Trang

Saturday, December 22, 2012

BỌN ĐAO PHỦ POL POT – IENG SARY - KỲ 2: TAY SAI CỦA BẮC KINH, DIỆT CHỦNG CHỐNG NHÂN DÂN CAMPUCHIA VÀ GÂY CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC NHẰM DIỆT CHỦNG DÂN TỘC VIỆT NAM

 
2.1.3.  Tâm lý bi quan, thất vọng, bất mãn đến cùng cực, mất phương hướng đấu tranh của quần chúng nhân dân Campuchia
Nhân dân Campuchia do từ bao đời sống trong một thiết chế xã hội mà ở đó vương quyền và tôn giáo thống trị một cách chặt chẽ. Hậu quả tai hại là đã mang lại cho người dân một bản tính thụ động, phục tùng khi mà họ chưa được giác ngộ cách mạng và họ luôn bị các giai cấp thống trị bóc lột, đàn áp.
Bọn Pol Pot – Ieng Sary đã lợi dụng tâm trạng đó của người dân, lừa gạt họ, lôi kéo, cưỡng bức họ đi theo mình, để rồi bắt họ chết, giết hại lẫn nhau và sử dụng họ tấn công lại người bạn chiến đấu Việt Nam, thậm chí hô hào họ tiến hành diệt chủng đối với người Việt Nam.
Mặc khác, như nhiều nhà nghiên cứu đã từng viết: lịch sử Campuchia đã trải qua quá nhiều thăng trầm và biến động, nhân dân Campuchia đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ đất nước, để giành quyền sống cho mình nhưng chưa một lần giành được thắng lợi. Vì vậy, đã tạo nên tâm lý bi quan, thất vọng triền miên trước vận mệnh của đất nước. Bọn Pol Pot đã biết khai thác tâm lý này, kích động sự hận thù của những con người bị thất bại liên tục trong lịch sử. Pol Pot xuyên tạc sự thật lịch sử, giải thích cho những người bi quan thất vọng ấy cái nguyên nhân của sự thất bại liên tục trong lịch sử là do “kẻ thù truyền kiếp Việt Nam” gây nên. Cuốn “Sách đen” của bọn Pol Pot ra đời năm 1977 chính là muốn lôi kéo những con người bi quan, thất vọng đó vào cuộc chém giết tàn khốc đối với nhân dân Việt Nam.
Về mặt kinh tế – xã hội, nông dân Campuchia từ bao đời bị áp bức bóc lột, nhất là từ khi bọn thực dân Pháp xâm lược, thống trị. Nhưng để lừa bịp những con người thụ động và phục tùng nhằm duy trì ách thống trị của mình, chống lại cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra gay gắt trên thế giới, Sihanouk đã từng dỗ ngọt: “…chúng ta không có vấn đề ruộng đất để phải tiến hành một cuộc cải cách,…. quần chúng nông dân đều là tiểu chủ”. Sự thật thì hoàn toàn không phải như vậy. Chính ba bản luận án tiến sĩ của Hou Youn, Hu Nim và của Khieu Samphan ở Paris, đã vạch rõ thực trạng kinh tế, trì trệ, lạc hậu của Campuchia và chỉ rõ người nông dân bị áp bức, bóc lột như thế nào, đời sống của họ cơ cực ra sao. “Thời kỳ vàng son” mà Sihanouk thường ca ngợi, thật ra là thời kỳ thống trị của bọn phong kiến, quan liêu quân phiệt, mại bản thối nát, tham nhũng. Đây cũng là thời kỳ thực dân mới từng bước thống trị xã hội Campuchia. Chiến tranh liên miên đã tạo ra quá trình đô thị hóa cưỡng bức và tàn phá ghê gớm(32). Sự phân hóa giai cấp trong xã hội ngày một sâu sắc. Với 89% dân số sống ở nông thôn, giai cấp nông dân bị phân hóa hơn bao giờ hết, tình trạng nghèo khổ do mất ruộng đất ngày càng gia tăng.
Từ thực trạng đời sống khốn cùng đó. Họ chỉ còn biết căm thù tất cả những gì đã gây ra đau khổ, đói khát, chết chóc. Họ căm thù sự phồn vinh của đô thị, căm thù chiến tranh, khinh thị thế giới, coi khinh cái chết,… Đây chính là điều kiện thuận lợi để Pol Pot sử dụng những con người đầy lòng căm thù này lao vào một cuộc chém giết mà họ lại đang coi thường cái chết.
Từ thực trạng như vậy, chỉ còn một con đường duy nhất mà họ mong chờ là sự đổi đời, mong chờ cách mạng. Pol Pot đã lừa bịp họ, đưa họ vào cuộc chiến tranh phá nát đất nước Campuchia và tấn công tiêu diệt Việt Nam. Trong tình thế đó, người nông dân không có phương hướng đấu tranh. Họ bị đẩy vào cuộc chém giết tàn ác, dã man mà không hề biết mục đích. Tầng lớp trí thức, sinh viên, học sinh cũng vậy, họ bị kích động, bị lôi kéo, sẵn sàng tiếp nhận tính “bạo loạn” của Pol Pot. Hàng loạt đã bỏ chế độ Sihanouk, Lon Nol, vào rừng đi theo Pol Pot làm “cách mạng”,…
Hơn thế nữa, với thủ đoạn tuyên truyền, kích động, cưỡng bức của bọn Pol Pot – Ieng Sary càng làm cho những con người vốn thụ động, phục tùng hoàn toàn, mất phương hướng đấu tranh, họ đã cầm vũ khí tiêu diệt người bạn chiến đấu của mình là nhân dân Việt Nam.
Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý. Khi chế độ quân chủ sụp đổ năm 1970, xã hội Campuchia tan rã từ trên xuống. Nhưng với tầng lớp nông dân vẫn còn lệ cổ sâu sắc, và chế độ quân chủ bị lật đổ vì những mưu đồ của giới thượng lưu, tư sản chứ không phải vì một cuộc nổi dậy của quần chúng. Rồi bọn Pol Pot – Ieng Sary lên cầm quyền năm 1975, với một nhóm những trí thức cấp tiến của giai cấp trung gian, đứng đầu một đội quân nông dân. Bọn chúng lên cầm quyền từ một địa vị bị cô lập hầu như hoàn toàn trong hơn năm năm với bối cảnh của một sự sụp đổ to lớn về cơ cấu xã hội và chính trị cổ xưa bởi cơn lốc chiến tranh, chứ không phải do một phong trào vững chắc của sự phản đối xã hội và sự thay đổi chính trị. Bọn chúng đã giành được sự kiểm soát nhân dân trước khi giành được tính hợp pháp đại chúng và thậm chí bọn chúng không có được sự thống nhất cả từ bên trong nội bộ.
Khác với Việt Nam, bọn cầm đầu Khmer đỏ không thể tập hợp cho chúng những cán bộ cách mạng giỏi, có trình độ học vấn từ giới trí thức, từ những tầng lớp trung gian, cũng như từ tầng lớp nông dân. Bởi vì, giới trí thức và tầng lớp trung gian ở Campuchia còn nhỏ và phần lớn đi theo chế độ Lon Nol. Tuy nhiên, điều “đáng tiếc” là số ít giới trí thức và tầng lớp trung gian đi theo chúng cũng bị thanh trừng, tiêu diệt gần như hoàn toàn vì không thống nhất về tư tưởng cũng như về sách lược.
Đội ngũ bên dưới của chúng là những binh lính nông dân được giáo dục rất ít. Đại đa số là những thanh thiếu niên thiếu phương hướng ở các thôn xóm bị đẩy từ một xã hội cổ truyền nông thôn vào một cuộc chiến tranh hiện đại tàn ác chỉ mới vài tháng, hoặc thậm chí mới vài tuần trước đó. Trong các cuộc cách mạng khác cũng vậy, những “cán bộ” với một quá trình như vậy thường phạm phải những hành động thô bạo tàn ác, trừ phi được những nhà lãnh đạo tinh thông hơn hướng dẫn và kiềm chế. Ở Campuchia, những “nhà lãnh đạo” như vậy còn rất hiếm!
Hơn nữa, bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan lại chủ tâm muốn lợi dụng khả năng tàn ác tiềm tàng đó để phục vụ cho mục đích của chúng. Kết quả là trong cuộc “cách mạng Campuchia” những người nông dân hiếu chiến đã trở thành một công cụ đắc lực cho chính sách diệt chủng của bọn Pol Pot – Ieng Sary.
Dưới cái vỏ bọc của những lời lẽ có vẻ “cách mạng”, bè lũ Pol Pot – Ieng Sary đã áp đặt lên nhân dân Campuchia một hệ thống biến họ thành nô lệ và chúng thi hành quyền lực đối với họ trên cơ sở sự khủng bố, sự tàn bạo, và sự diệt chủng. Nét độc đáo của xã hội Khmer đỏ là Pol Pot đã nô dịch chính dân tộc của chính hắn, chúng biến nhân dân chúng thành những nô lệ, thực hiện cho chúng chính sách tự diệt chủng đối với nhân dân mình và diệt chủng đối với những dân tộc láng giềng với mức độ tàn ác dã man, mà nếu có thể đem so sánh thì bọn phát xít Hitler còn phải chào thua.
2.2. Nguồn gốc bên ngoài
Mục tiêu cơ bản và lâu dài của tập đoàn phản động Bắc Kinh là thiết lập quyền bá chủ thế giới. Tham vọng này xuất phát từ tư tưởng bành trướng Đại Hán tộc của các hoàng đế Trung Hoa xưa, coi Trung Quốc là trung tâm thiên hạ, bắt các nước khác phải biến thành chư hầu phụ thuộc vào Trung Quốc. Đối với các dân tộc chung quanh, người Hán luôn khinh thường, coi họ thấp kém, nên gọi là “Tứ di”. Di là bọn “rợ mọi” ở phương Đông; Nhung là bọn “hiếu chiến” ở phương Tây; Man Z (trong chữ tượng hình có bộ trùng tức sâu bọ) là bọn “dã man” ở phương Nam; Địch (trong chữ tương hình có bộ khuyểntức chó) là giống “rợ ở phương Bắc.
Ngay từ năm 1939, trong tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, có tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì Mao Trạch Đông, kẻ kế tục truyền thống bành trướng của phong kiến Trung Quốc đã ngang nhiên nói rằng: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Bhutan, Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam,…(33) Nhiệm vụ trư?c tiên của Trung Quốc là hoàn lại tất cả các đất đai của chúng ta chứ không phải chỉ là bảo vệ các quyền của chúng ta từ dãy Vạn lý trường thành”.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đởi, tạo điều kiện cho Trung Quốc giải phóng đất nước vào năm 1949. Trong bối cảnh đó, Mao Trạch Đông lại đởa ra lý thuyết “vùng trung gian” hòng nắm trọn vùng này. Theo Mao, giữa Liên Xô và Mỹ tất yếu phải xảy ra chiến tranh. Hai bên sẽ tìm cách chinh phục “vùng trung gian” bao gồm phong trào giải phóng dân tộc ở ba lục đởa Á – Phi – Mỹ la tinh và các nước tư bản phương Tây. Ý đồ của Mao là trong khi đẩy Liên Xô và Mỹ đối đầu nhau, Trung Quốc tìm cách nắm trọn vùng này. Mao cho rằng đã đến lúc có thể thực hiện được mộng tưởng thống trị toàn thiên hạ, lấy chủ nghĩa Mao thay cho chủ nghĩa Marx – Lénine, làm cho Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, làm cho Trung Quốc trở thành trung tâm của thế giới, nắm quyền bá chủ toàn cầu. Chính Mao đã tuyên bố tại hội nghị quân sự mở rộng năm 1959: “Chúng ta phải chinh phục toàn thế giới. Mục tiêu của chúng ta là toàn trái đất, nhất địnhchúng ta phải thấm nhuần và thực hiện đến nơi đến chốn quyết tâm đó”.
Trong mưu đồ giành giật “vùng trung gian”, thì châu Á là nơi Bắc Kinh cho rằng có nhiều “ảnh hưởng” và “uy tín” hơn cả, dễ thực hiện âm mưu bá quyền bành trướng của chúng hơn cả. Một số nước châu Á có biên giới chung với Trung Quốc và đều nằm trong tay của Bắc Kinh. Nhưng phía Bắc và Tây Bắc của Trung Quốc là Liên Xô, một nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, không cho phép Bắc Kinh thực hiện chủ nghĩa bành trưởng của chúng một cách trực tiếp. Ở phía Đông Bắc có Nhật, một cường quốc kinh tế thế giới, một căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Bình Dương, không thể là đối tượng bành trướng trực tiếp được. Ở phía Tây Nam có Ấn Độ, với số dân 700 triệu, có nền kinh tế độc lập, đang thực hiện chính sách hòa bình trung lập tích cực và không liên kết, một đối tượng cứng rắn đối với chính sách bá quyền và bành trướngcủa Trung Quốc. Do vậy, Bắc Kinh đã chọn Đông Nam Á là nơi có những nước loại vừa và loại nhỏ làm hưởng bành trướngchủ yếu của mình.
Thôn tính Đông Nam Á, không phải vì đây là hưởng tối ưu nhất, cũng không chỉ vì vùng này giàu có về tài nguyên khoáng sản, mà điều quan trọng hơn là vì vùng này chiếm một vị trí chiến lượchết sức quan trọng. Đông Nam Á nằm trên đườnghàng hải quốc tế từ Đông Bắc Á, Thái Bình Dương sang Trung Đông, châu Âu và châu Phi. Giành đượcĐông Nam Á sẽ giành đượchơn 400 triệu dân. Lúc đó Trung Quốc sẽ có 1,4 tỷ người, và như vậy sẽ cô lập đượcẤn Độ, buộc Ấn Độ phải ngả vào vòng tay của đế quốc thiên triều; Trung Quốc sẽ có số dân chịu sự khống chế của mình tới trên 2 tỷ người. Và lúc đó chắc chắn bàn cờ thế giới không cần phải tính toán nhiều, mộng bá chủ thế giới sẽ đượcthực hiện!
Chính vì vậy, tháng 8-1965, Mao đã khẳng định trong một cuộc họp Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Chúng ta sẽ giành cho đượcĐông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore,… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản,… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy,… Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cườngđượcsức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đởơng đầu với khối Liên Xô – Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây”(34). Ngay trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, Mao cũng nói: “Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đởa quân xuống Đông Nam Á”(35).
Bành trướngxuống Đông Nam Á, Bắc Kinh còn có nhiều thuận lợi. Nơi đây không chỉ là khu vực bành trướngcổ truyền của Trung quốc, mà khu vực này có nhiều tổ chức Đảng Maoism(36), và chính nơi đây Bắc Kinh còn có lực lượng Hoa kiều, “Đội quân thứ năm sẵn sàng làm theo mệnh lệnh Trung Quốc”. Bành trướng xuống Đông Nam Á, Bắc Kinh còn có một “thuận lợi” rất lớn là dễ dàng liên kết đượcvới đế quốc Mỹ (từ 1972 Mỹ và Trung Quốc câu kết với nhau, sau khi Mỹ buộc phải rút khỏi vùng này, Mỹ sử dụng con bài Trung Quốc nhằm ngăn chận ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực).
Nhưng muốn bành trướngxuống Đông Nam Á, tập đoàn Bắc Kinh phải chiếm cho đượccái cầu Đông Dương. Đông Dương vừa là láng giềng trực tiếp, vừa là chiếc cầu nối liền từ Trung Quốc với các nước Đông Nam Á. Cho nên muốn thôn tính Đông Dương, phải phá vỡ đượckhối đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương. Và muốn phá vỡ tình đoàn kết chiến đấu keo sơn đó, thì phải tập trung mũi nhọn vào chống Việt Nam, đánh gãy ngọn cờ cách mạng và trục đoàn kết ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Về Việt Nam, thì từ lâu Bắc Kinh đã thực hiện mọi thủ đoạn thâm độc nhất, hòng làm Việt Nam không thắng, không bại, bị chia cắt lâu dài, làm nước đệm giữa Trung Quốc và chủ nghĩa đế quốc, không bao giờ mạnh lên được, và luôn luôn lệ thuộc vào chúng. Nhưng tất cả những mưu mô, thủ đoạn của Trung Quốc trong 30 năm qua đối với Việt Nam đều bị thất bại hoàn toàn(37).
Chính vì bị thất bại trong chính sách khuất phục Việt Nam, giới cầm quyền Bắc Kinh cố tìm mọi cách bám lấy Lào và Campuchia, dùng hai nước này khống chế, phá vỡ khối đoàn kết Đông Dương, tiến lên thôn tính toàn bộ bán đảo Đông Dương, bành trướng xuống Đông Nam Á.
Nhưng ở Lào, nhân dân Lào có một truyền thống đấu tranh kiên cườngbất khuất, và nhất là lại có một Đảng Nhân dân cách mạng Lào thực sự là một Đảng Marxism chân chính, kiên cườngcách mạng, kề vai sát cánh với nhân dân Việt Nam cùng chiến đấu, cùng chiến thắng, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Còn ở Campuchia, do những hoàn cảnh lịch sử, nhất là do âm mưu của bọn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, thủ tiêu hoàn toàn thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia qua hiệp địnhGénève, khiến cho Campuchia biến thành khâu yếu nhất trong phong trào giải phóng dân tộc trên toàn bán đảo Đông Dương(38). Tình hình Campuchia từ sau năm 1954 trở nên vô cùng phức tạp. Chính trong bối cảnh Campuchia như vậy, Bắc Kinh đã từng bướcnhảy vào, quyết duy trì tình trạng Campuchia là khâu yếu nhất, nhằm gạt dần ảnh hưởng tích cực của cách mạng Đông Dương ra khỏi Campuchia, tạo một chỗ đởng thuận lợi cho việc triển khai kế hoạch bành trướnglâu dài của chúng.
Để nhanh chóng xâm nhập vào Campuchia, trong tình hình Campuchia có nhiều thế lực đối lập nhau. Ngay từ đầu, chính sách của nhóm phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh là cùng một lúc nắm nhiều lực lượng, biến các lực lượng này thành những con bài trong tay chúng, và tùy theo tình hình diễn biến của cách mạng Đông Dương mà sử dụng con bài một cách thích hợp.
Trước hết chúng tán thành chủ trướng hòa bình trung lập của Sihanouk, muốn dùng chính quyền Sihanouk để khống chế và nắm các lực lượng khác ở Campuchia, không để Mỹ nhảy vào Campuchia, biến Campuchia lệ thuộc hoàn toàn vào mình. Từ những năm 1956-1957, Sihanouk đã đồng ý nhận viện trợ kinh tế, quân sự, kỹ thuật của Trung Quốc.
Ý đồ của Trung Quốc là muốn tạo nên tình hình hết sức căng thẳng ở Đông Dương, từng bước can thiệp sâu vào vùng này, biến Đông Dương thành món hàng “Vể mặc cả với Mỹ?. Ngày 17-8-1967, Chu Ân Lai tuyên bố với Ngoại trướng N.Phurissara(39) của chính phủ Sihanouk: “Chúng tôi sẵn sàng trong bất cứ lúc nào để tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Cần phải tăng cường công việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh của chúng tôi”(40).
Đồng thời với viện trợ kinh tế, quân sự, Bắc Kinh đã sử dụng cộng đồng người Hoa ở Campuchia  làm sức ép với chính quyền Sihanouk. Chúng biến sứ quán Trung Quốc tại Phnom Penh thành trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động của Hoa kiều trên toàn cõi Đông Dương(41).
Trung Quốc chơi con bài Sihanouk không chỉ để nắm Campuchia, mà còn dùng Sihanouk làm loa tuyên truyền để nói xấu Liên Xô, đề cao công lao to lớn của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Đồng thời với việc sử dụng con bài Sihanouk, Bắc Kinh đã chơi con bài Lon Nol. Lon Nol và phe cánh là lực lượng cực hữu thân Mỹ. Bắc Kinh đã tìm thấy ở tên tư sản mại bản gốc Hoa này sức mạnh của Mỹ và đường lối chống Việt Nam, bành trướng lãnh thổ. Điều đó rất phù hợp với Trung Quốc, nên Bắc Kinh đã tìm mọi cách nắm lấy Lon Nol, sử dụng Lon Nol tạo nên sự khống chế gián tiếp của Trung Quốc đối với Sihanouk.
Cùng lúc với việc sử dụng hai con bài chính Sihanouk và Lon Nol để chống cách mạng Đông Dương, Trung Quốc đã chơi con bài thứ ba, bọn lưu manh chính trị Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan. Đây là nước cờ hết sức thâm hiểm mà Bắc Kinh cố công thực hiện, hòng xoay chuyển lại tình thế cách mạng đang tiến triển tốt đẹp ở Đông Dương.
Dưới con mắt của Bắc Kinh, các con bài của chúng ở Campuchia đều chống Việt Nam, nhưng kết quả chống Việt Nam của bọn Pol Pot – Ieng Sary sẽ vô cùng hiệu nghiệm, bởi vì khác những tên tay sai khác, Pol Pot – Ieng Sary có cái vỏ bọc “cộng sản”, có điều kiện thuận lợi để thi hành chính sách hai mặt: dựa vào Việt Nam, tranh thủ sự giúp đở của Việt Nam và ngấm ngầm chống Việt Nam – sự phá hoại nguy hiểm nhất chính là của “người bạn cùng chiến hào”. Vì vậy Bắc Kinh đã nắm chặt bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan.
Từ khi trở về nước, cho đến khi thành công trong việc tiếm quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Campuchia năm 1963, bọn chúng vẫn che giấu đượcý đồ đen tối: chống phá cách mạng Campuchia, chống Việt Nam. Ý đồ biệt lập, gạt ảnh hưởng cuộc cách mạng Việt Nam, từng bước thủ tiêu những người cộng sản chân chính, tiến lên thao túng toàn Đảng đã lộ rõ nét nhất từ khi chúng bắt gặp đượcchủ nghĩa Mao – chủ nghĩa bá quyền bành trướng Trung Quốc vào năm 1965.
Bắc Kinh đã tìm được ở bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan những nét tưởng đồng với mình, như thủ đoạn giả hiệu cách mạng để chống lại cách mạng, tính cực đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đậm màu sắc vị chủng. Đây là quan hệ sâu xa nhất tạo nên mối quan hệ thầy – tớ giữa Bắc Kinh và bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan. Đượctiếp xúc với không khí cuộc “cách mạng văn hóa” của Trung Quốc khiến cho Pol Pot nhanh chóng tiếp thu những mặt phản động nhất của chủ nghĩa Mao đã và đang áp dụng ở Trung Quốc. “Nhưng tính chất sát nhân của Hồng vệ ninh Mao chỉ là trò chơi trẻ con nếu đem ra so sánh với những đội xử tử do Pol Pot đưa ra”. Từ 1967 chúng bắt đầu phê phán, chỉ trích Việt Nam. Chính trong cuốn “Sách đen” xuất bản năm 1977, Pol Pot đã công khai nói rằng ngay từ năm 1965, giữa Campuchia và Việt Nam có mâu thuẫn  cơ bản về đườnglối!
Ngày 18-3-1970, Lon Nol tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Sihanouk. Trong sự nghiệp chung chống đế quốc Mỹ và tay sai, cùng với các lực lượng yêu nước và cách mạng Campuchia, bộ đội Việt Nam đã giúp cách mạng Campuchia giải phóng nhiều tỉnh, thành. Vùng giải phóng đã lan dần tới 3/4 diện tích toàn quốc. Tháng 8-1970, Pol Pot từ Bắc Kinh về nước, với tư cách Tổng Bí thư, Pol Pot triệu tập Đại hội Đảng lần thứ III vào tháng 10-1970 nhằm chính thức hóa việc tiêu diệt các lực lượng cách mạng ở trong nước. Mục tiêu thanh toán hàng đầu của chúng là lực lượng “51”(43), tức những cán bộ cách mạng Campuchia từ Việt Nam trở về, và những người có quan hệ với cách mạng Việt Nam. Pol Pot đặt ra khẩu hiệu “vừa đánh, vừa xây”. “?ánh” là để tiêu diệt các lực lượng cách mạng, “xây” là tập trung quyền lực vào tay Pol Pot, thay đổi lại bộ mặt vùng giải phóng bằng hệ thống kìm kẹp tàn bạo của mình.
Cuối năm 1971, Trung Quốc đã chỉ đạo cho Pol Pot ra sức phản đối Hội nghị cấp cao Nhân dân Đông Dương. Mặt khác, bọn Pol Pot đẩy mạnh hơn nữa việc thi hành chính sách hai mặt đối với Việt Nam. Chúng vừa đuổi lực lượng Việt Nam về nước, rồi yêu cầu giúp đở khi bị tấn công; vừa tiến hành tập kích, tiêu diệt lực lượng Việt Nam, cướp vũ khí, lượng thực, kho tàng, rồi đổ lỗi cho nhầm lẫn, binh lính vô kỷ luật hoặc bảo rằng do quân Lon Nol giả dạng,… gây rất nhiều khó khăn cho cách mạng Việt Nam.
Trong tình thế cách mạng Đông Dương ngày càng giành được nhiều thắng lợi to lớn, đế quốc Mỹ thua to, bế tắc ở Đông Dương. Trung Quốc đã đẩy mạnh âm mưu chuẩn bị thế chân Mỹ khi Mỹ thất bại hoàn toàn ở vùng này. Bắc Kinh đã thi hành hàng loạt thủ đoạn đê hèn không cho cách mạng Việt Nam, Lào giành thắng lợi cuối cùng(44). Ở Campuchia, Bắc Kinh tăng cường sử dụng bọn Pol Pot – Ieng Sary hơn nữa, nhằm biến Campuchia thành một căn cứ phản cách mạng do Trung quốc điều khiển, nằm ngay trong lòng các nước Đông Dương, trư?c hết tập trung chĩa mũi nhọn vào sườn phía Tây Nam của Việt Nam.
Để thực hiện ý đồ đen tối trên, Bắc Kinh đã cho Pol Pot – Ieng Sary tiến hành làm “trong sạch cách mạng”, tập trung nhân dân các vùng giải phóng vào các “hợp tác xã” theo mô hình của Mao, biến vùng chúng kiểm soát thành một trại tập trung trá hình, tiến hành các biện pháp tàn bạo nhất, bắt đầu diệt chủng ở vùng giải phóng. Song song, chúng khuyến khích bọn Pol Pot đẩy mạnh chiến tranh du kích, tạo ra một sức ép thưởng xuyên đối với các vùng đô thị do Lon Nol kiểm soát, đẩy nhân dân vào cơn lốc khủng bố và tàn sát.
Lợi dụng thắng lợi quyết định của cách mạng ở Việt Nam và Lào vào đầu năm 1975, chúng huy động tối đa lực lượng, mở những đợt tấn công cuối cùng vào Phnom Penh với ý đồ giành thắng lợi trư?c cách mạng Việt Nam và Lào, để chủ động chuẩn bị những hành động chống lại Việt Nam và Lào(45).
Thắng lợi vẻ vang của nhân dân trên bán đảo Đông Dương không chỉ làm cho đế quốc Mỹ bị thất bại thảm hại, mà đó còn là thất bại đau đớn cho chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Bắc Kinh. Không cam chịu thất bại trong mưu đồ chiến lược thôn tính các nước Đông Dương, chúng đã điên cuồng chống lại cách mạng Đông Dương. Một “thuận lợi to lớn” cho chúng là bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan đã giành được toàn bộ thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia. Từ đởa bàn chiến lượcnày Bắc Kinh mưu tính những âm mưu và thủ đoạn nhất để biến Đông Dương thành chư hầu của chúng.
Theo chỉ thị của Bắc Kinh, bọn Khmer đỏ – Campuchia dân chủ của Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan đã tập trung toàn bộ sức lực để tấn công Việt Nam, khẩu hiệu của chúng là “Tất cả vì tiền tuyến, vì đánh Duôn!”. Muốn làm được như vậy, chúng đã tiến hành phá nát đất nước Campuchia, biến Camphia thành một nhà tù, một trại lính khổng lồ, với cuộc diệt chủng tàn bạo có một không hai trong lịch sử Campuchia(46). Đồng chí Trường Chinh đã nhận xét: “Chúng còn mưu đồ biến Campuchia thành một vị trí xuất phát cho cuộc chiến tranh xâm lược của Bắc Kinh chống Việt Nam với hai mũi tiến công: từ phía Bắc đánh xuống bằng đại quân Trung Quốc và từ Tây Nam đánh lên bằng quân đội của bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary. Mũi đánh vòng chiến lược ở phía Tây Nam này là một ngọn đòn ác hiểm giáng vào sườn nhân dân ta”(47).
Quá trình tấn công Việt Nam của bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary(48) được thực hiện từng bước, phụ thuộc vào kế hoạch chống Việt Nam của giới cầm quyền Bắc Kinh. Trung Quốc quyết đánh Việt Nam tới người Campuchia cuối cùng, cũng như đã từng đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng.
Năm 1975, bọn Pol Pot chưa dám gây ra những cuộc tấn công quy mô lớn vào lãnh thổ Việt Nam, bởi lẽ:
  • Chúng còn gặp khó khăn trong việc thanh trừng nội bộ:
  • Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh, trong tháng 4-1975, do bất đồng ý kiến nên Hou Youn bị cách chức Bộ trướngBộ Nội vụ, Chou Chet bị cách chức Bí thư Khu Tây Nam.
Hou Youn bị bắt tra tấn, phải tự sát trong trung tâm tra tấn Tuol Sleng vào tháng 8-1975. Còn Chou Chet bị bắt rồi giết vào 26-3-1978.
  • Cuối năm 1976, khi cuộc thanh trừng diễn ra rầm rộ, hai trong những đối thủ hàng đầu của Pol Pot là Keo Moni và Nong Suol bị bắt.
Năm 1977, thủ tiêu Hu Nim Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền; Tok Phuol Bộ trưởng Bộ Công Chính. Coi Thuon Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thương mại, và Duol Tư lệnh Quân khu Tây Bắc.
  • Sau này do những hành động chống đối vào tháng 5-1978 của So Phim, Bí thư Khu Đông, Phó Chủ tịch Quốc hội. Pol Pot cử Son Sen(49) và Ta Mok(50) đem quân tấn công quy mô lớn vào Khu Đông tàn sát tất cả các cán bộ, binh lính và cả dân thưởng ở khu này để tiêu diệt tận gốc. Bị đánh bại, So Phim tự sát không để bị bắt.
Trợ lý đắc lực cho Pol Pot – Ieng Sary trong những đởt thanh trừng, thanh lọc là Son Sen (Bộ trướngBộ Quốc phòng), Nuon Chea (Chủ tịch Quốc hội), Ta Mok (Bí thư Khu Tây Nam) và Kaing Khek Iev(51) (còn gọi là anh Deuch - Phụ trách Cảnh sát mật kiêm Giám đốc Nhà tù – trung tâm tra tấn Tuol Sleng).
Trong một danh sách tìm được, thấy ghi tên 242 cán bộ cao cấp bị chúng giết hại từ năm 1976 đến ngày 09-4-1978. Trong số này có hai Ủy viên Trung ư?ng Đảng, bốn Bí thư khu, 24 Bí thư và Ủy viên vùng, bốn Bộ trưởng, năm Thứ trưởng, chín Ủy viên bộ, tám Chính ủy và Phó Chính ủy sư đoàn và một số đại sứ được gọi về nước,… Trừ phái Pol Pot và sau này có thêm Nuon Chea, Ta Mok ra, toàn bộ giới lãnh đạo của cuộc cách mạng những năm 1970-1975 đã bị quét sạch: trong số 17 người cộng sản giữ chức vụ trong chính phủ trung ư?ng năm 1975-1976, chỉ năm người đượcbiết còn sống sót vào cuối năm 1978; và trừ Pol Pot, Ta Mok, không có Bí thư Khu vực nào của Đảng còn sống sót.
  • Mặt khác thời gian này, Bắc Kinh còn thực hiện chính sách hai mặt đối với Việt Nam: vừa giấu mặt chống Việt Nam, vừa cố ép Việt Nam đi vào quỹ đạo của chúng. Chính vì vậy, trong thời gian này, Pol Pot cũng đã thi hành chính sách hai mặt đối với Việt Nam. Trong khi tổ chức nhiều cuộc tấn công vào biên giới Việt Nam, vẫn tỏ ra “biết ơn sự giúp đở quý báu của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho cách mạng Campuchia”(52).
Nhưng từ cuối năm 1976 trở đi, Bắc Kinh đã nhận thấy chính sách “hai mặt” của chúng khó có hiệu quả và ở Campuchia, Pol Pot đã siết chặt đượcnền thống trị của chúng, thì Bắc Kinh đã đồng ý để Pol Pot đẩy mạnh hơn nữa các cuộc tấn công vào Việt Nam. Tháng 4-1977, chúng đã tấn công toàn tuyến biên giới và có nơi sâu vào lãnh thổ Việt Nam 30 km, gây nên những tội ác vô cùng dã man đối với nhân dân ở các tỉnh biên giới. Với những cuộc tấn công này, đụng độ biên giới đã trở thành cuộc chiến tranh biên giới thật sự.
Để cho bọn tay sai của mình có đủ “sức mạnh” tấn công xâm lược Việt Nam, Trung Quốc đã tăng cườngviện trợ cho “Campuchia dân chủ? và rêu rao rằng đó là biện pháp tất yếu để Campuchia chống lại “sự xâm lăng của các nước láng giềng”(53).
Trung Quốc còn giúp cho Pol Pot – Ieng Sary tăng cường xây dựng quân đội, tăng quân số từ bảy sư đoàn ở năm 1975 lên 23 sư đoàn vào năm 1978 (từ 50.000 lên 130.000 quân). Đặc biệt chúng làm biến chất quân đội, chỉ có hai nhiệm vụ: tàn sát những người dân vô tội, những người chống đối trong nước và tiến hành tấn công, tiêu diệt người Việt Nam. Về tư tưởng, Pol Pot ra sức tuyên truyền kích động “hận thù dân tộc”, gọi Việt Nam là “kẻ thù số một”, “kẻ thù truyền kiếp”. Đỉnh cao là việc chúng cho xuất bản cuốn “Sách đen” vào tháng 9-1977, nhằm bôi nhọ sự thật lịch sử, kêu gào tiêu diệt toàn bộ giống nòi Việt Nam.
Tháng 8-1978, nhằm mục đch giúp Pol Pot – Ieng Sary dốc toàn bộ lực lượng vào chiến tranh tiêu diệt Việt Nam, Trung Quốc đang ra hòa giải làm bình thường hóa cho mối quan hệ căng thẳng giữa Campuchia – Thái Lan. Đại bộ phận quân đội Pol Pot – Ieng Sary đóng trên vùng biên giới Campuchia – Thái Lan được tập trung về biên giới Campuchia – Việt Nam.
Đượcsự chỉ đạo trực tiếp và ủng hộ mạnh mẽ của nhà cầm quyền Bắc Kinh từ phía sau, bọn Pol Pot đã đẩy mạnh cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam tới một mức độ ác liệt nhất((54)  Khi Wilfred Burchett hỏi: “Làm thế nào để một nước Campuchia khi đó có 5-6 triệu dân dám nghênh chiến với một nước Việt Nam đã từng dày dạn chinh chiến có tới hơn 50 triệu dân?”. Đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao Việt nam đặt lại câu hỏi: “Vì sao một nước Israel có 3 triệu dân lại dám xâm lăng một nước Ai Cập có tới 35 triệu dân? Bởi vì Khmer đỏ được bảo đảm rằng sau lưng chúng là cả 800 triệu người Trung Quốc, cũng như Israel có cả sức mạnh của Hoa kỳ làm chỗ dựa” – TGĐT.54).
Bước vào năm 1978, Bắc Kinh công khai chống Việt Nam, bằng nhiều thủ đoạn cực kỳ hèn hạ,… Nhưng tất cả cái gọi là chiến dịch “nở hoa” tấn công vào Việt Nam một cách toàn diện trong cùng một thời gian trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự,…((55)  Xem thêm Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd.55) đều bị thất bại thảm hại, buộc tập đoàn maoist Bắc Kinh phải quyết định tấn công quân sự vào Việt Nam.
Do những tính toán sai lầm của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, cuộc tiến công đại quy mô của chúng vào biên giới Tây Nam Việt Nam phải trả giá bằng cuộc phản công tự vệ quyết liệt của các lực lượng vũ trang Việt Nam. Bằng những cuộc phản kích có hiệu quả, lực lượng vũ trang Việt Nam đã tiêu diệt các lực lượng tham chiến của Pol Pot ngay trên đất Việt Nam, sau đó kết hợp với lực lượng vũ trang của những người yêu nước Campuchia, nhanh chóng chuyển sang tiến công bọn chúng trên đất Campuchia, tiêu diệt quân đội Pol Pot – Ieng Sary ngay tại nơi xuất phát của chúng. Thắng lợi của quân đội Việt Nam, tạo điều kiện cho nhân dân Campuchia vùng dậy giành chính quyền về tay mình.
Bắc Kinh ngạo mạn tuyên bố: “đánh sập huyền thoại bách chiến bách thắng của Việt Nam”, “dạy cho Việt Nam một bài học”. Nhưng chính thất bại thảm hại ở gọng kìm Tây Nam, đã làm cho gọng kìm chính diện phía Bắc  trở nên trơ trọi, đơn độc và cuối cùng bị thất bại hoàn toàn((56)  Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam ngày 17-02-1979 – Và nhận xét của Wilfred Burchett: ”Trên mặt trận chính, cửa ải Lạng Sơn, các đơn vị chính quy Trung Quốc chỉ tiến được 16 km  trong 16 ngày đánh nhau với bộ đội biên phòng và dân quân địa phương. Cho tới nay, đây là cuộc tiến quân chậm chạp nhất – dù cho đã có xe tăng và xe vận tải thay thế cho ngựa và lính bộ chân đất – trong toàn bộ 2.000 lịch sử Trung Quốc xâm lược Việt Nam”.56). Hơn 600.000 quân Trung Quốc với đầy đủ trang bị hiện đại đã phải rút về nước và ngày 05-3-1979, giới cầm quyền phản động Bắc Kinh buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam.
Một thực tế lịch sử chứng minh rằng, dù giới cầm quyền Bắc Kinh có sử dụng bất kỳ thế lực phản động tay sai nào nhằm tấn công chống lại cách mạng Đông Dương cuối cùng cũng nhất định sẽ bị chính sức mạnh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương đánh bại.
Chính vì mộng tưởng làm bá chủ thiên hạ, giới cầm quyền phản động Bắc Kinh đã không từ bất kỳ một thủ đoạn thâm hiểm, độc ác nào để thực hiện cho bằng được mục đch ngông cuồng của mình, nhưng chúng đã hoàn toàn thất bại. Bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan đã bị nhân dân Campuchia vùng dậy lật đổ. Nhưng giới cầm quyền phản động Bắc Kinh đã đặc biệt độc ác khi chỉ đạo, ủng hộ bọn tay sai của mình tiến hành chính sách diệt chủng chống lại nhân dân Campuchia, tiêu diệt toàn giống nòi Việt Nam, tàn sát những dân tộc thiểu số trong nước và giết hại những dân tộc láng giềng.
_3. TỘI ÁC CỦA TẬP ĐOÀN PHẢN ĐỘNG POL POT – IENG SARY CHỐNG NHÂN DÂN VIỆT NAM LÀ TỘI ÁC DIỆT CHỦNG
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan của bọn Pol Pot – Ieng Sary đã được chủ nghĩa bá quyền, bành trướng Đại Hán nhân lên gấp bội. Chính vì vậy, bọn Pol Pot – Ieng Sary đã coi “Việt Nam là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu”, chúng ra “Sách đen“(57) tuyên truyền kích động “hận thù dân tộc”, điên cuồng hơn nữa chúng kêu gào: “Toàn thể giống nòi Việt Nam phải được coi là kẻ thù”, kêu gọi mỗi người Campuchia phải tiêu diệt được 30 người Việt Nam, để có thể tiêu diệt hoàn toàn dân tộc Việt Nam với 60 triệu người.
Với ý tưởng điên rồ đó, bằng mọi cách bọn Pol Pot – Ieng Sary đã thực hiện cho bằng được mưu đồ tiêu diệt dân tộc, tiêu diệt đất nước Việt Nam. Ngay từ những năm đầu của thập niên 1970, chúng đã tiến hành những chiến dịch tàn sát hàng vạn Việt kiều tại Campuchia, tiêu diệt các đơn vị vũ trang Việt Nam đang giúp đỡ chúng. Và khi chiếm được quyền thống trị ở đất nước Campuchia, chúng từng bước xâm phạm biên giới Việt Nam, cuối cùng để “tiêu diệt Việt Nam ngay trên đất Việt Nam”, chúng ra sức tuyên truyền vu khống, tạo cớ phát động một cuộc chiến tranh toàn diện nhằm tiêu diệt toàn bộ giống nòi Việt Nam. Bọn chúng đã thực hiện tội ác với những cách thức giết người tàn bạo dã man nhất mà thời trung cổ và kể cả bọn phát xít Hitler còn chưa sánh kịp.

Trong CÔNG ƯỚC VỀ NGĂN NGỪA VÀ TRỪNG TRỊ TỘI DIỆT CHỦNG được Liên hợp quốc thông qua và các nước trên thế giới ký kết ngày 09-12-1948, ở Điều 2 ghi rõ: “Trong công ước này, diệt chủng có nghĩa là bất kỳ những hành vi nào cố ý tiêu diệt toàn bộ hay một phần, một dân tộc, chủng tộc, sắc tộc hay một nhóm tôn giáo”. Và, ở Điều 3 quy định: “Những hành vi sau đây sẽ bị trừng trị: a) Diệt chủng; b) Âm mưu phạm tội diệt chủng; c) Kích động trực tiếp và công khai để phạm tội diệt chủng; d) Cố tình phạm tội diệt chủng; e) Đồng phạm tội diệt chủng”. Căn cứ vào các Điều quy định của Công ước, thì những âm mưu và hành vi tội ác của bọn chúng Pol Pot – Ieng Sary đã gây ra đối với nhân dân Việt Nam chính là TỘI ÁC DIỆT CHỦNG.
Đồng thời, nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng phải chịu trách nhiệm vì đã ủng hộ, giúp đỡ, xúi giục, che chở cho chế độ khát máu này chống lại nhân dân Việt Nam. Bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan cùng giới lãnh đạo Bắc Kinh đã phạm phải những tội ác tày trời chống lại loài người.

PHẦN KẾT LUẬN
Từ khi phải rút lui một cách bắt buộc khỏi Đông Dương, Mỹ đã tận dụng mọi khả năng để làm mất ổn định khu vực này, gia tăng mọi nhân tố có thể làm cho nước Việt Nam chiến thắng phải sụp đổ. Mỹ và Trung Quốc cuối cùng cũng đã tìm thấy cơ sở để hợp tác trong lĩnh vực đối ngoại. Mối quan tâm của Trung Quốc trong việc làm cho những người láng giềng phía Nam suy yếu để thực hiện mưu đồ bành trướng của mình, đã đưa Trung Quốc đến chỗ câu kết với kẻ thù không đội trời chung trước kia của họ là Mỹ. Kết quả là hai cường quốc to lớn này – một “đất nước anh hùng của xã hội chủ nghĩa” và một “con hổ giấy”(1) – đã chung sức ủng hộ và bảo vệ chế độ Pol Pot – Ieng Sary ở Campuchia, một bọn khủng bố, diệt chủng. Mọi tội ác của bọn Quốc xã Hitler đều được bọn Khmer đỏ lặp lại và lặp lại “có sáng tạo”, phát minh thêm nhiều cái mới. Hitler và những tên Quốc xã khác đều là những tên đồ tể, hiện thân của những gì được coi là tột cùng của cái ác trong thời đại chúng ta. Thế nhưng, tội ác của chúng vẫn chưa thấm tháp vào đâu nếu đem so với những tội ác của Khmer đỏ do bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan cầm đầu:
  • Hitler đã cố tiêu diệt người Do Thái, người Slave, người Zigal và những người “không thuộc giống Aryan” khác. Còn Pol Pot thì quyết tâm tiêu diệt không chỉ người Việt Nam, người Hoa, người Chăm theo đạo Hồi và các nhóm người theo thiểu số khác, mà cả những người thuộc giống Khmer của chính bản thân hắn.
  • Hitler bắt người từ Pháp, Ba Lan và các nước khác làm nô lệ và buộc họ làm việc đến chết trong các trại lao động. Còn Ban lãnh đạo Khmer đỏ thì lại biến đất nước thành một trại tập trung khổng lồ.
  • Hitler đốt cháy và làm ô uế các giáo đường Do Thái, ngược đãi các nhóm tôn giáo. Còn Khmer đỏ thì lại đàn áp mọi hình thức lễ bái tôn giáo. Bọn chúng biến nhà chùa đạo Phật, thánh đường đạo Hồi và nhà thờ đạo Thiên Chúa thành các trung tâm tra tấn, thành chuồng lợn, thành kho chứa, hoặc đơn giản hơn là phá tan tành.
  • Hitler đốt sách của các nhà văn chống phát xít. Còn Pol Pot và bè lũ thì đốt tất cả các sách vở và thư viện, chà đạp lên mọi di tích truyền thống và nền văn hóa Campuchia.
  • Hitler tìm cách dồn phụ nữ Đức trở lại vai trò “bếp núc, nhà thờ và con cái”. Còn Khmer đỏ thì tách vợ khỏi chồng, cha mẹ khỏi con cái, và thủ tiêu hoàn toàn cuộc sống gia đình.
  • Hitler dùng phòng hơi ngạt để giết hàng loạt người và để che giấu tội ác này, chúng phải tiến hành tội ác bí mật trong các trại giam hẻo lánh, xa nơi dân cư. Bọn Pol Pot đã trắng trợn, công khai tiến hành tội ác ngay ban ngày ban mặt, tàn sát con người  bằng những cách thức cực kỳ vô nhân đạo, mà không sợ mọi người nhìn thấy.
Thực chất chế độ Pol Pot – Ieng Sary là “một nền độc tài phát xít đẫm máu kết hợp với một nền độc tài thời phong kiến trung cổ, đội lốt chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy bọn đao phủ Pol Pot – Ieng Sary, tay sai của Bắc Kinh, đã đồng thời phạm hai tội ác liên quan chặt chẽ với nhau: diệt chủng chống nhân dân  Campuchia và gây chiến tranh xâm lược nhằm diệt chủng dân tộc Việt Nam.
Pol Pot – Ieng Sary phải được xếp vào số những tội nhân lớn nhất trong lịch sử. Chế độ đáng kinh tởm của nó đã ghi vào lịch sử thế giới những dòng chữ khủng khiếp không bao giờ phai mờ.
Thế giới ngày nay trong bối cảnh trật tự cũ đã tan vỡ, trật tự mới chưa hình thành rõ ràng. Các thế lực đế quốc, các nước lớn chẳng những không từ bỏ mà còn đeo đuổi những mục tiêu riêng nhằm giành quyền bá chủ toàn cầu, buộc các nước nhỏ hơn phải phục tùng ý chí của chúng. Xưa kia, chúng đi xâm chiếm thuộc địa và vơ vét tài nguyên của các nước khác, chúng viện cớ đi truyền bá đạo Thiên chúa và “khai hóa văn minh” cho những dân tộc “mọi rợ”. Những giá trị đó nay đã lỗi thời, giờ đây chúng đưa ra những giá trị mới để thế giới phải tuân theo, như giá trị: “dân chủ”, “nhân quyền”, “nhân đạo”, “kiến tạo hòa bình”, “tự do hóa thương mại”,… Chúng bất chấp luật pháp quốc tế, lợi dụng ưu thế về quân sự và thực lực kinh tế hùng mạnh để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền.
Vấn đề là ở chỗ, các thế lực đế quốc, nước lớn trên thế giới ngày nay, một khi vì lợi ích riêng của mình, họ không ngần ngại sử dụng, xúi giục, che chở, bảo vệ bọn phản động, bọn đao phủ trước dư luận thế giới, để bọn chúng thực hiện mọi tội ác, cho dù tội ác đó chống lại loài người. Việc vạch trần tội ác diệt chủng của bọn Pol Pot – Ieng Sary đối với nhân dân Việt Nam nhằm nhắc nhở tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp chính nghĩa vì sự tiến bộ xã hội, và lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới về những quá khứ khủng khiếp mà nhân dân Việt Nam đã chịu đựng, để những tội ác này không còn có cơ hội xảy ra ở bất cứ nơi đâu trên trái đất. Đồng thời nhắc nhở mọi người Việt Nam luôn cảnh giác đối với các lực lượng thù địch còn đang rình rập vẫn còn kêu gào chống lại dân tộc Việt Nam, giết hại người Việt Nam. Sao cho những điều khủng khiếp tương tự như đã xảy ra ở Ba Chúc vào năm 1978 sẽ không bao giờ được phép tái diễn, bất cứ nơi đâu đối với dân tộc Việt Nam.
Quá khứ thì đã khép lại để chúng ta hướng về tương lai, nhưng những gì đã diễn ra ở Ba Chúc, Hà Tiên, Tây Ninh,… tất cả chúng ta không bao giờ được quên./.

NGUYỄN ĐOÀN BẢO TUYỀN
_____________________________

(32)  Theo nhà nghiên cứu Ben Kirnan, trong năm 1973, một tiểu ban của Thượng nghị viện Mỹ đã thống kê, chiến tranh ở Campuchia đã tạo nên 3.368.000 người tị nạn trong tổng số 7 triệu người.
(33)  Sách trắng Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam – Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua – sđd, tr. 13.
(34) (35)  Sách trắng Bộ Ngoại giao nươc CHXHCN Việt Nam – Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua –  sđd, tr. 14.
(36)  Các đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mao, đ?ợc Trung Quốc giúp đở ở Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines,… - TGĐT.
(37) (38)  Xem thêm Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd.
(39)  Anh họ của Sihanouk, sau 1975 giữ chức Bộ trưởng Tư pháp bù nhìn cho Chính phủ Campuchia dân chủ, năm 1977 bị bọn Pol Pot thủ tiêu. – TGĐT.
(40)  Tìm hiểu lịch sử – văn hóa Campuchia (tập 1) – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1983, sđd, tr. 117.
(41)  Ở Campuchia, trư?c năm 1975 có 400.000 ngư?i Hoa, chiếm 5% dân số, nhưng nắm trong tay 98% các cơ sở công nghiệp - P.TS Trần Khánh Vai trò ngư?i Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á – Viện Khoa học xã hội Việt Nam-Viện Đông Nam Á học – Hà Nội 1992.
(43)  Những cán bộ, đảng viên kỳ cựu của Đảng Pracheachon từ khi Đảng mới thành lập vào năm 1951 – TGĐT.
(44)  Xem thêm Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd.
(45)  Thật sự chúng đã làm như vậy ngay sau 17-4-1975 đối với phần lãnh thổ của Việt Nam – TGĐT.
(46)  Xem thêm Tội ác diệt chủng của Pôn Pốt – Iêng Xary –  sđd.
(47)  Trường Chinh – Về vấn đề Campuchia – NXB Sự Thật – Hà Nội, 1979, tr.13.
(48)  Đã được rrình bày ở Chư?ng II – TGĐT.
(49)  Son Sen đã học ngành Sư phạm tại Paris, từng giữ chức vị lãnh đạo tại Trường Đại học Sư phạm Phnom Penh thời Sihanouk. Chính vợ chồng tên đồ tể Son Sen – Yun Yat này cùng toàn bộ gia đnh gồm 11 người, lại bị Pol Pot ra lệnh tàn sát vào 10-6-1997 – TGĐT.
(50)  “Tên đồ tể? Ta Mok, sinh khoảng năm 1927, tại xã Tropeng Thom, huyện Tram Koh, tỉnh Takev. Tham gia chống Pháp trong phong trào Israk (tổ chức của ngững ngư?i cộng sản Khmer trong Đảng Cộng sản Đông Dư?ng). Ngày 20-3-1976, giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội Campuchia dân chủ. Từ tháng 11-1978, làm Phó Bí thư thứ hai Đảng Cộng sản Campuchia, phụ trách các vùng nông thôn. Ngoài ra còn giữ chức Tổng Tham mưu trưởng quân đội Campuchia dân chủ.
Hắn bị quân đội Chính phủ Hoàng gia Campuchia bắt ngày 06-3-1999 ở gần Anlong Veng thuộc vùng biên giới giáp Thái Lan.
(51)  Kaing Khek Iev – anh Deuch, con một gia đnh nông dân nghèo tỉnh Kampong Thom, là một học sinh xuất sắc nên đ?ợc chọn vào học Trường Lycee Sisowath tại Phnom Penh. Năm 1959, Duech đ?ng thứ hai trong kỳ thi học sinh giỏi cấp III toàn quốc. Sau đỗ thủ khoa về ngành toán ở trưởng đại học. Trở về Kampong Thom làm Phó Hiệu trư?ng và dạy toán tại một trường phổ thông. Năm 1967, bị Sihanouk bỏ tù ba năm vì chống chính phủ. Sau khi ra tù, Deuch vào rừng theo Khmer đỏ. Dưới thời Pol Pot, hắn phụ trách nhà tù – trung tâm tra tấn Toul Sleng, nơi đây khoảng 20.000 ngư?i đã bị sát hại, sau khi chế độ diệt chủng Khmer đỏ sụp đổ, hắn thay tên đổi họ và chui vào làm việc cho một tổ chức cứu trợ của tôn giáo ở tỉnh Batdambang. Hắn bị Chính phủ Vư?ng quốc Campuchia bắt ngày 08-5-1999 – TGĐT.
(52)  Diễn văn của Pol Pot ngày 03-02-1976.
(53)  Trong đợt truy quét bọn tàn quân Khmer đỏ, bắt hụt Pol Pot và Ieng Sary ở Ta Sanh hồi tháng 3-1979, quân tình nguyện Việt Nam và quân đội cách mạng Campuchia thu được nguyên vẹn toàn bộ kho lưu trữ của Khmer đỏ. Có những tài liệu nói về việc cung cấp vũ khí, cố vấn,… của Trung Quốc cho Campuchia dân chủ. Ví dụ:
      Từ tháng 10-1975 sẽ chuyển giao 13.300 tấn vũ khí gồm súng ống, đạn dư?c, xăng dầu và xe cộ.
      Bản dự thảo chuyển giao vũ khí từ 1976 tới cuối năm 1978 gồm: pháo phòng không, radar, tàu hộ tống, tàu phóng ngư lôi, xe tăng, pháo binh, thiết bị thông tin, thiết bị công binh, máy bay chiến đấu, máy bay ném bom,… Phương thức vận chuyển bằng đường biển và giao tại cảng Kompong Saom. Việc cung cấp cố vấn để lắp ráp lại và hướng dẫn sử dụng vũ khí. Những chi tiết kỹ thuật và có nêu những khó khăn đối với Trung Quốc trong việc chuẩn bị văn bản bằng tiếng Campuchia, đặc biệt Trung Quốc phàn nàn việc thiếu người Campuchia làm phiên dịch tiếng Hoa,… - Xem thêm Uyn-phrết Bớc-sét – Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam, sđd, tr. 200-205.
(57)  Các tác giả của “Sách đen” thể hiện sự dốt nát của chúng đối với những gì đã toát ra từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Chúng không trực tiếp chiến đấu cùng nhân dân. Với cách gọi “Việt Nam –kẻ thù số một”, chúng đã nhập chung lại với nhau: các thế lực cầm quyền phong kiến Việt Nam, Việt Minh và “Việt Cộng” (bạn chiến đấu của Campuchia chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) cùng chế độ bù nhìn Sài Gòn (mà cả Việt Minh và “Việt Cộng” đã anh dũng chiến đấu chống lại). Phản ánh nhận thức chính trị thấp kém và định kiến chống Việt Nam tới mức cuồng dại của Ban lãnh đạo Pol Pot – Ieng Sary.
   Ben Kirnan và Chantha Bua nhận xét: “Sách đen là hoàn toàn nhảm nhí”.
(1)  Những từ ngữ mà giới lãnh đạo Bắc Kinh giành cho Trung Quốc và dành cho kẻ thù đế quốc Mỹ của họ trước đây – TGĐT.
Nguồn: VCV

No comments:

Post a Comment