Trang

Thursday, December 27, 2012

ĐÀI LOAN VÀ CỘI NGUỒN BÁCH VIỆT (PHẦN 2)

Ngôn ngữ người Hoklo có nguồn gốc cổ xưa ở Nam Trung quốc.  Theo nhà ngôn ngữ học Norman và  Mei Tsu Lin (5)(6) thì tiếng Hoklo (Mân), Hakka và Quảng Đông có cùng nguồn gốc. Chúng xuất phát  từ các bộ tộc bách Việt phi Hán sống ở phía Nam sông Dương Tử. Những ngôn ngữ này có các thành phần gốc Thái cổ, Austronesian và Austroasiatic ở tầng ngôn ngữ dưới tầng pha trộn với tiếng Hán ở trên. Thành phần Austronesian và Thai (Austro-Thai) có trội hơn thành phần Austroasiatics, nhưng cả ba đều có hiện diện trong các ngôn ngữ này. Họ ngôn ngữ Austroasiatics, như ta biết, gồm có các ngôn ngữ Mon-Khmer, Việt, Munda. Điều này cho thấy là các tộc người nói tiếng Austroasiatics đã có mặt ở nam Trung quốc từ lâu đời, trước thời kỳ nhà Tần\- Hán (6). Hiện nay trong ngôn ngữ Mân Nam Hoklo, ta vẫn còn tìm thấy có các sự liên hệ với ngôn ngữ Việt thuộc họ Austroasiatics qua các từ gốc (6). Một vài thí dụ về các từ Hoklo với các từ trong tiếng Việt như

vat[bat4] - Việt : biết, Bahnar : băt.
gnial[kian2] - Việt : con, Khmer : koun.
daam[tam5] - Việt : đẫm (ướt).
daanggi[tang5ki1] - Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, , Mon : dong.
doh[toh4] - Việt : đâu (ở).

và một số từ có nguồn gốc austroasiatics-austronesian (theo thuyết Austric) như

dehh[teh4]\- Việt : đè, Proto-Malay : tedes.
qiul [giu2] - Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jau1, proto-Malay : guyud
lut[lut4] - Việt : lột,  Hakka : lôụt,  Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawai Polysnesian : lu.
lerng[leng7] - Việt : lõng, proto-Malay : luan.

Ngoài ra, theo tôi một số các từ Hoklo sau đây cũng có gốc chung (cognates) với các từ Việt.

bou[po*1] - Việt : bố (cha)
voul[bo*2] - Việt : bu (vợ)
za[cha1] - Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau.
dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul nghĩa là người đàn bà.

Ngoài sự liên hệ về ngôn ngữ giữa người Hoklo (Mân Việt) và người Việt, trong lịch sử, ta cũng được biết là tổ tiên của nhà Trần, một triều đại rực rỡ đượm văn hoá Việt ở Việt Nam, đã đi từ Phúc Kiến (Mân) theo đường biển đến định cư ở Việt Nam vào thế kỷ 13. Họ sống về nghề đánh cá dọc theo bờ biển nam Trung quốc.

Người Hoklo ở Đài Loan sau bao thế kỷ chung sống và hợp chủng với nhiều bộ tộc bản sứ ở vùng thấp và đồng bằng đã dẫn đến sự biến mất của một số các bộ tộc. Qua quá trình giao lưu này, một số ngôn từ Austronesian đã được thu nhận và ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan có nét địa phương khác với ngon ngữ Hoklo ở tỉnh Phúc Kiến trong lục địa. Ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan nay được gọi là Đài ngữ.

(c) Người Hẹ hay Khách trú (Hakka) (客家).

Từ “Hakka” chữ Hán có nghĩa là “khách trú”, do người Quảng Đông dùng để chỉ các người di dân xuống địa phận vùng bắc Quảng Đông và nam Phúc Kiến hiện nay. Thật sự người Hakka đã có mặt từ ngàn năm trước ở vùng phía nam sông Dương Tử, chủ yếu ở khu vực nam tỉnh Giang Tây, giáp giới với Phúc Kiến. Vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử họ đã di dân xuống Quảng Đông. Hiện nay chúng ta không rõ lịch sử và khi nào từ này đã được dùng, chỉ biết là người Quảng Đông đã đối xử phân biệt với họ, cho họ là dân phi Hán thuộc một loại dân tộc mọi man di, như các tộc Thái, Choang (Zhuang) hay Mèo (Miao)\, ở miền núi hoang dã di dân vào ở các khu vực Hán. Thật sự thì cả người Quảng Đông cũng không phải nòi Hán, nhưng vì bị Hán hoá quá lâu, nên trong cộng đồng của họ đã không còn gìn giữ lại được trong trí nhớ di sản chung là trước kia họ thuộc chủng phi Hán.

Vì bị coi như người ngoài đến lấn chiếm, và bị đối xử phân biệt nên một số người Hakka đã cũng tự cho họ là người Hán từ bắc Trung quốc đi xuống. Quyển sách cổ điển nói về nguồn gốc của người Hakka là của giáo sư Lo Hiong Lim, xuất bản năm 1933 (“An introduction to the study of the Hakkas: its ethnic, historical and cultural aspects”). Ông chủ yếu dựa vào gia phả cho rằng người Hakka là từ bắc Trung Quốc đã di dân xuống phương nam qua nhiều đợt vì quê hương của họ đã bị các rợ phương bắc xâm lăng.

Ngày nay thì nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ, ngôn ngữ học và di truyền học đã cho thấy là thuyết của ông Lo không đúng. Ngay cả tư liệu gia phả cũng không chính xác và có nhiều sai lầm. Nhà ngôn ngữ học J. Norman cho rằng tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông “Việt” (Yue) có cùng một nguồn  trong lịch sử,  đã hiện diện ở Nam Trung quốc từ trước thời Hán, mà ông gọi chung là tiếng cổ nam Trung quốc (Old southern Chinese) (5).

Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart trong một nghiên cứu mới đây (2002) về nguồn gốc tiếng Hakka, đã cho thấy là ngôn ngữ này có nguồn gốc ở phía nam Trung quốc, với lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ Mèo - Dao (Miao-Yao), hay còn gọi là Hmong-Mien (4). Ngôn ngữ Hakka cũng rất gần với ngôn ngữ của người Gan (Cám) cư ngụ dọc lưu vực sông Cám giang. Hiện nay ở vài khu vực các tỉnh Giang Tây (Jianxi), Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, người She, thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Mien vẫn còn hiện diện. Ông Sagart cho rằng chính  họ là tổ tiên của người Hakka và Gan, sau này đã bị Hán hoá dần từ thời Tống. Trước đây, nhà ngôn ngữ học Haudricourt cũng đã cho rằng tiếng Quảng Đông và Hakka có nguồn gốc từ tiếng Thái và Mèo-Dao, sau khi trãi qua các quá trình Hán hoá lâu dài trong lịch sử (7).

Giáo sư Fong Hok Ka, trong sách nghiên cứu về người Hakka xuất bản ở Trung quốc năm 1994 (“Investigating in depth about the origin of Hakka”), đã dùng các tư liệu lịch sử và khảo cổ tìm được ở các vùng  của người Hakka trước đây cư ngụ. Ông cho thấy đã có một nền văn minh rất cao hiện diện trước lâu khi thời kỳ nhà Tần đánh chiếm các dân tộc phương Nam. Từ đó  (221BC) bắt đầu có quá trình Hán hoá cho đến các giai đoạn sau  thời Bắc triều - Nam triều (589AD), khi nhóm tiền\-Hakka (proto-Hakka) bắt đầu được thành lập và phát triển.

Nói chung các công trình nghiên cứu của ông Norman, Sagart và Fong là có cơ sở hơn hết về nguồn gốc con người và ngôn ngữ Hakka.

Sau người Hoklo, người Hakka bắt đầu di dân vào đảo Đài Loan vào khoảng thế kỷ 18, chủ yếu là dưới triều Thanh. Hiện nay, dân số người Hakka có khoảng 3 triệu, tức khoảng 15% dân số Đài Loan, đứng hàng thứ 2 sau dân Hoklo.

(3) Vài nét về lịch sử hiện đại Đài Loan

(a) Đài Loan đã có người thổ dân Austronesian sinh sống từ lâu đời. Tài liệu xưa nhất ở Trung quốc đề cập đến Đài Loan là vào năm 230 AD, nói về một số người chạy loạn từ bờ biển Phúc Kiến, Quảng Đông đến trú ngụ tại đảo. Một tài liệu địa lý khác ở thế kỷ thứ 3 có nói về các bộ tộc sống trên đảo (9). Họ có phong tục và cách sống rất khác nhau, chứ không phải thuần nhất.

Từ cuối thế kỷ 16 đến năm 1624, chỉ có một số rất ít người từ lục địa sang sinh sống dọc theo bờ biển phía bắc. Chủ yếu họ sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình Trung quốc. Trong đó không ít là sống theo nghề cướp biển. Thỉnh thoảng chỉ có một số người bị đắm tàu trôi dạt vào đảo. Họa hoằn lắm là có các thương thuyền của người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và các nước tạt qua trên đường hàng hải buôn bán với Nhật và Trung quốc. Người Bồ Đào Nha gọi đảo này là Formosa (“hòn đảo đẹp”). Thổ dân Austronesian trên đảo cũng có tiếng là hung dữ, nhất là ở phía sâu trong đảo. Thêm nữa vì không có cảng hay thành phố mà chỉ có các làng mạc thưa thớt dọc biển, nên không ai để ý đến.

Với sự cạnh tranh càng ngày càng gia tăng của các nước Tây phương trong thị trường thương mại hàng hải với Nhật và Trung quốc. Người Hoà Lan đầu tiên chiếm các đảo nhỏ ở eo biển Đài Loan như quần đảo Pescadores và bắt đầu từ năm 1624 đến lập các cơ sở ở bờ biển phía Tây Đài Loan. Người Tây ban Nha cũng đến phía bắc đảo để chiếm đóng và lập các căn cứ làm thuộc địa từ năm 1626. Người thổ dân bị lấn chiếm và không chống trả nổi. Chiến tranh giữa Hoà Lan và Tây Ban Nha diễn ra liên tục trên đảo. Trong thời gian này, người Hoa từ lục địa cũng bắt đầu di dân sang ở một vài nơi phía Tây và Nam trên đảo.

Năm 1642, cuối cùng người Tây Ban Nha đã bị người Hoà Lan đánh bại, các cơ sở, đồn thiết bị ở phía bắc đảo đã rơi vào tay người Hoà Lan. Formosa trở thành thuộc địa và là cơ sở thương mại có lợi nhuận lớn thứ nhì sau Nhật bản của công ty Đông ấn Hoà Lan.  Trong lúc đó người Hoa từ lục địa tiếp tục di dân qua đảo Formosa lập nghiệp ở dọc bờ biển hẻo lánh phía Tây. Người thổ dân nay chịu 2 sức ép của làn sóng xâm nhập. Từ Đài Loan, Công ty Đông ấn xuất khẩu đường, các sản phẩm từ nai thú rừng, và là trạm chuyển tiếp cho đồ sứ Trung quốc. Các bộ lạc ở vùng thấp và đồng bằng bị cạnh tranh sinh sống và bị đẩy lùi từ sự phát triển nông nghiệp lớn dần của các người di dân từ lục địa sang. Dĩ nhiên lâu dần  sự việc cũng đã dẫn đến sự đụng độ không tránh khỏi giữa người di dân Hoa lục với người Hoà Lan. Nhà Minh bắt đầu gởi người và chiến thuyền đến để can thiệp. Chiến tranh xảy ra khốc liệt trong nhiều năm. Sau cùng vào năm 1662, người Hoà Lan vì giới hạn nhân lực và thực lực đã bị tướng nhà Minh Koxinga (Jeng Cheng Gung) đánh bại. Đây là lần đầu tiên Trung quốc thiết lập sự cai trị ở đảo Đài Loan.

Khi nhà Minh bị mất nước vào năm 1683, người Mãn Châu thiết lập triều nhà Thanh ở Trung quốc. Tàn quân của nhà Minh đã phải lánh nạn ở bờ biển phía Nam gần Đài Loan. Một số cũng đi xa hơn nữa về phương Nam đến Việt Nam và được chúa Nguyễn cho phép định cư ở các vùng đất mới, như miền Nam phía vùng đồng bằng sông cửu Long và Hà Tiên. Ở Trung quốc, một số  hội kín “phản Thanh phục Minh” như Thiên Địa hội được thành lập. Vùng bờ biển Trung quốc và Đài Loan trở thành nơi cứ địa của Thiên địa hội. Lâu ngày tàn quân và Thiên địa hội đã dần dần trở thành cướp biển quấy phá hàng hải thương mại nhà Thanh ở eo biển Đài Loan. Sau một thời gian, nhà Thanh tuy dẹp được cướp biển, nhưng ở Đài Loan họ chỉ kiểm soát được một vài nơi có người Hoa định cư dọc bờ biển. Còn lại đa số là ngoài vòng kiểm soát. Nhà Thanh vì thế chỉ xem Đài Loan là một vùng biên giới để giử an ninh, không coi đó là nơi quan trọng và cần thiết. Nhà Thanh dùng chính sách “chia rẽ và cai trị” rất hiệu nghiệm. Họ dùng người bản sứ Austronesian để đàn áp các cuộc nổi loạn thường xảy ra của người Hoa di dân vẫn còn thần phục nhà Minh.

Năm 1895, nhà Thanh thua trận trong chiến tranh với Nhật. Một trong những điều kiện thương thuyết là Nhật đòi nhà Thanh phải nhường lại Đài Loan. Vì không coi là nơi quan trọng thuộc lãnh thổ Trung quốc, nhà Thanh đã đồng ý với Hoà ước Shimonoseki kết thúc cuộc chiến tranh Trung-Nhật. Đài Loan trở thành thuộc địa, trực thuộc Nhật từ năm 1895 đến 1945. Trong 50 năm dưới chế độ thực dân Nhật, Đài Loan đã trãi qua một sự thay đổi khá sâu rộng trong các địa hạt văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị. Tiếng Nhật và văn hoá Nhật được áp dụng trong toàn xã hội. Văn hoá bản sứ Hoa, Hoklo và Austronesian không đươc phát triển. Họ cai trị Đài Loan rất chặt chẻ. Ngay cả vào sâu trong nội địa, vùng núi rừng để chế ngự các bộ tộc Austronesian miền núi, để đặt họ vào vòng kiểm soát của người Nhật. Kỷ nghệ được phát triển khai thác tận lực tài nguyên thiên nhiên như thuỷ điện, nhôm, hoá học.... Đài Loan sau này đóng góp nhiều vào bộ máy chiến tranh của Nhật trong thế chiến thứ hai. Dưới sự cai trị của Nhật, một cuộc nổi dậy lớn nhất chống Nhật, do một bộ tộc người Austronesian lảnh đạo, đã xảy ra vào năm 1930. Để trả thù, chính quyền Nhật đã đàn áp, giết và bắt đi hầu hết các người của bộ tộc Austronesian này trong cuộc nổi loạn trên. Trong lịch sử Đài Loan, ngay cả Quốc dân đảng đã đề cao biến cố nổi dậy quan trọng này của các “đồng bào dân tộc”.

Trong thế chiến thứ hai, Trung quốc đánh nhau với Nhật ở mặt trận châu Á, Thái bình dương và vì thế đứng về phía Đồng minh chống lại trục phát xít Đức-Nhật-Ý. Trong hội nghị của ba cường quốc đồng minh  (Mỹ, Anh, và Trung quốc) về mặt trận Thái Bình dương ở Cairo vào năm 1943, Đồng minh đã đồng ý là sẽ giao Đài Loan cho Trung quốc (Quốc dân đảng) khi Nhật bị bại trận sau chiến tranh.

(b) Biến cố 28/2 - Thảm sát ở Đài Bắc và khắp Đài Loan

Cuối năm 1945, sau khi Nhật đã đầu hàng đồng minh, chính phủ Trung quốc của Quốc dân đảng gởi người và quân đội đến Đài Loan để giải giới và thiết lập chính quyền mới trên đảo. Họ đến từ lục địa nhưng nắm hết quyền trong chính phủ, quân đội. Từ sự cách biệt gần 100 năm trong lịch sữ trong thời kỳ lệ thuộc Nhật và trước đó trong thời nhà Thanh, lối sống xã hội của người Đài Loan bản sứ đã khác nhiều với tập tục suy nghĩ nếp sống của những người tràn qua từ đất liền.

Điều này bắt đầu dẫn tới những bất đồng và căng thẳng, nhất là sự hối lộ, tham nhũng, vơ vét, áp bức dân địa phương của chính quyền Quốc dân đảng trong các năm đầu khi họ vừa đến Đài Loan. Người dân bản sứ không quen về tệ nạn tham nhũng, vơ vét khi còn dưới thời Nhật cai trị, nên rất ta oán. Họ đã biểu tình phản đối bắt đầu từ Đài Bắc rồi lan ra khắp Đài Loan. Quốc dân đảng đã phản ứng lại bằng cách dạy dân địa phương một bài học, như một số tướng và nhân vật quốc dân đảng đã tuyên bố . Trong ngày 28/2/1947, quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình và mở chiến dịch càn quét tấn công vào các dân bản sứ, hậu quả thật khốc liệt, hơn 20,000 người đã bị thảm sát. Thiết quân luật đã được ban hành và áp dụng trên toàn lãnh thổ. Biến cố này là một bản lề quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Đài Loan.

Năm 1949, chính phủ Quốc dân đảng ở Trung quốc sau khi bị thua trận trong cuộc nội chiến đã phải chạy ra đảo Đài Loan củng cố. Thiết quân luật được áp dụng chặc chẽ hơn, viện cớ tình trạng chiến tranh với đảng cộng sản ở Trung quốc lục địa. Thiết quân luật chỉ chấm dứt sau này vào năm 1987.  Biến cố ngày 22/8/1947 có ảnh hưởng sâu rộng và đã nằm sâu trong tiềm thức của dân Đài Loan. Mặc dù nó đã bị các chính phủ Quốc dân đảng che đậy và cấm được bàn hay đề cập đến từ lúc đó cho đến cuối thập niên 1980s, nhiều trí thức bản sứ và ngay cả một số trong Quốc dân đảng ly khai đã đặt lại vấn đề và từ đó thành lập đảng Dân chủ Tiến bộ đối lập với chính quyền.

Năm 1972, Đài Loan đã lỡ một cơ hội trở thành một nước độc lập gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trong thời điểm này Mỹ đang hoà hoãn với Trung hoa lục địa (Cộng hoà nhân dân Trung quốc). Liên hiệp quốc cũng vừa công nhận chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung quốc (PRC) đại diện cho Trung quốc ở Liên hiệp quốc, thay thế chính phủ Cộng hoà Trung quốc (ROC) của Quốc dân đảng ở Đài Loan. Đài Loan lúc đó có thể từ bỏ chính sách là mình có chủ quyền  ở Trung hoa lục địa và là thực thể đại diện cho tất cả mọi người dân Trung hoa. Thay vào đó, Đài Loan nên tuyên bố độc lập xin vào Liên Hiệp quốc với tư cách một nước mới. Đây cũng là hành động mà Mỹ khuyên Đài Loan nên theo trong cơ hội này lúc Mỹ thương lượng với Trung quốc, nhưng chính phủ Đài Loan đã từ chối và tiếp tục theo đuổi đòi chủ quyền cho cả Trung hoa lục địa. Đây là một sai lầm chiến lược lớn mà sau này Đài Loan hối hận. Nhiều người đã đặt lại vấn đề là tại sao lại không có hai hoặc ba nước nói tiếng Hoa trong Liên Hiệp Quốc, cũng như Liên Sô trước đây đã có Ukraine và Bylorussia hiện diện trong tổ chức này. Chính sách sau này của chính phủ Quốc dân đảng Đài Loan là cố gắng thiết lập được quan hệ ngoại giao với mọi nước (đa số là các nước nhỏ ở Trung Mỹ và Thái Bình dương) và xin được vào các tổ chức quốc tế như Y tế thế giới (WHO), văn hoá (UNESCO), thương mại (WTO)..

Từ lúc đảng Dân chủ tiến bộ đối lập được thành lập, đấu tranh về đường lối giữa Quốc Dân Đảng và đảng Dân chủ diễn ra rất gay gắt trong suốt thập niên 1980s. Đến cuối thập niên 1990s thì người địa phương Đài Loan đã thực sự thắng lợi, với bản sắc Đài Loan được đặt là nền tảng cho mọi chính sách đối ngoại và đối nội. Ngay cả Quốc Dân đảng đã chọn người địa phương Đài Loan, ông Lý Đăng Huy, là vị tổng thống với chính sách mới ở giai đoạn cuối cùng trước khi đảng Dân chủ lên nắm quyền năm 2000, mở đầu cho một kỷ nguyên và một thế kỷ mới.  

(3) Sự hình thành và phát huy văn hoá truyền thống bản địa của các dân tộc ở Đài Loan

Tôi đến Đài Trung (dọc bờ biển hướng Tây, cách Đài Bắc 150km phía Nam) vào tháng 6 năm 2000, một tháng sau khi ông Trần Thuỷ Biển nhậm chức tổng thống. Trung quốc vẫn còn dàn hoả tiển hướng về Đài Loan ngăn cách qua một eo biển nhỏ hẹp. Dân chúng tuy vậy rất bình tỉnh, tự tin và không còn sợ hải như trước đây. Mặc dầu thị trường chứng khoáng chưa hồi phục đến mức bình thường như hồi trước lúc khủng hoảng, hoạt động kinh tế đã trở lại như trước, các trung tâm thương mại rất náo nhiệt trừ các trung tâm của các công ty Nhật có rất nhiều ở Đài Loan, như Daimaru,.. thì vẫn vắng khách như xưa vì giá rất cao. Thành phố Đài Trung là thành phố lớn mà dân Hoklo hầu như chiếm gần hết, với một số ít còn lại là người các dân tộc thổ dân Austronesian.

Thành phần dân ở Đài Loan gồm khoảng 15% là người Hakka (khách trú), 70% là người Phúc Kiến, 2% là người bản sứ thổ dân và 13% là người từ các vùng ở Trung Hoa lục điạ đến gần đây. Mặc dầu không phải là đa số, nhưng người từ Trung Hoa lục địa đã chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chính phủ, quân đội. Các hoạt động kinh tế phần lớn nằm trong tay họ, trong số đó có một số công ty có sự liên hệ rất mật thiết với Quốc dân đảng. Ngay Quốc dân đảng cũng có những công ty riêng rất lớn với nguồn tài chánh và lợi nhuận khổng lồ. Tình trạng trên kéo dài trong hơn 40 năm, cho đến khi bắc đầu từ năm 1988, đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) đối lập được thành lập. Đảng Dân chủ tiến bộ đòi hỏi có sự công bằng và đấu tranh dành lại quyền chính trị với khuynh hướng độc lập, từ bỏ là đại diện Trung quốc để lấy lại Hoa lục của chính thể Đài Loan từ khi Quốc dân đảng thua chạy qua tá túc ở Đài Loan. Mặc dầu có nhiều khó khăn và trở ngại do chính phủ Quốc dân đảng lập ra, dần dần tiếng nói của các dân bản sứ đã được thể hiện.  Trong những năm cuối của thập niên 1980 và đầu 1990, sự đối lập của đảng Dân chủ Tiến bộ và Quốc dân đảng về khuynh hướng và chính sách không những gay gắt trên chính trường (nhiều khi đưa đến xô xát bạo động trong quốc hội, các nơi diễn thuyết công cộng giữa hai phe mà chúng ta thường thấy trên truyền hình) mà còn được thể hiện ở dân chúng tuỳ theo dân thuộc thành phần nào, bản sứ hay không bản sứ.

Năm 1996, ông Trần Thuỷ Biển được bầu làm thị trưởng thành phố Đài Bắc. Trong thời gian làm thị trưởng, ông đã đổi tên đại lộ trước dinh tổng thống từ “Đại lộ Tưởng Giới Thạch muôn năm” thành “Đường Ketagalan”. Ketagalan là tên một bộ lạc thổ dân Austronesian cư ngụ vùng xung quanh Đài Bắc đã bị tuyệt chủng từ lâu sau khi họ đã bị đồng hoá vào xã hội Đài Loan. Mặc dù không phải là người thổ dân, nhưng ông Trần Thuỷ Biển đã tích cực ủng hộ và phát triển quyền lợi và văn hoá thổ dân khắp Đài Bắc.

Quan trọng hơn, ông đã lập ra một viện bảo tàng giữa một công viên lớn trong trung tâm thành phố tưởng niệm biến cố ngày 28/2/1947. Công viên được đổi tên là công viên hoà bình 282. Tôi có ghé thăm công viên và viện bảo tàng trong dịp viếng Đài Bắc năm 2000. Thật là cảm động khi thấy những hình ảnh, thơ từ, áo của các nạn nhân mang những lổ đạn, sách, báo chí, chứng từ, nói lên sự bất nhẫn qua hình ảnh của quân đội Tưởng Giới Thạch bắn giết hơn 20,000 người... Viện bảo tàng mang một biểu tượng với dòng chữ to “confused identity leads to tragedy - Taiwan has to know its past tragic event in 22/8/1947” (không rõ cá tính chúng ta là ai sẽ dẫn đến thảm kịch - Đài Loan phải biết quá khứ lịch sử của biến cố ngày 22/8/1997”. Dĩ nhiên viện bảo tàng đã bị chính phủ Quốc dân đảng lúc bấy giờ rất chống đối và lên án. Nhưng cũng từ lúc ấy, đa số người Đài Loan bản sứ (Hakka và Hoklo) đã bắt đầu nhận ra, ý thức được quyền độc lập và tự hào về sự khác biệt của văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ của họ với văn hoá quan thoại của Quốc dân đảng và của Trung Hoa lục địa.

Ngay cả trong Quốc dân đảng, nhiều người (nhất là các đảng viên gốc người bản sứ), đã đòi hỏi phải có cải tổ, thay đổi chính sách để thể hiện được nguyện vọng của dân một cách thực tế và áp dụng được trong tình hình mới. Nó phải thích với khuynh hướng và trào lưu dân chủ mà quần chúng đòi hỏi. Lý Đăng Huy, vị tổng thống Quốc dân đảng cuối cùng trước khi Trần Thuỷ Biện lên thay, là người gốc bản sứ, đã có những chính sách cởi mở. Chính ông cũng có những hoài bảo độc lập giống như đảng Dân chủ Tiến bộ. Điều này đã làm cho chính quyền Trung quốc rất tức giận và hằng học, làm nhiều khó khăn cho ông Lý Đăng Huy, ngay cả khi ông không còn trong chính trường và là một công dân bình thường như hiện nay. Thí dụ như khi ông dự định đi đến viếng các nước như Anh, Mỹ, và gần đây Nhật với tư cách cá nhân riêng tư, chính quyền Trung quốc cũng đã gây sức ép đến các nước sở tại để không cho ông thi thực nhập cảnh (visa). Ai nói là thù sẽ phai đi theo thời gian ?.

Để có thể phân biệt và tạo ra được sự khác nhau về xã hội, văn hoá giữa Đài Loan và Trung quốc, Đài Loan từ Lý Đăng Huy đến Trần Thuỷ Biển đã khuyến khích phát triển và quảng bá rộng rãi văn hoá của những dân tộc thổ dân trong văn hoá Đài Loan. Ý thức về sự quan trọng của nền văn hoá thổ dân có nguồn gốc Mã Lai (Malayo-Indonesian) vào sự đóng góp chung với các văn hoá Hakka và Phúc Kiến để tạo dựng lên một nền văn hoá khác biệt với văn hoá Hán Trung Hoa. Điều này đã được nhận diện và chấp nhận là một yếu tố quan trọng bật nhất đặt nền tảng cho sự thành hình một đặc tính (identity) mới ở Đài Loan.  Thêm nữa mặc dầu Đài Loan đã có thời gian ngắn chỉ khoảng hơn 80 năm là một phần của Nhật Bản, trong thời kỳ Nhật cai  trị.  Nhưng ảnh hưởng văn hoá Nhật đã có thể hiện một phần trong văn hoá và con người Đài Loan. Đài Loan và Nhật hiện nay có quan hệ kinh tế và văn hóa khá sâu rộng.

Đặc tính riêng biệt là điều kiện tiên quyết cho sự khởi đầu thành lập một quốc gia của một quần thể với một văn hoá riêng. Quá trình văn hoá, tư tưởng như nói trên xảy ra ở Đài Loan trong sự tiến đến tạo thành một nước có bản sắc riêng cũng mang mán tựa như quá trình mà người Việt đã trãi qua trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình này, nguy cơ văn hoá bản sứ có thể bị Hán hoá và tiêu diệt, trước khi có sự độc lập trong thế kỷ thứ 10 là rất cao, nếu không nhờ có văn hóa làng xã thuần Việt ở nông thôn được giữ vững.

Sau bao nhiêu năm dưới các chính phủ Quốc dân đảng, ngôn ngữ Hakka, Hoklo và các thổ ngữ bị cấm dùng trong nền giáo dục và các công sở, thay thế bởi ngôn ngữ chính thức Quan thoại (mandarin). Trước đây, một số trí thức Hakka và Hoklo đã cố gắng giữ gìn tiếng nói của họ bằng nhiều phương tiện. Một trong những phương tiện là sáng tạo ra chữ viết mới dùng chữ Hán tạo ra loại chữ gọi là Koa-a-chheh (歌仔冊) vào thế kỷ 17 dưới thời kỳ thuộc nhà Thanh. Cấu tạo loại chữ này cũng tương tự một phần như chữ Nôm (Việt Nam), hoặc dùng chữ âm chữ Hán để chỉ chử địa phương hoặc dùng nghĩa chữ Hán cho âm địa phương. Tuy nhiên nó chưa được thống nhất tiêu chuẩn và có sự tuỳ tiện của người viết. Đến cuối thế kỷ 19, thì loại chữ viết này biến mất dần. Đầu thế kỷ 20, chữ cái Latin cũng đã dùng để thể hiện tiếng nói địa phương (tương tự như chữ quốc ngữ sau này ở Việt nam). Nhưng hệ thống chữ này, gọi là Poe-oe-ji (白話字), đã không thành công , một phần là do chính sách của Quốc dân đảng. Chính sách của Quốc dân đảng là  phát triển chính thức  chữ Hán Quan thoại để nó trở thành phổ thông trong đời sống xã hội, chính trị. Chữ mới này có thể gây nguy cơ phổ biến cho văn hoá địa phương đe doạ sự độc tôn của Hán văn cổ điển mà Quốc dân đảng xây dựng khi đến Đài Loan (8). Vì thế chính quyền Quốc dân đảng đã ngăn cấm loại chữ mới này.

Vì chính sách ngôn ngữ và văn hóa độc tôn trọng Hán của chính phủ Quốc dân đảng trước đây, rất nhiều thanh niên thuộc các thế hệ mới gần đây đã quên đi tiếng cha mẹ của họ. Chính sách này được thể hiện qua sự cấm dùng tiếng địa phương ở các nơi công cộng, công sở, hay giảm thiểu tối đa tiếng địa phương trên truyền thanh và truyền hình. Không những thế, trường học nào để học sinh nói tiếng địa phương, không phải Quan thoại bị phạt tiền.

Ông Trần Thuỷ Biển (và trước đó ông Lý Đăng Huy) hiện nay đã có chính sách cho phép các ngôn ngữ điạ phương được dùng và dạy trong môi trường đa văn hoá ở xã hội Đài Loan. Bảo tồn và phát triển các loại văn hoá bản sứ đều được khuyến khích. Ở Đài Bắc, Cao Hùng và nhiều nơi khác, các trung tâm văn hoá Hakka, Hoklo, thổ dân đã được thành lập. Tháng 4/2001, ông Trần Thuỷ Biển cũng đã chính thức khai mạc mở viện bảo tàng văn hoá và lịch sử Hakka lớn nhất Đài Loan ở thành phố Meinung, thuộc quận Cao Hùng. Trong nội các chính phủ, ông thành lập Uỷ Ban văn hoá Hakka, với hy vọng sẽ biến Đaì Loan thành trung tâm nghiên cứu về văn hóa Hakka cao cấp nhất trên thế giới.

Từ giữa thập niên 1980s cho đến nay, song song với sự thành lập phong trào dân chủ và đảng đối lập Dân chủ tiến bộ, có phong trào Taibun (Đài Văn) phổ biến văn học bản sứ Taigi (Đài ngữ). Mục đích của phong trào Đài Văn là phát triển văn học Đài Loan dùng ngôn ngữ, và chữ viết địa phương trong các địa hạt giáo dục, xã hội, để chống lại quan điểm là chỉ có văn học Hán văn viết về Trung quốc là có văn hoá cao được quý trọng. Còn văn học viết về Đài Loan chỉ là văn hoá “xóm làng “ ở địa hạt nhỏ bé trong văn học rộng lớn Trung quốc. Quan điểm coi nhẹ, đánh giá thấp văn hoá địa phương từ trước đến nay của chính quyền Quốc dân đảng và của đa số các nhà trí thức Hán học quan thoại cổ điển từ lục địa đi qua, đè nặng vào lối suy nghĩ tâm linh của họ, đã bị chỉ trích.


Phong trào Đài Văn ngược lại lấy văn học, những gì liên quan hay viết đến Đài Loan bản sứ làm sự hảnh diện chứ không phải là một sự hổ thẹn “xóm làng”. Phong trào Đài Văn một phần đã thành công trong sự gơi dậy niềm tin và phát triển văn hóa, cũng như ngôn ngữ Đài Loan bản địa (Hoklo). Nhưng sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa chữ viết đã chưa thực hiện được. Lý do chính là vì có nhiều hệ thống chữ (dùng từ Hán để phát âm, tương tự như chữ Koa-a-chheh trước đây) được sáng chế khác nhau. Ngay cả khi một trong các loại chữ này, như chữ Ganbun (諺文) chẵng hạn, được nhiều người dùng hơn, thì vấn đề kỷ thuật trên máy  tính và phần mềm xử lý để tạo ra chữ Ganbun đã gặp khó khăn. Vì hiện nay chỉ có chữ Hán là có sẵn và phổ thông trên thị trường máy tính mà thôi. Do đó hiện nay chỉ có chữ Hán Đài ngữ và Latin Đài ngữ (Peh-oe-ji) là được dùng nhiều nhất trong phong trào Đài văn.

Nói tóm lại, có thể cho rằng tình trạng của các dân tộc Hakka, Hoklo (“Mân Việt” ở Đài Loan cũng giống như tình hình ở Giao châu trước khi Ngô Quyền dành độc lập cho Lạc Việt. Dân tộc Lạc Việt đã cố gắng giữ gìn văn hóa trong gần 1,000 năm Hán thuộc mà không bị Hán hóa. Nhưng tình hình ở thế kỷ 21 có khác nhiều về không gian thế giới, do đó tình trạng của họ có khó khăn nhiều hơn và có thể không có nhiều hy vọng trên con đường tiến đến độc lập như chúng ta thuở trước. Tuy vậy không ai có thể đoán trước được những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Đối với Việt Nam, những gì sẽ xảy ra ở Đài Loan đều có ảnh hưởng ít nhiều về phương diện kinh tế và chính trị. Quan trọng hơn, nó còn chứa nhiều ý nghĩa đáng cho ta suy nghĩ về chính mình trong lãnh vực tư tưởng.

NGUYỄN ĐỨC HIỆP
_______________________

Tham khảo

Scott, S., “ormosa diary #22, May 20: A great proletarian cultural revolution” Southeast Asia Discussion List, 25 May 2000.
Lin, M., Chu L., Lee H. et al, “eterogeneity of Taiwan’s indegenious population: possible relation to prehistoric Mongoloid dispersals” Tissue Antigens, 2000:55:1-9.
Lin M, Chu CC, Chang SL, Lee HL, Loo JH, Akaza T, Juji T, Ohashi J, Tokunaga K., “he origin of Minnan and Hakka, the so-called "Taiwanese", inferred by HLA study” Tissue Antigens 2001; 57: 192-199.
Tsai Ting-I, “racing Taiwanese bloodlines” The Taipei Times, 6 May 2001.
Norman, J., “hinese” Cambridge language surveys, Cambridge University Press, 1988.
Norman, J. , Mei Tsu-lin. “he Austroasiatics in ancient south China: some lexical evidence” Monumenta Serica, 1976,  32.274-301.
Sagart, L., “an, Hakka and the formation of Chinese dialects” tài liệ qua liên lạ cá nhân (chư đ?ng trên tạ chí).
Wi-vun Taiffalo Ching, “anguage, Literacy and nationalism: A comparative study of Taiwan and Vietnam” Vietnam Journal, Vol. 1, Oct. 2001.
Melton, T., Clifford S., Martinson J., Batzer M., Stoneking M., “enetic evidence for the proto-Austronesian homeland in Asia: mtDNA and nuclear DNA variation in Taiwanese aboriginal tribes” Am. J. Hum. Genetics, 63 : 1807-1832, 1998.
Sagart, L., “he vocabulary of cereal cultivation and the phylogeny of East Asian languages” 17th Indo\-Pacific Prehistory Association Congress (IPPA 17), 9-15 September 2002, Taipei.
Oppenheimer, S., Richards, M., “ast trains, slow boats, and the ancestry of the Polynesian islanders” Science Progrss, 2001, 84(3),157-181.
Gibbons, A., “he peopling of the Pacific” Vol. 291,No. 5509. 2 march 2001,1735-1737.
Bellwood, P., “he Austronesian dispersal and the origin of languages” Scientific American 265, 70(1991).

No comments:

Post a Comment