
trở thành “phận con hầu, giữ con hầu dám sai“, sớm khuya hầu hạ, dâng rượu :
Vợ chồng chén tạc, chén
thù, (1835)
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
(1836)
Bắt khoan, bắt nhặt, đến
lời, (1837)
Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay .
(1837)
Cảnh có ba nhân vật, Thúc Sinh
như một kẻ mất hồn luốn cuốn luýnh quýnh, Hoạn Thư -người chủ tiệc ra
oai sai khiến, Thuý Kiều –cam chịu. Ba nhân vật với những nét vẽ- kẻ ngồi
người đứng, kẻ uống người hầu, kẻ sai người thực hiện. Yêu cầu và hành động
diễn ra liên tục và rất khớp nhau. Khác với Hoạn Thư và Thúc Sinh, nhân vật
Kiều được Nguyễn Du dành nhiều nét vẽ - lúc đứng, lúc ngồi, lúc quỳ, lúc mời,
lúc đến gần, lúc đứng xa, nhanh cũng không được, chậm cũng không xong. Kiểu
vẽ này là kiểu vẽ nhiều tranh khác nhau có sự vận động, gần với lối vẽ dùng
cho film hoạt hoạ. Dựa vào những tiểu phẩm, ta có một bức vẽ rất chung về
hình ảnh nàng Kiều lệ thuộc, hành động chóng vánh. Chưa hả giận, Hoạn Thư còn
bắt Thuý Kiều :
Ao xanh đổi lấy cà
sa,
(1921)
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc
Tuyền. (1922)
Việc làm đó tưởng đâu là rộng
lượng nhưng thực chất là một kiểu đày đoạ tinh vi- huỷ diệt tuổi xuân. Và
chắc chắn, những gì Kiều đã trải qua sẽ là những thứ virut gặm nhấm tâm hồn.
Vì thế, cửa Thiền bất đắt dĩ sẽ là nơi chất chứa nỗi sầu thảm thương tâm:
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
(1929)
Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm
hương. (1930)
Bao nhiêu cách hành hạ là bấy
nhiêu nỗi đau- nỗi đau thể xác bị đánh đập, đày đoạ, hầu hạ cộng với nỗi đau
tinh thần bị lăng nhục xỉ vả, tất cả kết thành một chuỗi dài về nỗi đau thân
phận mà thi hào đã thốt lên “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh lại
là lời chung .”
Gieo gió ắt gặt bão, Thuý Kiều đã
cho chúng giặt bão như thế nào?
3-7) Cảnh Thuý Kiều báo ân báo
oán:
Theo triết lý nhà Phật, người đã
bước vào cửa thiền phải biết “Từ bi hỉ xả”, rộng lượng tha thứ. Nhưng theo
quan niệm truyền thống của dân gian, báo oán là lẽ đương nhiên. Những thành
ngữ như “Ân đền oán trả”, “Gieo gió gặt bão” đã ăn sâu vào tiềm thức
người dân Việt Nam từ bao đời nay. Điều đáng trọng ở Thuý Kiều là cách vận
dụng nó như thế nào cho phải đạo, hợp lẽ. Kiều đã xem việc báo ân quan trọng,
xem việc sống sao cho có nghĩa, có tình, có trước có sau, thuỷ chung, nhân
hậu là cứu cánh. Và Thuý Kiều đã lo báo ân trước khi báo oán. Để làm rõ vấn
đề này, Nguyễn Du đã bố trí số lượng câu thơ không ngang nhau- đoạn báo oán
chỉ 17 câu (từ câu 2380-2396), trong khi đoạn báo ân 27 câu (từ câu 2325-
2350).
Quan sát hai bức tranh, ta nhận
thấy rằng- ngôn ngữ luận tội, luận công của Thuý Kiều vừa có lý vừa có tình,
sắc sảo và góc cạnh; cách trả ơn hậu hỉ còn cách báo oán đích đáng nhưng
không tàn bạo độc ác; Kiều biết đặt chữ tình lên trên giá trị đồng tiền. Mỗi
bức tranh đều có hai màn- màn nhân vật xuất hiện và màn trả ơn trị tội. Nhân
vật trung tâm, chánh án phiên toà không ai khác là Vương Thuý Kiều.
Ấn tượng nhất trong hai bức tranh
không phải là vàng bạc châu báu quá nhiều để trả ân và những hình ảnh đầu rơi
máu chảy trong cuộc báo oán mà chính là lôgíc của nhân vật và lôgíc của câu
chuyện. Thúc Sinh vốn là kẻ nhu nhược yếu hèn. Bản chất ấy thể hiện ngay cả
trong lúc được báo ân:”Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run”. Hoạn Thư xuất
thân trong một gia đình quyền quí, con quan lại bộ, có học, khôn ngoan sắc
sảo đã tự làm luật sư bào chữa cho chính hành động phạm tội của mình. Sư Giác
Duyên, người đã thoát tục, thích làm điều lành tránh điều dữ, quen với mùi
kinh câu kệ. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi sư đón nhận phần thưởng
hậu hỉ “nghìn vàng”một cách bình thản. Có lẽ với sư niềm vui lớn nhất là thấy
Kiều đã thoát nạn”Nửa phần khíp sợ, nửa phần mừng vui”. Còn đối với Kiều, từ
lúc rơi vào cảnh đoạ đày, đây là lần đầu tiên Kiều vươn lên địa vị cao nhất.
Lời lẽ và lối xử sự đúng là “Khôn ngoan vốn sẵn tính trời”.
Dưới góc nhìn hội hoạ, hai bức vẽ
có những đường nét và sắc màu khác nhau. Khác với bức vẽ trong cảnh báo ân,
bức vẽ cảnh báo oán có nhiều nét cắt, gãy và nhiều gam màu đỏ với những cảnh
tượng:“Máu rơi, thịt nát, tan tành”.
Thơ và hoạ ranh giới rạch ròi, nhưng trong trường hợp này đọc thơ chẳng khác
nào xem một bức ảnh, một cảnh xử án thật sự đang diễn ra trước mắt mình. Đó
chính là “Thi trung hữu hoạ”, là tài năng trác việt của thi hào Nguyễn Du.
So sánh cách báo oán của Kiều
trong Truyện Kiều và cách báo oán của Kiều trong Kim-Vân-Kiều truyện, ai cũng
thấy rõ Thanh Tâm Tài Nhân dàn dựng cảnh báo oán quyết liệt dữ dội hơn
nhiều:”Bèn truyền quân tẩm dầu thông vào mình Tú Bà, đầu cắm xuống đất, chân
trớ lên trời, đốt làm cây đèn để đền thề xưa. Còn Mã Bất Tiến thì dùng găm
căng người ra, lột hết da, rút hết gân, xẻ từng tay chân để ứng lời thề của
nó.
Lại nấu một vạc dầu nhựa thông lẫn
với vỏ cây cho tan ra, một bên để một thùng nước lã, lột sạch quần áo Sở Khanh,
một người tưới nhựa thông sôi lên mình Sở Khanh, một người tưới nước lã
vào”[83, 295].
3-8) Cảnh Hồ Tôn Hiến đánh úp Từ
Hải:
Một đoạn thơ và cũng là một bức
hoạ khác hiện ra trước mắt người đọc. Bức hoạ có nhiều nét mới so với
những bức hoạ ở trên- tính chất bất ngờ và hình tượng giàu chất điêu khắc:
Hồ công ám hiệu trận
tiền,
(2513)
Ba bề phát súng, bốn bên kéo
cờ.
(2514)
Đang khi bất ý chẳng ngờ,
(2515)
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng
hèn!
(2516)
Tử sinh, liều giữa trận tiền,
(2517)
Dạn dày cho biết gan liền tướng
quân?
(2518)
Khí thiêng khi đã về thần,
(2519)
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa
vòng! (2520)
Đoạn thơ có sức gợi rất lớn. Không
miêu tả những cuộc giao tranh trước đó nhưng người đọc vẫn có thể hiểu rằng-
đội quân của Hồ Tôn Hiến không ít lần đại bại trước tài năng của Từ Hải.
Không có cách nào khác hắn phải lật lộng, nuốt lời và bất ngờ đánh lén! Nét
vẽ về người chiến thắng Hồ Tôn Hiến bị mờ đi khi nét vẽ về người anh hùng Từ
Hải xuất hiện- một mình vùng vẫy, can trường, gan dạ và hào hùng trước hàng
trăm mũi tên và hàng chục lưỡi kiếm. Việc tô đi tô lại cảnh Từ Hải vùng vẫy
và cảnh “nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng”, Nguyễn Du như muốn nói lên
niềm uất ức nghẹn nghào, khát vọng tự do và công lý chưa thực hiện trọn vẹn
của người anh hùng Từ Hải.
3-9)Cảnh Thuý Kiều hầu rượu Hồ Tôn
Hiến:
Cũng là cảnh hầu rượu nhưng cảnh
Thuý Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến (từ câu 2565 đến câu 2698) khác với cảnh Thuý
Kiều hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư. Không nhỏ nhặt tủn mủn đầy chất đàn bà,
không bắt bẻ một cách nghiệt ngã như Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến chỉ:
Bắt nàng thị yến dưới màn,
(2567)
Giở say, lại ép cung đàn nhặt tâu.
(2568)
Trong một hoàn cảnh đầy bi kịch,
nỗi đau của Kiều như tăng lên gấp bội phần. Nếu trước kia Kiều phải hầu rượu
cho người mới hôm nào là hôn phu và cả vị hôn thê của hắn thì trong bữa rượu
hôm nay Kiều phải phục vụ cho chính người đã giết chồng mình.
Cũng không giống như cảnh náo động
với tiếng gươm khua, tiếng gầm thét nơi chiến trường trước đó, cảnh hầu rượu
diễn ra nơi hậu trường yên tĩnh âm thầm chỉ có hai nhân vật. Nhân vật Hồ Tôn
Hiến hiện lên với nhiều trạng thái dáng vẻ khác nhau: lúc tỉnh táo, lúc say
vì men rượu, lúc say men tình, lúc thì say nhè và cuối cùng là sực tỉnh.
Trong năm dáng vẻ ứng với ba yêu cầu mang tính bắt buộc-“bắt nàng thị yến
dưới màn”,”Giở say, lại ép cung đàn nhặt tâu”, ”Ép tình mới gán cho người thổ
quan” thì dáng vẻ khi Hồ Tôn Hiến say men rượu lẫn say men tình”mặt sắt, đắm,
say, ngây” chất hoạ thể hiện đậm và rõ nhất. Đây là sự biến thái quá đột
ngột, khó lường đã hiện ra trên khuôn mặt của một ông tổng đốc trọng thần vừa
bất tài, vừa háo sắc, vừa thiếu tư cách. Đối với Thuý Kiều, Nguyễn Du lại
miêu tả bức tranh tâm cảnh, nỗi đau đến quặn lòng thông qua tiếng đàn, lời
bộc bạch, và cả những ngón đàn rỏ máu.
3-10)Cảnh sum họp gia đình :
Cảnh sum họp gia đình tạo nên một
kết cấu đầu cuối cân xứng, một kết cấu có hậu.
Trông xem đủ mặt mọi nhà
:
(3009)
Xuân già còn khoẻ, huyên già còn
tươi; (3010)
Hai em phương trưởng hoà
hai,
(3011)
Nọ chàng Kim đó, là người ngày
xưa! (3012)
Tưởng bây giờ, là bao
giờ,
(3013)
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm
bao! (3014)
Giọt châu thánh thót quẹn
bào,
(3015)
Mừng mừng, tủi tủi, xiết bao sự
tình! (3016)
Cảnh được vẽ bằng rất nhiều nét
bút với nhiều nhân vật theo một trình tự- chung đến riêng, lớn đến nhỏ, người
thân đến người tình và được sắp xếp trong một bố cục cân đối, hợp lý. Mỗi nhân vật lại là một cách thể hiện- phúc hậu khoẻ
mạnh, đau đớn( cha mẹ), trưởng thành(hai em), buồn vui pha trộn (Kim Trọng),
xót xa cay đắng ngậm ngùi đan xen với niềm hạnh phúc vô bờ, niềm vui vô hạn
(Thuý Kiều). Mặc dù đoạn thơ giàu chất trần thuật nhưng vẫn có một vài tố
chất của ngôn ngữ hội hoạ. Đó là những nét khắc hoạ về cử chỉ của người mẹ
“gieo đầu dưới gối, khóc than kể lể”, những giọt nước mắt lả chả làm hoan ố
vạt áo dài của cô Kiều. Nhà thơ còn tạo ra một không khí trầm lắng để ghi âm
từng giọt nước mắt “thánh thót”. Cảnh đoàn tụ thật cảm động và dường như niềm
vui sướng đã làm cho đường biên giữa hiện thực và giấc mơ ở nhân vật Thuý
Kiều đã bị xoá nhoà.
4) Chất hoạ thể hiện qua bức tranh
tùng:
Trong tác phẩm Truyện Kiều chỉ có
một lần duy nhất thi hào thi hào dùng ngôn ngữ văn học để tả lại một bức hoạ
đích thực do chính tay Kim Trọng vẽ và Thuý Kiều đề thơ. Vì thế chất hoạ càng
trở nên đậm đặc:
Trên yên, bút giá thi
đồng,
(397)
Đạm thanh một bức tranh tùng treo
trên. (398)
Phong sương được vẻ thiên
nhiên, (399)
Mặn khen nét bút, càng nhìn càng
tươi. (400)
Sinh rằng :“phác hoạ vừa
rồi,
(401)
Phẩm đề, xin một vài lời thêm
hoa.” (402)
Bằng hai câu thơ ba hình ảnh:gió-
sương -tùng, Nguyễn Du đã tả được một bức tranh thuỷ mặc do chính tay Kim
Trọng vẽ. Bức tranh rất sinh động được thiết kế trong một bố cục thông
thoáng. Nhìn từ góc độ thẩm mỹ cây tùng là một loài cây đẹp, khoẻ khoắn,
vững chải. Cây tùng càng trở nên giàu ý nghĩa và ấn tượng hơn khi nó được đặt
trong bối cảnh có những đường nét vận động của gió và bức phông làm nền mờ ảo
của sương. Kim Trọng khá thận trọng và cân nhắc khi phối màu. Xanh nhạt-
vàng phai nằm trong nhóm màu dịu nhẹ, “Vàng và lơ: hai màu này cho cảm giác
xa hơn đỏ nhưng cũng tương phản mạnh. Sự dịu nhẹ do cảm giác tâm lý và do giá
trị màu gây nên” [50,85]. Sắc màu”nhạt, phai” còn tạo được ấn tượng phong
trần, gió sương. Nhờ lối phối màu này bức vẽ trở nên tự nhiên, giản dị nhưng
vẫn hàm súc. Trong nghệ thuật tự nhiên đồng nghĩa với điêu luyện.
Giá trị ý nghĩa của bức tranh vượt
ra ngoài những nét vẽ, sắc màu vốn có vì”Mặn khen nét bút, càng nhìn càng
tươi”. Cái tươi đó chính là cái thần của bức tranh và chỉ xuất hiện dưới ngòi
bút của những thiên tài hội hoạ. Cái tươi đó còn là cái tươi của tâm hồn
người xem tranh và người vẽ tranh gởi gắm. Dường như có sự đồng nhất về quan
niệm thẩm mỹ và thị giác thẩm mỹ giữa chàng Kim và cô Kiều.
Khi nói đến nhạc, Nguyễn Du dùng
đến ngôn ngữ âm nhạc nhưng khi nói đến hoạ, ông lại dùng đến ngôn ngữ
của hội hoạ. “Sắc thái đạm thanh vốn là đặc điểm chung của những bức tranh
tranh thuỷ mặc, tranh quốc hoạ, tranh thuốc nước cổ, hơn nữa nó còn là thị
hiếu chung cái gout của nghệ thuật phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam”
[23,163].
Có chăng cây tùng trong bức tranh
chính là bóng hình của Kim Trọng, một chỗ dựa đáng tin cậy mà bức thông điệp
muốn gởi đến nàng Kiều? Trong thơ văn cây tùng tượng trưng cho người quân tử
có khí phách, hiên ngang vững vàng trươc mọi thử thách của cuộc đời. Nguyễn
Trãi cũng đã từng bộc bạch khí phách của mình trong bài thơ “Tùng”(Thu đến
cây nào chẳng lạ lùng. Một mình lạt thuở ba đông. Lâm tuyền ai rặng già làm
khách, Tài đống lương cao ắt cả dùng …..). Cũng với ý nghĩa ấy, Nguyễn Công
Trứ có bài thơ “Vịnh mùa đông” (.…Bốn mùa ví những xuân đi cả. Góc núi ai hay
sức lão tùng) .
Bức hoạ ngoài việc giúp ta hiểu
được tài năng hội hoạ của chàng Kim, tài thơ của Thuý Kiều mà còn hiểu được
quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Du. Thi hào không thích những gì loè
loẹt, phô trương, ồn ào chỉ thích những gì nhẹ nhàng kín đáo trầm lắng nhưng
sâu sắc. Cũng là bức hoạ, nhưng bức hoạ trong Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân đơn sơ hơn rất nhiều: “Bức vẽ này màu xanh nhạt vàng phai,
nét bút rất khéo mà sao không đề vịnh?”[83,63]
Tính chất “Thi trung hữu hoạ”
trong tác phẩm Truyện Kiều rất nhiều nhưng không có nghĩa là đoạn thơ nào
cũng có. Những đoạn thơ giàu chất tự sự, đối thoại, trần thuật sự việc
hầu như không có. Có chăng chỉ là một vài nét ở một hai câu thơ. Những
đoạn thơ tả chân dung nhân vật, tả phong cảnh, chất hoạ gần như đậm đặc còn
những đoạn tả cảnh sinh hoạt chất hoạ lúc đậm lúc nhạt.
Nếu lấy đường nét làm điểm tựa, ta
nhận thấy rằng những bức tranh tả cảnh ngụ tình thường có đường nét mềm
mại thông thoáng hơn so với những bức tranh tả cảnh Kiều bị đày đoạ, cảnh xử
án… Nếu lấy sắc màu làm cơ sở so sánh, ta lại thấy những bức tranh tả
phong cảnh thường nặng màu sắc nhẹ đường nét, ngược lại những bức tranh tả
cảnh sinh hoạt thường nhẹ màu sắc nặng về đường nét.
Nếu trong thơ Đường gam màu nhạt
và nhẹ đã trở thành thông dụng (Tĩnh dạ tứ, Vọng Lư Sơn bộc bố, Hoàng Hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng-Lý Bạch, chùm thơ Tuyệt cú – Đỗ Phủ....)
thì trong Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII- XIX màu sắc đậm và rõ lại là sắc
màu chủ lực. Nguyễn Du không ít lần dùng sắc đỏ, sắc vàng đậm đặc khi tả
rừng phong, vầng trăng, hoa lựu. Đặng Trần Côn khi viết “Chinh phụ
ngâm”, cũng đã sử dụng tối đa những gam màu đậm “xanh thăm thẳm” của nền
trời, “xanh ngắt” của ngàn dâu, xanh đậm của rêu, màu đỏ như ráng pha của
áo.... Trong thơ Hồ Xuân Hương, sắc màu còn đậm hơn: xanh rì, đỏ lòm lom,
trắng phau phau, đỏ lét, quần hồng...
“Nguyễn Du không chỉ là thi hào,
nhà văn, nhà hoạ sĩ mà còn là nhà triết học và nhà ngôn ngữ học nữa.”(Mrs
Heather- người Mỹ, thạc sĩ văn hoá phương Đông -trích lời giới thiệu đĩa nhạc
CD Kiều ca)(Song of Kiều). Vốn hiểu biết về hội hoạ của Nguyễn Du rất đáng
cảm phục. Ông không chỉ sử dụng chính xác phù hợp ngôn ngữ về sắc màu,
những kiểu đường nét mà còn sử dụng nhiều loại hình hội hoạ- hoạ điêu khắc,
hoạ chân dung, hoạ cảnh, hoạt hoạ, vẽ nhiều dạng tranh-hiện thực, ấn tượng.
III)KẾT LUẬN:
+Thi hào Nguyễn Du đã tổng hợp và
vận dụng rất nhiều dạng ngôn ngữ - ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân, ngôn
ngữ thuần Việt, ngôn ngữ Hán Việt, ngôn ngữ giàu chất tạo hình... Tất cả đều
được sử dụng đạt đến trình độ uyên thâm. Nhờ thế, ông đã tạo ra những điển
hình hoá bất hủ về đủ kiểu nhân vật: Tài sắc như Thuý Kiều, phong nhã như
Kim Trọng, anh hùng như Từ Hải, từ tâm tốt bụng như Giác Duyên, lão luyện như
Tú Bà, con buôn như họ Mã, tráo trở như Sở Khanh, gian manh như Hồ tôn Hiến,
ghen tuông độc địa như Hoạn Thư, tàn ác vô lại như bọn sai nha….Mỗi kiểu nhân
vật là một tính cách, một bức hoạ có một không hai. Nó đã trở thành những qui
ước của xã hội, là thước đo về nhân cách vẻ đẹp tài năng, sự thấp hèn...
+Những bức hoạ phong cảnh hay
những bức hoạ về cảnh sinh hoạt rất đa dạng về màu sắc - trong đó gam màu
xanh và gam màu vàng là gam màu chủ lực, phong phú về đường nét, biến
hoá trong cách dàn dựng. Dù là những bức tranh của đời sống thực nhưng khi
nó được nhào nặn tái tạo thông qua cảm quan của nhà thơ, ngòi bút bậc thầy,
nó đã trở nên sống động có hồn, chứa chất tâm trạng. Có những bức hoạ đã trở
thành tuyệt tác có một không hai trong nền văn học trung đại nói riêng và văn
học dân tộc nói chung ‘’Long lanh đáy nước in trời, Dưới cầu nước chảy trong
veo, Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Cỏ non xanh rợn chân trời…. ‘’.
Với những tri thức phong phú về
nhiều lãnh vực- thi, nhạc, hoạ, triết, ngôn ngữ...., Nguyễn Du đã để thể hiện
nhiều vấn đề của cuộc sống trên nhiều bình diện trong một kiệt tác chỉ với
3254 câu thơ lục bát. Nguyễn Du xứng danh với tên gọi ‘’đại thi hào’’, một
huyền thoại có một không hai.
-Về nhạc và hoạ trong cảm
hứng của người đời sau :
+ Về mặt này có thể nói thi hào
Nguyễn Du là thiên tài ‘’mẹ’’. Truyện Kiều đã trở thành nguồn cảm hứng của
nhiều nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực như thơ ca, nhạc, hoạ, ca kịch cải
lương, tuồng, chèo... Nó đã trở thành một thứ văn hoá Kiều không thể
thiếu được đối với người Việt Nam. Cảm hứng sáng tác bằng nhiều hình thức
nghệ thuật dù khác nhau nhưng lại cùng một mục đích - phổ cập Truyện Kiều,
tạo ra những món ăn tinh thần mới phục vụ cho từng giới thưởng thức nghệ
thuật. Nhưng tác động lớn nhất của những nhạc phẩm về Kiều không ai có thể
phủ nhận được là « bằng những âm thanh có tổ chức, thông qua thính giác
mà nó tác động đến tư tưởng và tình cảm của con người »(Chữ dùng của
nhạc sĩ Phạm Tuyên), giúp chúng ta hiểu và cảm sâu hơn về số phận bi thảm của
những người tài sắc.
« Có thể nói trong văn học cổ
điển Việt Nam, không có một tác phẩm nào ảnh hưởng đến sự sáng tác to lớn như
Truyện Kiều, và ngược lại cũng không có một thi sĩ nào có thể sánh với Nguyễn
Du trong việc tiếp thu cái phần tinh tế ý nhị mà hàm súc sâu xa của ca dao
như Nguyễn Du »[35, 54]. Hơn hai thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày tác phẩm
Truyện Kiều ra đời, vậy mà ngày nay nó vẫn còn là niềm cảm hứng nóng hổi cho
nhiều nghệ sĩ.
Thơ chấp cánh cho hoạ, khơi nguồn
cho nhạc. Nhạc làm tăng thêm độ truyền cảm cho thơ, tăng độ rung trong tâm
hồn người đọc. Còn hoạ lại biến những hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ thành cái
đẹp hiện hữu. Thơ- nhạc- hoạ tôn vẻ đẹp cho nhau, có mối quan hệ khó tách rời
khi chúng lại tồn tại trong một chỉnh thể Truyện Kiều.
TRẦN
ĐÌNH KHIÊM
________________ Thư mục tham khảo
1. Aristote–Nghệ thuật
thi ca- Lưu Hiệp- Văn tâm Điêu long- Nhà xuất bản văn
học,1999
2. Bùi Minh Toán- Lê A – Đỗ
Việt Hùng –Tiếng Việt Thực hành – Nhà xuất bản giáo dục,
2001
3.Bùi Tất Tơm (chủ Biên )- Giáo
trình tiếng Việt- Nhà xuất bản giáo dục, 1995
4.Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức-
Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại - Nhà xuất bản khoa học xã
hội, 1968
5.Cao Thuý, Ai Bích, Nguyễn Thị
Hạnh, Nguyễn Xuân Mộc, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Thị Bạch Nhạn- Vài nhận
xét sơ bộ về một số câu có ngắt quảng không bình thường trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du- Tạp chí ngôn ngữ số 1, 1982
6.Dương Quảng Hàm – Việt Nam văn học sử yếu – Nhà xuất bản hội nhà
văn, 2002.
7.Đan Phú – Ca vũ nhạc
kịch về Kiều.
8.Đào Duy Anh -Khảo luận
về Truyện Kiều- Nhà xuất bản văn hoá , H, 1958
9.Đào Thản –Đi tìm một
vài ngôn ngữ trong Truyện Kiều-tạp chí văn học số 1-1966.
10.Đặng Thanh Lê - Giảng
văn Truyện Kiều - Nhà xuất bản giáo dục, 2001
11.Đặng Ngọc Trân – Cấu
trúc hội hoạ - Nhà xuất bản mỹ thuật , 2001
12.Đoàn Thiện Thuật- Ngữ
âm tiếng Việt - Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1999
13.Hà Minh Đức (chủ biên )-
Lý luận và văn học- Nhà xuất bản giáo dục, 1998
14.Hà Như Chi - Việt Nam
thi văn giảng luận – Nhà xuất bản sống mới, 1970
15.Hoàng Trinh -Văn học
so sánh và tiếp nhận văn học- Tạp chí văn học số 4-1980
16.Hoàng Như Mai-Bức tranh ngày
xuân –Giáo dục sáng tạo, xuân Đinh Sửu, 1997.
17.Huỳnh Vân- Quan hệ
văn học- Hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ. Văn
học và hiện thực- Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1990.
18.Khâu Chấn Thanh- Lý
luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc- Nhà xuất bản giáo dục,
Hà Nội,1994
19.Lâm Vinh–Mỹ học về
cái đẹp-về nghệ thuật-về con người- Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh,1997
20.Lê Bá Hán, Trần Đình Sử-
Nguyễn Khắc Phi ( Chủ biên )- Thuật ngữ tự điển văn học - Nhà xuất
bản giáo dục, 1992.
21.Lê Bảo, Hà Minh Đức, Đỗ Kim
Hồi….Giảng văn Văn học Việt nam- Nhà xuất bản giáo dục, 2001
22.Lê Hữu Mục-Pham Thị
Nhung-Đặng Quốc Cơ- Truyện Kiều và tuổi trẻ- Nhà xuất bản Pari,
1998
23.Lê Ngọc Trà -Lý luận
và văn học- Nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ chí Minh, 1990.
24.Lê Thu Yến – Nhà văn
trong nhà trường - Nhà xuất bản giáo dục, 2002
25.Lê Thu Yến( Chủ biên )-Văn
học trung đại những công trình nghiên cứu - Nhà xuất bản giáo dục, 2002
26.Lê Thu Yến - Nguyễn
Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau- Nhà xuất bản giáo
dục, 2001
27.Lê Trí Viễn - Phan Côn -
Đặng Thanh Lê- Phạm Văn Luận- Lê Hoài Nam - Lịch sử văn học Việt Nam tập 3
- Nhà xuất bản giáo dục, 1976.
28.Lê Trí Viễn- Qui luật
phát triển lịch sử văn học Việt Nam- Nhà xuất bản giáo dục,1998.
29.Lê Trí Viễn- Đặc trưng văn
học trung đại - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1996.
30.Lê Xuân Lít- Tìm hiểu
từ ngữ Truyện Kiều- Nhà xuất bản Đại học quốc gia, 2001
31.Lưu Trọng Lư - Nhật
Ký đọc Kiều - Nhà xuất bản hội nhà văn-H,1995.
32. M-Gorky- Bàn về văn
học- Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 1965
33.Mai Hoa- Tranh (Trích
từ Truyện Kiều- Nhà xuất bản văn hoá thông tin Hà Nội, 1999)
34.Mai Quốc Liên – Tạp
luận –Nhà xuất bản văn học trung tâm nghiên cứu quốc học,1999
35.Mai Quốc Liên- Dòng
văn học bác học và dòng văn học bình dân-Tạp chí văn học số 6-1966.
36.M.B.Khraptrenkô - Sáng
tạo nghệ thuật, hiện thực con người - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà
Nội, 1984.
37.Nhất Hạnh -Kiều và
văn nghệ đứt ruột- Nhà xuất bản Lá Bối.
38.Nhất Hạnh – Thả một
bè lau – Nhà xuất bản Lá Bối.
39.Nhiều tác giả- Từ
trong di sản – Nhà xuất bản tác phẩm mới,1981.
40.N-Khasenco- Bản chất
cái đẹp - Nhà xuất bản thanh niên,19
41.Nguyễn Anh Vinh –Hoạ sĩ-
tốt nghiệp đại học Mỹ thuật Hà Nội- cựu chủ tịch Hội mỹ thuật Khánh Hoà (Tham
khảo ý kiến)
42.Nguyễn Du- Tác gia và
tác phẩm- Nhà xuất bản giáo dục năm, 1999.
43. Nguyễn Du -Truyện
Kiều -Nhà xuất bản văn hoá thông tin Hà Nội, 1999; Nhà xuất bản Đà Nẵng,
19 ; nhà xuất bản Đồng Nai, 2001
44.Nguyễn Đăng Thục – Thế
giới thi ca Nguyễn Du- Kinh thi, S, xb, 1971.
45.Nguyễn Đăng Cư- Kiều
vận tập thành -Trung quân thư quán, Huế,1932.
46. Nguyễn Đăng Mạnh- Trần Đăng
Xuyền - Những bài văn hay và khó - Nhà xuất bản giáo dục, 1995
47.Nguyễn Gia Thiều-Cung
oán ngâm khúc-Sách giáo khoa tân việt –in lần thứ tư.
48.Nguyễn Lai - Ngôn ngữ
với sáng tạo tiếp nhận văn học- Nhà xuất bản giáo duc, 1998.
49.Nguyễn Lộc–Văn học
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- hết thế kỷ XIX- Nhà xuất bản giáo dục,
1999
50.Nguyễn Quân- Tiếng
nói của hình và sắc- Nhà xuất bản văn hoá, 1986
51.Nguyễn Quảng Tuân- Mấy
nhận xét về tranh vẽ minh hoạ truyện Kiều - Mỹ thuật thời nay- số 17
tháng 1-1992.
52.Nguyễn Quảng Tuân- Chữ
nghĩa Truyện Kiều- Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1990.
53.Nguyễn Quốc Phẩm -Ảnh
54.Nguyễn Thị Hợp- tranh
(Trích từ Kim Vân Kiều- Nhà sách khai trí Sài Gòn,1968)
55.Nguyễn Trí Tích- Viết
về Nguyễn Du và Truyện Kiều- Nhà xuất bản Thanh niên, 2001.
56.Nguyễn Văn Dân - Lý luận
văn học so sánh - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà nội, 1998.
57.Nguyễn Văn Hạnh- Huỳnh Như
Phương - Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ- Nhà xuất bản giáo
dục,1999
58.Nguyễn Văn Hạnh –Ý
kiến của Lê nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống – Tạp chí văn
học, số 4 – 1971
59.Nguyễn Văn Hạnh- Một
số điểm cần nói rõ thêm về mối quan hệ giữa văn học và đời sống- Tạp chí
văn học số 6- 1992.
60.Nguyễn Văn Hoàn –Thể
lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều-Tạp chí văn học số 1, 1974
61.Phan Công Khanh – Lịch
sử tiếp nhận Truyện Kiều - Luận văn tiến sĩ.
62.Phan Kế Bính -Việt
hán văn khảo– Nhà xuất bản Mặc Lâm-tháng giêng, năm M CM LXX.
63.Phan Ngọc –Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều- Nhà xuất bản khoa học xã hội,
1985
64.Phạm Cung -Tranh
(Trích từ Histoire de Thuý Kiều-bản dịch tiếng Pháp Lưu Hoài-Nhà xuất bản văn
hoá, 19 )
65.Phạm Duy - Đĩa nhạc
CD Kiều ca.
66.Phạm Huy Thục -Đạo diễn,
Giảng viên trường sân khấu điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh-(Tham khảo ý kiến)
67.Phạm Tú Hương –Lý
thuyết âm nhạc cơ bản –Nhà xuất bản giáo dục, 1999
68.Phạm Thu Thương – Tranh
- Trích từ Truyện Kiều- nhà xuất bản Pari, 1951
69.Phạm Đan Quế – Lục
bát hậu Truyện Kiều- Nhà xuất bản thanh niên, 2002
70.Phạm Đan Quế- Tập
Kiều một thú chơi tao nhã- Nhà xuất bản văn hoá, 1994
71.Phạm Đan Quế -Về
những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều-Nhà xuất bản giáo
dục, 2002
72.Phương Lựu -Về quan
niệm văn chương cổ Việt Nam - Nhà xuất bản giáo dục, 1985
73.R- Jakobson- Thi pháp
học – tài liệu tham khảo, 1994
74. Tạp chí Sân khấu- Hội
nghệ thuật sân khấu Việt Nam- Số 11, 2002
75.Trịnh Bá Dĩnh với sự
cộng tác của Nguyễn Bá Sơn, Vũ Thanh –Nguyễn Du tác gia và tác phẩm
–Nhà xuất bản giáo dục, 1999.
76.Trịnh Bá Dĩnh tuyển
chọn- Bình giải Truyện Kiều - Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 2000
77.Triêu Dương –Tìm hiểu
và suy nghĩ – Nhà xuất bản tác phẩm mới, 1982
78.Trương Vĩnh Ký- Minh
tâm bửu giám – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ chí Minh,
1991.
79.Song Yên- Tranh(Trích
từ Viết về Truyện Kiều của Nguyễn Trí Tích,Nhà xuất bản Thanh niên,2001)
80.Trần Kim Lý Thái Thuận –
tranh Trương Quân–Truyện Kiều bằng tranh –Nhà xuất bản văn hoá dân
tộc, 2000.
81.Trần Thanh Đạm –Dẫn
luận văn học so sánh –Tủ sách đại học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh,
1995
82.Thanh Lãng- Nguyễn Du
như là một huyền thoại - Nghiên cứu Văn học –Số 6, 1971.
83.Thanh Tâm Tài Nhân - Kim
Vân Kiều truyện - Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 1999.
84.Trương Chính – Thơ
văn Nguyễn công Trứ –Nhà xuất bản văn học, 1983
85.Trương Thìn - Kiều ca
một xe trong cõi hồng trần - Nhà xuất bản văn nghệ thành phố Hồ chí Minh,
1997.(Tham khảo ý kiến)
86.Trương Thìn- tranh
Kiều (Trích từ Kiều ca –Một xe trong cõi hồng trần- Nhà xuất bản văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh,1997)
87.Trần Đình Sử –Mấy vấn
đề về thi pháp văn học trung đại- Nhà xuất bản giáo dục,1999
88.Trần Đình Sử- Thi
pháp thơ Tố Hữu- Nhà xuất bản mới, Hội nhà văn Việt Nam, 1987
89.Trần Phương Hồ – Điển
tích trong Truyện Kiều - Nhà xuất bản Đồng Nai, 1996
90.Tú Duyên – tranh-
trích từ Truyện Kiều và tuổi trẻ- Nhà xuất bản pari,1998
91.Từ Điển Tiếng Việt-
Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, 1992.
92.Xuân Diệu- Toàn tập
(tập VI ) - Nhà xuất bản Văn học, 2001
93.Vũ Cao Đàm -Tranh
–Trích từ quyển Kim Vân Kiều- Nhà xuất bản Pari, 1951
94.Vũ Đình Ân- Đĩa nghạc
CD - Hợp xướng Truyện Kiều.
95.Vũ Thanh Việt- Thơ
Nguyễn Bính - Những lời bình – Nhà xuất bản văn hoá thông tin Hà Nội,1999
96.Vương Thuý Kiều - Chú
giải tân truyện- Tản Đà chú giải- Nhà xuất bản Đồng Nai, 2002.
|
Trang
▼
No comments:
Post a Comment