(Qua “Đại Nam thực lục tiền biên”)
[Tóm tắt: Cùng với tiến trình chinh phục
xuống phía Nam về mặt lãnh thổ, chính quyền chúa Nguyễn đã không ngừng khai
thông, củng cố và mở rộng tuyến đường thương mại nội địa lẫn ven bờ biển
Đông. Một cuộc chiến thương mại giữa chính quyền chúa Nguyễn với các thế lực
lái buôn khu vực và phương Tây diễn ra thực sự quyết liệt ngay từ đầu dưới
nhiều hình thức, kéo dài từ cửa Việt đến trấn Hà Tiên, trải rộng từ đất liền
ra hải đảo, mà dai dẳng nhất là các trở lực Hoa thương. Nếu như giặc Hiển
Quý, Ô Lan, Man An Liệt có tính chất nhất thời thì những loạn A Ban, Linh
Vương - Quảng Phú, Lai – Lăng, Lý Văn Quang, Hoắc Nhiên, Trần Thái... trở nên
vấn nạn cáo cấp thường trực. Lợi ích kinh tế cũng sống còn sánh bằng chính
trị, thậm chí vượt lên trên chính trị trong một giai đoạn đặc biệt của lịch
sử vương quyền Việt Nam].
Mô hình thuyền chiến trong lễ hội tái hiện
thao diễn thủy binh thời chúa Nguyễn, Festival Huế 2010
(tổ chức vào ngày 7/6/2010 tại khu vực phía
bắc bờ sông Hương,
phía trước đình Kim Long, thành phố Huế).
Trong suốt 200 năm kiến
lập và phát triển xứ Đàng Trong, chính quyền chúa Nguyễn đã định hướng cho
mình đường lối hướng biển theo gương vương quốc Champa, đồng thời phát huy
phương thức khai thác và quản lý nông nghiệp với một tư duy thực sự khai mở.
Nhờ vậy, Đàng Trong đã bứt phá vượt lên, không những đủ sức đương đầu với
Đàng Ngoài của họ Trịnh mà còn đẩy nhanh tiến trình chinh phục xuống phía Nam
trong xu thế mở rộng ảnh hưởng ra ngoài của thế giới và khu vực. Trong một
giới hạn nào đó, chính quyền chúa Nguyễn đã theo kịp thời đại và hội nhập
thành công.
Để giành lấy thế mạnh
thương trường, chính quyền chúa Nguyễn đã liên tục dẹp bỏ các trở lực thương
mại trong phạm vi quốc gia lẫn khu vực, quốc tế. Tiến trình này di chuyển
theo hướng từ Bắc xuống Nam cùng với cuộc chiến tranh xác lập chính thể, mở
rộng đất đai của vương triều họ Nguyễn từ lúc Nguyễn Hoàng đặt chân lên đất
Thuận Quảng đến trước nội chiến thời Tây Sơn.
Vụ Hiển Quý tặc tại cửa Việt (1585).
“Ất Dậu... bấy giờ có
tướng giặc nước Tây Dương hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên hiệu của bọn tù
trưởng Phiên, không phải tên người) đi 5 chiếc thuyền lớn, đến đậu ở cửa Việt
để cướp bóc ven biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn 10 chiến thuyền,
tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan 2 chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy (...)
Từ đó giặc biển im hơi” [1].
Theo quan sát của GS.
Shigeru Ikuta, mặc dù năm 1565 nhà Minh đã phải bãi bỏ lệnh hải cấm, song lại
“không cho phép các tàu Nhật được đến cảng của mình. Do đó việc buôn bán được
tiến hành bởi người Bồ Đào Nha hoặc bởi những kẻ giang hồ ngoài khơi”, “bao
gồm dân đi biển đủ mọi nguồn gốc và thường được gọi là hải tặc Nhật, những kẻ
trú ngụ trên những hòn đảo ngoài biển Đông Trung Hoa” [2]. Do vậy, tuy mang
tiếng “hải tặc”, phần lớn họ là những đội thương thuyền đóng vai trò buôn bán
trung gian giữa Nhật với Trung Hoa trong vùng biển Đông Nam Á. Nhưng đó là
người Bồ Đào Nha, tức Tây Dương hay người Nhật?
TS. Li Tana khẳng định
bất ngờ: tên cướp biển Shirahama Kenki, người Nhật đầu tiên được nhắc đến
trong Tiền Biên đã bị lầm là người
phương Tây thì lạ lùng thay, 16 năm sau, cái tên Hiển Quý lại xuất hiện trong
một bức thư Nguyễn Hoàng gửi cho vị tướng quân Tokugawa thứ nhất, Ieyasu, vào
năm 1601. Bức thư giải thích rằng do không biết Hiển Quý là một thương gia
của chính quyền Tokugawa phái tới nên quan quân đã đánh đắm thuyền ở cảng
Thuận An, nay cho hộ tống về nước. Trong thư phúc đáp, Tokugawa nói rõ Hiển
Quý không phải là đặc phái viên của ông ta: “Những con người độc ác ấy đã
phạm tội giết người đáng bị dân tộc quý ngài trừng phạt. Lòng quảng đại của
quý ngài đối với các thuỷ thủ ấy đáng được chúng tôi ghi lòng tạc dạ một cách
sâu sắc”, kèm thêm một thông cáo: “Trong tương lai, các tàu thuyền từ xứ
chúng tôi tới thăm xứ của Ngài phải được chứng nhận bởi con mộc đóng trên bức
thư này và tàu thuyền nào không có con mộc sẽ bị coi là bất hợp pháp” [3]. Đó
chính là chế độ Shuin Jo, thời kỳ Châu ấn thuyền nổi tiếng trong lịch sử hải
thương nước Nhật (1592-1635) mà Đàng Trong liên tục duy trì và mở rộng suốt 3
thập niên từ năm 1604 đến 1635.
Vụ Ô Lan tặc tại cửa Eo (1644).
“Bấy giờ giặc Ô Lan [Hà
Lan] đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa
[Phúc Lan] đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử [Phúc Tần] tức thì mật báo với
Chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thuỷ quân ra đánh.
Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử đốc thúc chiến
thuyền của mình tiến thẳng ra (...) Chiến thuyền trước sau lướt nhanh như
bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía Đông mà chạy, bỏ rơi lại một
chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự
đốt chết. Thế tử bèn thu quân về...” [1].
Diễn biến trên được sử
gia Lê Quý Đôn xác định xảy ra năm Quý Mùi (1643) và tóm lược: “con thứ hai
(Phúc Lan) là Phúc Tần đem thuỷ quân đánh phá được mười chiếc tàu của giặc Ô
Lan ở cửa Eo. Phúc Lan khen là dũng, bèn có ý dựng làm con nối nghiệp” [4].
Thực ra biến cố ở cửa Eo
(Thuận An) là điểm nút của một chuỗi dài các tác nhân trong quan hệ giao
thương giữa chính quyền chúa Nguyễn với Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) suốt từ
năm 1613, có sự can dự của họ Trịnh Đàng Ngoài. Các chúa Nguyễn Phúc Nguyên,
Nguyễn Phúc Lan một mặt mở cửa mời gọi thương thuyền Hà Lan từ Batavia đến
buôn bán, mặt khác tịch thu không hoàn trả hàng hoá và đại bác trục vớt từ
các tàu bị đắm của VOC. Ngược lại, VOC vừa quan hệ với Đàng Trong, vừa ngầm
giúp chính quyền Đàng Ngoài, thậm chí còn tổ chức nhiều vụ bắt giết thường
dân ven biển dọc phủ Hoài Nhơn đến Đà Nẵng làm áp lực đòi trao trả hàng hoá
và thuỷ thủ với chính quyền chúa Nguyễn [5]. Cuối cùng, VOC đã công khai đứng
về phía Đàng Ngoài chống lại Đàng Trong bằng hành động quân sự.
Đoàn chiến thuyền của Hà
Lan xuất phát từ Batavia chia làm hai cánh: cánh thứ nhất gồm 3 chiến thuyền
có tên Wakendebode, Kievit, Meerman do Isaac Davids chỉ huy thẳng hướng ra
Đàng Ngoài để đón và đi với chúa Trịnh Tráng, vua Lê cùng một binh đoàn
100.000 quân; cánh thứ hai cũng 3 tàu, có tên Wojdenes, Waterhond, Vos do
Baek chỉ huy trực chỉ hướng Thuận An. Đoàn chiến thuyền quân Nguyễn do Nguyễn
Phúc Tần chỉ huy lập tức tổ chức vây đánh đội tàu do Baet dẫn đầu, khiến
chúng hoảng loạn bỏ chạy. Trong tình thế cấp bách, đối phương đành tự phóng
lửa đốt cháy chiếc tàu tiên phong do chính Baet chỉ huy, giải vây cho hạm đội
trong tiếng súng rền vang lẫn lửa khói mù trời [6].
Tám năm sau, năm 1651 VOC
chủ động dàn hoà và được chính chúa Nguyễn Phúc Tần đứng ra ký kết thương
ước. Tuy nhiên, phải hơn một thế kỷ sau, năm 1754 các nhà buôn Hà Lan mới đặt
chân trở lại xứ Đàng Trong.
Vụ Hoàng Tiến tạo phản ở Đông Phố (1688 –
1689).
“Tháng 6, phó tướng Long
Môn Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng
là Phấn dũng hổ oai tướng quân, thống lĩnh dư chúng Long Môn, dời đồn sang
Nan Khê (nay thuộc huyện Kiến Hoà, tỉnh Định Tường), thủ hiểm đắp luỹ, đúc
đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc” [1]. Nhân đó phiên thần
Chân Lạp cũng bỏ việc triều cống, âm mưu đắp chiến luỹ cố thủ.
Mười năm về trước, năm
1679 binh tướng bại trận nhà Minh không chịu thần phục Thanh triều đã kéo vào
Đàng Trong xin nhận làm thần dân chúa Nguyễn, được phát lệnh khai khẩn xứ
Đông Phố - Đồng Nai. “Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người
Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà minh
hoá Hán [phong hoá văn minh] thấm dần khắp miền Đông Phố” [1].
Nhằm độc chiếm cả một
trung tâm thương mại sầm uất vừa mới trỗi dậy này, Hoàng Tiến đã sát hại chủ
tướng rất mực trung thành với chúa Nguyễn, xâm lấn và cướp bóc Chân Lạp, mưu
phản triều đình. Lợi ích buôn bán và kinh tế nông nghiệp khai thác trên vùng
đất mới đem lại nguồn của cải dồi dào cho chính quyền của Chúa, vì vậy trừng
phạt Chân Lạp không nạp cống chỉ là cái cớ, tiêu diệt Hoàng Tiến mới đích thị
lý do, cho dù chiếu lệnh vẫn ghi “đem quân đánh Chân Lạp. Sai Hoàng Tiến làm
tiên phong, dưới quyền tiết chế của Vạn Long” [1]. Diễn biến cuộc thảo phạt
mùa xuân năm Kỷ Tỵ (1689) cho thấy Thống binh Mai Vạn Long phải tốn nhiều
công sức lẫn cơ mưu mới đánh bại được Hoàng Tiến, còn việc trừng phạt Chân
Lạp tỏ ra kéo dài, không dứt khoát. Cho đến năm sau (1690) khi Nguyễn Hữu Hào
được cắt cử vào thay Mai Vạn Long, tình hình đôi bên vẫn dùng dằng mà nguyên
nhân viện dẫn không mấy thuyết phục là bởi sự khất hẹn của nữ sứ Chiêm Dao
Luật, cuối cùng đành buộc lui binh, chấp nhận cách chức. Phải chăng vấn đề
khai thông mạng lưới thương mại trên vùng châu thổ giàu có sản vật phương Nam
là lợi ích thiết thực hàng đầu nên tranh thủ được sự đồng tình của quan quân,
còn việc tiến sâu vào chinh phục nội địa Chân Lạp lúc này vừa chưa cần thiết
vừa oai uy quá đáng, bởi như lời của Mai Vạn Long: “họ đã hàng phục thì còn
chiến đấu làm gì?” hay lời của Nguyễn Hữu Hào: “Yên vỗ người xa, quý lễ mà
không quý vật” [1].
Vụ A Ban nổi loạn ở trấn Thuận Thành (1693
– 1694).
“Tháng 12, người Thanh A
Ban cùng với hữu trà viên là Ốc nha Thát ở Thuận Thành nổi loạn. Trước là A
Ban đến ở Thuận Thành, vốn cùng Ốc Nha Thát đi lại rất thân. Từ lúc Bà Tranh
bị bắt, hai người đều chạy về đất Đại Đồng, A Ban đổi tên là Ngô Lãng, tự
xưng mình có phép hô phong hoán vũ, gươm đao không thể làm bị thương. Người
Thuận Thành là Chế Vinh kêu họp dân Man đi theo” [1]. A Ban chiếm giữ Phố
Hài, đánh tan quân cứu viện từ Bà Rịa, khống chế Phan Rí, vây bức Phan Rang.
Nhận được sự cứu viện từ Bình Khang, quân Nguyễn phản công và truy đuổi đến
tận địa giới Chân Lạp, dẹp yên biến loạn.
Giữa Champa và Trung Hoa
xác lập quan hệ buôn bán lâu đời nên có lẽ tại khu vực mệnh danh quốc cảng
Panrik của vương quốc Champa trên vùng đất tận cùng này, Hoa thương xuất hiện
sớm hơn người Việt đồng thời tạo được mối bang giao chặt chẽ với cộng đồng
Champa hơn so với người Việt, vốn đối thủ theo cả hai nghĩa: chính trị lẫn
thương trường. Phản ứng mang tính chất sống còn thể hiện ngay từ đầu đã công
khai về một lợi ích căn bản được xác lập chắc chắn giữa thương gia và lãnh
chúa. Lãnh chúa Thát thì đứng ra tập hợp dân Chàm, có đồ đảng Chế Vinh làm
thay; lái buôn A Ban thì núp bóng làm Ngô Lãng, vừa phỉnh dụ Chàm tộc bởi
phép tắc thần thông vừa đánh lừa người Việt bằng nhân thân đã được Việt hoá,
nhân danh người Việt chống lại chính sách cai trị của quan quân Việt. Thái độ
trấn áp mạnh mẽ của quan quân Nguyễn đã làm tan vỡ liên minh giữa nhà buôn
với quý tộc, đè bẹp sự thách thức về quyền lợi của giới Hoa thương trên vùng
đất mới mở cực Nam Trung Bộ này.
Vụ Linh Vương – Quảng Phú tụ đảng tại Quảng
Ngãi – Qui Ninh (1695).
“Người lái buôn ở Quảng
Ngãi tên là Linh (không rõ họ) tụ đảng hơn 100 người, tự xưng là Linh Vương,
tạo chiến thuyền, đúc binh khí, cùng người Qui Ninh là Quảng Phú (không rõ
họ) hợp đảng, ra vào núi rừng, hoành hành cướp bóc, quan địa phương không dẹp
được, nhân dân sợ hãi chạy báo lên” [1].
Quảng Ngãi cùng với Qui
Ninh trực thuộc dinh Quảng Nam ngay từ đầu đã là đất trị quản của họ Nguyễn,
thấm nhuần pháp chế khoan dung, thuần thục lâu đời. Hầu như không có những
biến động xã hội đáng kể xảy ra ở đây cho đến tận đầu thế kỷ sau, trừ đôi lần
đột nhập của một bộ tộc vùng cao, gọi là Mọi Đá Vách nhằm cướp của, bắt
người. Nhờ vậy, cư dân yên ổn làm ăn, kinh tế phát đạt, buôn bán sầm uất,
nhất là hoạt động thương mại cảng thị ven biển, thường do thương nhân người
Hoa nắm giữ và điều tiết. Với thế lực kinh tế trong tay, bộ phận đại Hoa
thương có khuynh hướng thao túng cả tuyến đường thương mại của Đàng Trong
bằng nhiều thủ đoạn, kể cả việc cấu kết, dung nạp các băng nhóm cướp biển,
cướp núi.
Lái buôn tên Linh tuy gốc
gác không rõ ràng, như rất nhiều trường hợp mà trong Tiền biên xác định rằng “không rõ họ”, song có thể nhận diện kẻ
cầm đầu này qua danh xưng và kẻ đồng mưu. Tự xưng Linh Vương, điều này thường
thấy ở các nhóm giặc Tàu Ô, mà đây là thương gia chứ không đơn thuần tướng
cướp; hợp đảng với Quảng Phú, rõ ràng họ Quảng đích thị Tàu rồi [7]. Cả hai
chứng cứ đã xác quyết Linh Vương nguyên là một Hoa thương chính hiệu. Lợi
dụng tình hình bất ổn cũng như sự dồn sức đối phó của chính quyền chúa Nguyễn
ở hai đầu vương quốc, loạn A Ban tại phủ Bình Thuận phía Nam (cuối 1693 - đầu
1694) và loạn cung đình Huệ - Thông ngay tại Chính Dinh phía Bắc (1694), Linh
Vương lập tức hành động. Giả hoặc cũng có thể cả ba thế lực tạo phản này cùng
liên kết và hậu thuẫn cho nhau, nhưng do kế hoạch bất nhất nên hành động
không đồng loạt? Dù âm mưu thế nào, chính quyền chúa Nguyễn cũng đã mạnh tay
trừ khử: “Chúa sai dinh Quảng Nam hợp với hai phủ Quảng Ngãi, Qui Ninh đem
quân đi đánh. Khi các đạo quân xông tới sơn trại thì Linh đã chết. Quảng Phú
cả sợ, trốn vào Phú Yên, dân Man bắt đem nộp. Chúa sai giết cùng với đồ đảng
20 người, và hậu thưởng dân Man” [1]. Lệnh trực tiếp từ Minh Vương, có sự
tiếp sức của người Thượng dọc dài trên một vùng rừng núi rộng lớn phía Tây,
chứng tỏ tính chất khẩn trương lẫn nguy hiểm của vấn đề.
Vụ Man An Liệt chiếm cứ đảo Côn Lôn (1702 –
1703).
“Giặc biển là người Man
An Liệt [Anh, English] có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn
Tô Thích Già Thi 5 người (...) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách,
của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác” [1].
Côn Đảo thuộc chủ quyền
chúa Nguyễn nằm ngoài khơi biển Đông, án ngự trên tuyến đường thương mại Ấn
Độ - Trung Hoa nên là điểm dừng chân lý tưởng của các hạm thuyền quốc tế
ngang qua khu vực. Công ty Đông Ấn của chính phủ Anh (EIC) âm mưu thiết lập
một trạm trung chuyển nhằm tập kết và phát tán hàng hoá hoặc giao nhận mệnh
lệnh. Sự kiện trên nằm trong một nổ lực lớn của người Anh nhằm vào mục đích
đó, song họ đã bị thất bại: “trấn thủ Trấn Biên Trương Phúc Phan mộ 15 người
Chà Và sai làm kế trá hàng đảng An Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An
Liệt không biết. Ở Côn Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy
làm đắc chí. Người Chà Và nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban nhị
ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn tam ban tứ ban thì theo đường biển trốn
đi. Phúc Phan nghe tin báo, tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải
bắt được dâng nộp...” [1].
Tuy nhiên, cách giải
thích của các tài liệu lại không trùng khớp nhau, thậm chí còn mâu thuẫn về
nguyên nhân và thời điểm biến cố xảy ra. Phía người Anh cho biết Allan
Catchpole, giám đốc thương điếm của công ty Đông Ấn Anh, có mang theo “một số
người Maccassar [Mã Lai] được dùng làm lính và giúp dựng một công sự và đã ký
với họ một hợp đồng ba năm”, và vì một lý do nào đó, ông này vào phút cuối đã
không thực hiện hợp đồng, do đó những người Mã Lai “đầy căm thù và độc ác” đã
giết gần hết số người Anh vào năm 1705; nhưng theo một văn bản khác, Nhật ký của công ty Đông Ấn buôn bán với
Trung Hoa (1635 – 1834) thì một chiếc tàu tên là Catherine của công ty
Anh tới Côn Đảo ngày 5.7.1704, giám đốc vẫn là Allan Catchpole mà vào thời
điểm cuối tháng 7 này có tới 5 tàu Anh khác trên đường đi Trung Hoa đã ghé
qua nhận mệnh lệnh [3].
Trong khi đó, chiến tích
cùng công trạng của Trấn thủ dinh Trấn Biên Trương Phúc Phan mãi mãi được
chúa Nguyễn vinh danh trên bảng vàng các bậc đại công thần khai quốc: “giặc
biển Man An Liệt là lũ Thuyền, Tô, Lỵ, Gia, Thi 5 người, xưng là 5 ban, cùng
đồ đảng 200 người đóng ở đảo Côn Lôn lập đồn trại chứa của báu như núi. Bốn
mặt đảo, chúng đều đặt súng lớn (...) Phan bèn triệu mộ 15 người Chà Và, mật
sai trá hàng rồi nhắm ban đêm phóng hoả đốt giết (...) thu hết vàng lụa đem
về nộp. Chúa hậu thưởng cho. Lúc Phan chết, được tặng phong hàm Thái bảo Phan
Quốc công” [8].
Vụ người Man ở Thuận Thành, người Thanh ở
Đông Phố và giặc biển ở Long Xuyên (1746 – 1747).
Năm 1746, “Người Man
Thuận Thành [người Chàm] là Dương Bao Lai và Diệp Mã Lăng nổi loạn. Lưu thủ
dinh Trấn Biên là Nguyễn Cương [Cường] đem quân đi đánh, đắp luỹ Cổ Tỉnh để
chống giặc, thừa lúc sơ hở đánh úp bắt được Bao Lai và Mã Lăng giết đi”;
tháng giêng năm 1747, “khách buôn người Thanh là Lý Văn Quang đánh úp dinh
Trấn Biên (...) Lưu thủ Nguyễn Cường đem binh của dinh giàn ở bờ phía Bắc,
gởi hịch báo cai cơ đạo Hưng Phúc là Tống Phước Đại hợp quân đánh dẹp. Bắt
được Văn Quang và đồ đảng 57 người. Chúa thấy là người Thanh không giết vội,
đều hạ ngục; tháng 8 “giặc biển là tên Đức (không rõ họ) cướp bóc miền ngoài
biển Long Xuyên. Mạc Thiên Tứ được tin báo, tức thì sai cai đội Từ Hữu Dụng
đem 10 chiến thuyền, đi bắt được bọn giặc đem giết hết” [1].
Xâu chuỗi 3 biến cố trên,
diễn biến một cuộc chiến giành giựt thị trường thương mại trên vùng đất đang
khai mở ở phía Nam mang tính chất sống còn thật sự giữa chính quyền chúa
Nguyễn với thế lực người Hoa đội lốt đủ các thành phần.
Lai, Lăng không có vẻ gì
là Chàm tộc cả, bởi họ Dương Bao, Diệp Mã hoàn toàn là những họ kép của Trung
Hoa [7]. Sử gia nhà Nguyễn đã lầm lẫn một cách cố ý để tiêu diệt không nương
tay hành động chống trả người Việt cùng những quyền lợi kinh tế mà chính
quyền chúa Nguyễn xác lập trên phần đất cuối cùng của vương quốc Champa có
nhiều mối ràng buộc với thương lái Trung Hoa trước khi người Việt đặt chân
đến. Họ liên kết với giới quý tộc và kích động dân Chàm phản kháng dưới chiêu bài chính trị rằng “không phục tùng chế độ
cai trị của nhà Nguyễn” [9], như thường thấy ở nhiều nơi, vào nhiều thời điểm
trên đất Thuận Phủ để giành lại địa vị thương mại tại một vị trí có nhiều
cảng thị quan trọng, nối liền vùng Nam Trung Bộ phong phú các chủng loại đặc
sản truyền thống với đồng bằng Nam Bộ dồi dào các nguồn hàng nông nghiệp.
Việc dẹp loạn Lai – Lăng
có thể kéo dài chứ không gọn ghẽ như niên biểu mà Tiền biên đưa ra (khoảng cuối năm 1746), bởi để ngăn chặn hiệu
quả các mũi tấn công của đối phương trên cả một vùng rộng lớn phía Nam Bình
Thuận, Trấn thủ Nguyễn Cường của dinh Trấn Biên đã phải cho quân lính đắp luỹ
Cổ Tỉnh dài hơn 645 trượng kiên cố [10], sau đó từng bước phản kích và lợi
dụng sơ hở đánh úp doanh trại kẻ chủ mưu. Do đó, tranh thủ thời cơ lực lượng
tại chỗ của chúa Nguyễn đang bị thu hút ở mặt Bắc, Lý Văn Quang dẫn đồng đảng
đánh úp dinh Trấn Biên. Tuy nhiên Lưu thủ Nguyễn Cường đã kịp thời phối hợp
với Cai cơ đạo Hưng Phúc là Tống Phước Đại bao vây bắt sống.
Trong khi đó, giặc Đức
hoạt động ráo riết vùng biển từ Qui Nhơn đến Long Xuyên, Ba Thắc cũng đã táo
tợn tấn công cướp lấy thuyền long bài (thuyền vua ban) và hàng ban phẩm của
Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ. Lai lịch cùng hành động của Đức ngờ rằng là
một Tàu Ô hơn tên cướp Việt qua mô tả của văn thần nhà Nguyễn: “giặc biển
nguỵ xưng là Vũ Vương (...) tên là Đức Bụng (người phủ Qui Nhơn, tên là Đức,
vì bụng to gọi là Đức bụng)” [11], bởi dám liều lĩnh công khai tuyên chiến
với quan quân nhà Chúa và rặt kiểu xưng vương bá chủ như thương tặc Đông Phố
Đại Vương Lý Văn Quang, Linh Vương...
Những vụ tập kích trấn Hà Tiên (1767 –
1771).
Trên điểm dừng chân cuối
cùng của họ Nguyễn ở phương Nam này đã liên tục bị khuấy động bởi một loạt
các tranh chấp thương mại, cướp biển, cát cứ, chiếm đoạt đất đai của người
Hoa lẫn Xiêm La, người Chà Và và Chân Lạp, từ Mã Lai, Sumatra đến Miến Điện.
Năm 1767, “người Triều Châu nước Thanh là Hoắc Nhiên rủ nhau họp đảng, lấy
đảo Cổ Công là nơi hiểm trở hẻo lánh, dựa làm sào huyệt, thường ẩn hiện ở
vùng duyên hải, đón cướp thuyền buôn, vây cánh ngày một nhiều, có ý ngầm nhòm
ngó Hà Tiên”; năm 1769, “Người Triều Châu là Trần Thái họp đảng ở núi Bạch
Mã, mưu đánh úp Hà Tiên, ngầm kết với người họ Mạc...”; năm 1770, “Phạm Lam
họp đảng ở Hương Úc và Cần Vọt cùng với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và
người Chân Lạp là Ốc nha Kê họp quân hơn 800 người và 15 chiếc thuyền, chia
đường thuỷ bộ đánh úp Hà Tiên”; năm 1771, lại “vua Xiêm (...) dùng tên giặc
[núi] Bạch Mã là Trần Thái làm hướng đạo, vây trấn Hà Tiên...” [1].
Có thể nhận thấy chặng cuối con đường giao
thương của chính quyền chúa Nguyễn là nơi quy tụ các lợi ích to lớn của giới
thương nhân khu vực, trong đó tập trung đông đảo nhất vẫn là các lái Trung
Hoa. Thủ đoạn vẫn như cũ, song mức độ tranh chấp của người Hoa càng về sau
càng trở nên căng thẳng, khốc liệt. Thêm một tác động cùng chiều, đúng vào
thời điểm này tại Xiêm La, Trịnh Quốc Anh tự lập làm vua: “Quốc Anh là người
Triều Châu nước Thanh (...) thừa lúc nước Xiêm trống trải suy yếu, bèn dấy
quân đánh úp lấy đất, tự xưng làm quốc vương” [1]. Cơ may của người đồng
hương phương Bắc đã kích thích lòng tự tôn của những gã lái buôn phiêu lưu,
khiến chúng càng nóng lòng manh động, liều lĩnh như trong canh bạc cuối: được
ăn cả, ngã về không!
Với tính chất là một thể
chế thương mại [3], chính quyền chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây một đầu cầu
giao dịch quan trọng, mệnh danh một Tiểu Quảng Châu và được bảo vệ một cách
nghiêm ngặt bằng lực lượng bố phòng địa phương, dưới sự hỗ trợ tích cực của
Gia Định. Từ năm 1714, Minh Vương phong Mạc Cửu làm Thống binh trấn Hà Tiên,
tước Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu chết, năm 1736 con là Mạc Thiên Tứ thế tập, được
Ninh Vương “thăng làm Khâm sai Đô đốc Tung Đức hầu, ban cho 3 chiến thuyền
long bài, miễn cho lệ thuế thuyền buôn, hàng năm ra nước ngoài mua đồ vật
quý, đến Kinh dâng tiến” [11]. Rõ ràng quyền lợi của chúa Nguyễn tại đây là
không thể nhân nhượng, do đó các thế lực tranh chấp đều lần lượt bị đè bẹp,
ngay cả quân Xiêm cũng bị đánh cho đại bại, vua Xiêm phải gửi thư xin cầu
hoà.
Cùng lúc này, phong trào
Tây Sơn nổ ra đã cuốn hút những nổ lực của họ Nguyễn từ mở đất và thương mại
chuyển sang giành giữ đất và chiến tranh. Tuy nhiên, những kinh nghiệm giao
thương và lợi thế kinh tế của vùng đất phía Nam đã được họ Nguyễn phát huy
tối đa, tạo nên đối trọng vật chất to lớn, góp phần vươn lên giành lấy thắng
lợi chung cục trong cuộc nội chiến mất còn suốt ba thập niên cuối thế kỷ
XVIII.
NGUYỄN LỤC GIA
Nguồn: VCV
Tài liệu trích dẫn.
[1] QSQ triều Nguyễn
(1962), Đại Nam thực lục tiền biên,
tập 1, NXB Sử học, HN, tr.37, 73-74, 135, 125, 136, 140-142, 148, 152, 159,
161, 209-210, 233-240.
[2] UBQG (1991), Đô thị cổ Hội An, NXB KHXH, HN, tr.255-256.
[3] Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội
Việt Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, tr.87-88, 113-114, 125.
[4] Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, NXB Văn hoá – Thông
tin, tr.65-66.
[5] Nguyễn Lương Bích
(2003), Lược sử ngoại giao Việt Nam các
thời trước, NXB Quân đội nhân dân, tr.179-181.
[6] Tôn Châu Quân (2008),
“Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến lịch sử năm 1644”, tạp chí Xưa nay (số 304), tr.12-13.
[7] Nguyễn Khôi (2006), Các dân tộc ở Việt Nam: cách dùng họ và
đặt tên, NXB Văn hoá dân tộc, HN, tr.161-163.
[8] QSQ triều Nguyễn
(1993), Đại Nam liệt truyện, tập 1,
NXB Thuận Hoá, tr.126.
[9] ƯBND tỉnh Bình Thuận
(2006), Địa chí Bình Thuận, Sở Văn
hoá – Thông tin tỉnh Bình Thuận, tr.228.
[10] QSQ triều Nguyễn
(2006), Đại Nam nhất thống chí, tập
3, NXB Thuận Hoá, tr.166.
[11] Trịnh Hoài Đức
(1998), Gia Định thành thông chí,
NXB Giáo dục, tr.120-121.
|
Trang
▼
gia sư
ReplyDeleteday kem