Trang

Tuesday, May 28, 2013

CÁC DI BẢN ĐỜI TÂY SƠN Ở LƯƠNG XÁ KHÔNG NÓI VỀ ĐÔ ĐỐC LONG

I- Bất cứ ai đọc sử Tây Sơn,nhất là người Hà Nội, đều ngưỡng mộ  vị tướng huyền thoại của Tây Sơn vào mờ sáng ngày 5 tháng giêng Tết Kỷ Dậu (1789) đã chỉ huy đánh thắng  quân Thanh ở mặt trận Khương Thượng-Đống Đa sau đó tiến vào giải phóng Thăng Long buộc Tôn Sĩ Nghị cùng tàn quân Thanh phải tháo chạy khỏi kinh thành kết thúc chiến trận đại phá 29 vạn quân Thanh do Quang Trung-Nguyễn Huệ chỉ huy.

Điều đáng tiếc là suốt 200 năm kể từ ngày triều đại Tây Sơn sụp đổ,danh tướng lập chiến công lừng lẫy nói trên chỉ được sử sách chép vỏn vẹn ba chữ Đô đốc Long (hoặc Mưu) ngoài ra không còn chi tiết về lai lịch nào khác.Đến những năm đầu thập kỷ 70 thế kỷ trước,GS sử học Phan Huy Lê (GS PHL) đã tìm thấy một số hiện vật lịch sử đời Tây Sơn tại Lương Xá(thuộc xã Lam Điền,huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây nay thuộc Hà Nội) và ở chùa Trăm Gian (cùng thuộc huyện Chương Mỹ).Có giá trị nhất là ba di bản chữ Hán gồm bộ Đặng gia phả hệ toản chính thực lục 6 quyển,một đạo Sắc phong có niên đại Thái Đức 10 (1787), tấm bia đá dựng trước chùa Thủy Lâm (Lương Xá) có khắc bài văn bia Tông đức thế tự bi có niên đại Cảnh Thịnh 5 (1797). Ngoài ra ở chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm tự,Chương Mỹ) còn lưu giữ  một pho tượng truyền thần bằng gỗ và chiếc chuông đồng đúc  năm 1794.
Qua khai thác các di bản ở Lương Xá,GS PHL đã tìm thấy một vị Đô đốc Tây Sơn mà tác giả gọi tên là :Đặng Tiến Đông (?) xuất thân từ một dòng họ thế phiệt có nhiều người làm quan to dưới thời Lê Trịnh,tổ tiên 5 đời trước Đặng Tiến Đông đều được phong tước Quận công khi chết đều được phong thần..Bộ gia phả do chính Đặng Tiến Đông biên soạn chép rất chi tiết thân thế sự nghiệp của tổ tiên 5 đời trước nhưng không có trang nào chép về thân thế sự nghiệp của chính tác giả.May mắn là qua khai thác đạo Sắc phong và văn bia,GS PHL đã tìm thấy một số chi tiết quan trọng về dời tư của tác giả.Đặng Tiến Đông sinh năm Mậu Ngọ (1738) được học hành,đổ đạt và ra làm quan dưới triều Lê Trịnh.  Được chứng kiến sự hèn yếu,hổn loạn của triều Lê và tận mắt nhìn thấy sự hùng mạnh của quân Tây Sơn cùng với khí thế lẫm liệt của anh hùng Nguyễn Huệ trong dịp Tây Sơn đánh ra Bắc Hà dưới ngọn cờ “phò Lê diệt Trịnh” giữa năm Bính Ngọ (1786),giữa  năm Định Vị/Mùi (1787),ông đã từ Bắc Hà lặn lội vào Quảng Nam xin yết kiến Bắc Bình vương Nguyễn Huệ,được Huệ đón tiếp,đãi ngộ,ban đạo Sắc gia phong Đặng Tiến Đông chức “Đô đốc đồng tri tước Đông Lĩnh hầu vẫn sai giữ chức Trấn thủ xứ Thanh Hoa” (Thanh Hoa vào thời điểm nay vẫn thuộc quyền quản lý của nhà Lê ở Bắc Hà).
Tiếp đến GS PHL trích dẫn một đoạn trong văn bia:”Năm Mậu Thân (1788),đầu đời Quang Trung (hai chữ Quang Trung bị đục-PHL),quân Bắc xâm chiếm nước Nam,Đô đốc Đặng Tiến Đông phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong,tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ,ông một mình,một ngựa tiến lên phía trước,dẹp yên nơi cung cấm…Võ Hoàng đế vào Thăng Long,tiến hành khen thưởng,ban cho ông xã quê hương là Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn..”.GS PHL kết luận:”không nghi ngờ gì nữa Đô đốc Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long,một tướng soái tài ba của Tây Sơn, dưới sự tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời của  Quang Trung Nguyễn Huệ,Đô đốc Đông đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa,góp phần quan trọng tạo nên mùa xuân đại thắng của dân tộc năm Kỷ Dậu 1789”(2).Còn có thêm chứng cứ là pho tượng của Đặng Tiến Đông và chiếc chuông đồng do Đặng Tiến Đông đúc tặng lưu giữ ở chùa Trăm Gian.
Từ đó nhân vật Đặng Tiến Đông vốn chưa có trong bất cứ một sách sử nào chép về Tây Sơn đã chính thức thay thế tên tuổi Đô đốc Long với nhiều hình thức tôn vinh:đưa vào giáo trình môn Lịch sử các trường phổ thông và đại học,đặt tên Đặng Tiến Đông cho một đường phố ở Thủ đô, đưa vào Từ điển Bách khoa Việt nam,phục chế tượng,sắc phong, bia đá trưng bày ở Bảo tàng lịch sử Hà Nội,bảo tàng Quang Trung ở Bình Định vv..vv.
Vào thời điểm này,việc tìm ra lai lịch của Đô đốc Long, điều  mà các sử gia triều Nguyễn và cả nhiều nhà sử học tài danh dưới chế độ mới như Hoàng Xuân Hãn,Trần Huy Liệu…chưa làm được là một thành tựu có ý nghĩa lớn của giới sử học miền Bắc XHCN mà công đầu thuộc GS PHL!
II- Cũng cần biết thêm vào thời điểm GS PHL tìm ra lai lịch Đô đốc Long, đất nước ta còn bị chia làm 2 miền và cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam đang diễn ra khốc liệt,miền Bắc cũng đang phải chịu đựng cuộc chiến tranh bằng không quân rất ác liệt của Mỹ.Các di bản đời Tây Sơn là độc bản lưu giữ ở Lương Xá lúc này còn là vùng quê hẻo lánh xa xôi không mấy ai tiếp cận.Mặc dù các trích dẫn lời dịch của GS PHL lúc này chưa kèm nguyên tác chữ Hán để giới nghiên cứu đối chiếu nhưng với uy tín của  một giáo sư sử học hàng đầu cùng với bằng chứng là các di bản,di vật đời Tây Sơn,lập luận của GS PHL không có đối thủ qua  2 thập kỷ 70 và 80 thế kỷ trước.
Đến đầu thập kỷ 90,với điều kiện đất nước đã có hòa bình,việc đi lại được cải thiện,giới nghiên cứu có thêm địa bàn ở miền Nam để khai thác tư liệu lịch sử,một số nghi vấn về lập luận nêu trên của GS PHL bắt đầu xuất hiện, sớm nhất là từ giới nghiên cứu sử học tỉnh Thừa Thiên-Huế.Vốn là kinh đô cũ của triều Quang Trung,sau ngày giải phóng miền Nam,các nhà khoa học xã hội TT-H đã tiến hành nhiều đợt khảo sát điền dã vùng Phú Xuân-Huế và đã thu được một số kết quả tích cực.Năm 1998,Nhà xuất bản Thuận hóa phát hành cuốn “Tư liệu điền dã vùng Huế về thời kỳ Tây Sơn” của Bảo tàng văn hóa dân gian Huế do nhà nghiên cứu Lê Văn Thuyên chủ biên.Đáng lưu ý trong cuốn này có đăng phần:Niên biểu Tây Sơn và Nhân vật thời Tây Sơn do Lê Nguyễn Lưu và Huỳnh Đình Kết biên soạn.
Điều đáng ngạc nhiên là trong số 64 nhân vật văn võ hàng đầu của Tây Sơn được sưu tầm giới thiệu trong sách này không có tên “Đặng Tiến Đông” đã được đưa vào Từ điển Bách Khoa Việt nam (1995) mà có tên “Đặng Văn Long” với chú giải:”vị tướng Tây Sơn chỉ huy đánh thắng quân Thanh trong trận Khương Thượng –Đống Đa tiến trước vào Thăng Long được vua Quang Trung khen ngợi ban tặng 2 con ngựa và 40 xấp lụa” kèm theo lời bàn nghi vấn về “Đặng Tiến Đông”: ”Gần đây, năm 1974,người ta phát hiện tấm bia Sùng Đức thế tự bi tại chùa Thủy Lâm (Chương Mỹ-Hà Sơn Bình )dựng năm 1797 nói về đô đốc Đặng Tiến Đông,rồi tấm bia Đặng tướng công bi tại chùa Trăm Gian (Hoài Đức-Hà Nội) cùng nội dung nhưng ghi tên đô đốc Đặng Đình Đống,bèn cho rằng đó chính là Đô đốc Long.Chúng tôi cho rằng có lẽ đó là một tướng Tây Sơn khác cùng tham gia chiến dịch chứ không phải Đô đốc Long.”(Sách đã dẫn trang 148).
Đến năm 1999,nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh (sau này là phó Giáo sư-Tiến sĩ Đỗ Văn Ninh) cũng qua khai thác các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá đã có bài “Phải gọi là Đô đốc Đặng Tiến Giản” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3 tháng 5-6 năm 1999  lần đầu tiên phát hiện những sai lầm trong lập luận “Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long” của GS PHL. Về tên goi: theo Đỗ Văn Ninh tên của Đặng đô đốc chép bằng chữ Hán trong các di bản phải đọc là “Giản”(chữ Giản với bộ nhật một bên) không phải chữ “Đông”. Về công trạng: theo Đỗ Văn Ninh, văn bia dựng trước chùa Thủy Lâm nêu trận đánh diễn ra “đầu năm Mậu Thân” lúc Quang Trung chưa lên ngôi, quân Thanh chưa vào Việt nam do đó “sự kiện cầm quân tiên phong tiến vào Thăng Long dẹp yên cung cấm của đô đốc Đông(đúng ra phải là Giản) quyết không phải là sự kiện quân tiên phong của Đô đốc Long đánh Đống Đa vào Thăng Long đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu”.Theo Đỗ Văn Ninh “Bắc binh” được dùng trong văn bia không phải chỉ quân Thanh mà là quân Bắc triều của vua Lê chúa Trịnh đang giữ phần đất Bắc Hà.Tác giả còn viện dẫn chứng cứ: sách “Tây Sơn thuật lược”(1) xuất bản dưới triều Nguyễn có đoạn chép trận Mậu Thân (1788):” Năm Đinh Vị (1787) Nguyễn Hửu Chỉnh dùng quân tuyển mộ ở Nghệ An kéo ra Thăng Long giúp vua Lê Chiêu Thống đánh đuổi Án Đô vương Trịnh Bồng.Vua Lê tin dùng Chỉnh, phong cho Chỉnh tước Bằng Quận công trao cho nắm binh quyền ở Bắc Hà.Chỉnh mưu trả thù Nguyễn Huệ xúi dục vua Lê đòi đất Nghệ An.Nguyễn Huệ tức giận.Mùa đông năm đó,Huệ sai Tiết chế Võ Văn Nhậm đốc xuất bộ binh,Thái úy Điều đốc xuất thủy quân,Đô đốc Đặng Giản làm tiên phong nhằm kinh thành Thăng Long tiến phát.Đầu năm Mậu Thân quân Tây Sơn tiến phạm Thăng Long.Vua Lê chạy đi Hải Dương quân Tây Sơn rượt theo,cha con Chỉnh đều bị bắt.Huệ cho Vũ Văn Nhậm trấn Thăng Long,Đặng Giản trấn Thanh Hoa(Giản là người Lương Xá,dòng dõi của Đặng Nghĩa Huấn)…”.Cũng theo “Tây Sơn thuật lược” việc ban thưởng cho Đặng đô đốc như chép trên văn bia là trường hợp được tin Vũ Văn Nhậm lộng quyền,tháng 5 Mậu Thân, Huệ mượn cớ đi tuần phía Bắc đến Thăng Long bắt và giết Nhậm,khen thưởng tướng sĩ có công trong trận Mậu Thân. Rõ ràng nhân vật “Đặng Giản” trong “Tây Sơn thuật lược”(có từ đầu thế kỷ 20) cũng chính là Đặng Tiến Giản chép trong văn bia lập năm 1797.Từ những phân tích như trên,ông Đỗ Văn Ninh kiến nghị:
Để tôn trọng sự thật lịch sử nhất thiết phải:
a) Viết đúng tên cho Đặng Tiến Giản và đánh giá lại cho đúng công trạng vị cựu thần nhà Lê theo hàng Tây Sơn này.Ông quyết không phải là Đặng Tiến Đông.
b) Khôi phục trả lại công tích chống xâm lược Thanh cho Đô đốc Long.Dù có gây nên một số khó khăn cho công việc hành chính nhà nước cũng phải sửa lại tên phố Đặng Tiến Đông là phố Đô đốc Long.
c) Sử và sách bấy nay viết đã viét xai xin nhất loạt sửa.Những công trình khoa học viết đúng thì mọi sáng tác văn nghệ cũng sẽ tránh được những sai lầm” Trước đòn phản kích của Đỗ Văn Ninh,GS PHL có bài bào chữa dài “Về nhân vật Đặng Tiến Đông” trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4 tháng 7 và 8 năm 1999 trong đó tác giả  khẳng định lại:”-Đặng Tiến Đông đúng phải đọc là Đặng Tiến Đông-Đặng Tiến Đông là Đô đốc Long là một giả thuyết có cơ sở”.
Năm 2000 trên cuốn “Đối thoai sử học” (ĐTSH) (Nxb Thanh Niên) ngoài bài “Đô đốc Đặng Tiến Đông hay Đô đốc Đặng Tiến Giản” của Đỗ Văn Ninh  còn có thêm 2 nhà nghiến cứu có tên tuổi tham gia thảo luận về lập luận của GS PHL.Ông Trần Văn Quý,một nhà sử học thông thạo Hán Ngữ và Pháp ngữ, viết bài “Phải gọi là Đô đốc Đặng Tiến Giản”,tác giả đã bác  mọi căn cứ do Phan Huy Lê đưa ra để chứng minh “Đặng Tiến Đông phải đọc đúng là Đặng Tiến Đông”. Với vốn Hán học tinh thâm,ông Trần Văn Quý đã phân tích chữ Hán chép tên nhân vật trên các di bản là chữ “Giản”(có nơi chép chữ Giản kèm bộ nhật,có nơi chép chữ Đông kèm bộ nhật nhưng đều phải đọc là “Giản”) Đáng chú ý là ông Trần Văn Quý đã phát hiện một câu do chính Đặng đô đốc chép về bản thân ở trang cuối quyển 6 trong tập phả do ông biên soạn:
Phiên âm: “Mậu Ngọ niên,ngũ nguỵệt sơ nhị,Quý Sửu thì,sinh bát đệ tử Đông hậu cải Giản dĩ tự vựng vân:trùng âm tích vũ chi hậu hốt kiến nhật sắc,cố tri danh yên”.
Dịch nghĩa: “Năm Mậu Ngọ,tháng 5,ngày 2,giờ Quý Sửu sinh con trai thứ 8 (của Dận Quận công với vợ lẽ thứ 5 là bà Phạm Thị Yến-TDT) đặt tên là “Đông” sau cải lại tên “Giản” lấy theo ý nghĩa trong từ vựng chữ Giản là: sau thời tiết mây mù tích mưa bổng xuất hiện ánh sáng mặt trời,cho nên đặt tên như thế”
Câu “tự thuật” như trên là thông điệp của tác giả để hậu thế biết tên của mình là gì và có ý nghĩa như thế nào!Theo ông Trần Văn Quý chữ “Giản” hiện diện trong nhiều từ điển. Theo Khang Hy từ điển chữ Giản có định nghĩa “Âm đán nhật minh.Minh dã” có nghĩa là “buổi sớm âm u bổng mặt trời sáng”.Theo Hiện đại Hán ngữ từ điển chữ Giản có định nghĩa:”Minh lượng-đa dụng vu nhân danh” nghĩa là “ Sáng sũa-phần nhiều dùng để đặt tên người” Đặc biệt theoTừ Hải (Thượng Hải 1989-trang 1580) chữ Giản có định nghĩa:”trùng âm tích vũ hậu,hốt kiến nhật sắc dã” nghĩa là :”sau thời tiết âm u tích mưa,bổng xuất hiện ánh sáng mặt trời”.Câu định nghĩa này cũng chính là câu định nghĩa chữ “Giản” nêu trong tập phả do Đặng Đô đốc biên soạn  trước đó 2 thế kỷ ( khoản năm 1792-đầu đời Cảnh Thịnh).Đây là bằng chứng có sức thuyết phục nhất phải đọc tên ông là Giản(Đặng Tiến Giản) không thể khác.Đến năm 2005 ông Võ Tuấn Hỷ-nhà nghiên cứu  Hán Nôm ở Hà Nội,tặng tôi cuốn sách dịch ”Đăng gia phả ký” (Nhóm biên dịch do Trần Lê Sáng chủ biên-Viện Hán Nôm xuất bản 2000).Cuốn sách này do ông Trần Lê Sáng tặng Võ Tuấn Hỷ vào năm 2000.Trên đầu trang bìa cuốn sách in tên họ,tước hiệu người biên soạn “Đặng gia phả ký” là: Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông.
Ảnh: Đầu trang bìa cuốn “Đặng gia phả ký” do Viện Hán Nôm xuất bản năm 2000.
bằng cả chữ Hán và tiếng Việt. Chữ Đông (Đặng Tiến Đông) được viết chũ Hán “chữ Đông kèm bộ nhật”(trong gia phả tên ông được chép  bằng 2 chũ Hán khác nhau nhưng tự dạng giống nhau là: chữ Giản kèm bộ nhật và chữ Đông kèm bộ nhật) . Ngay sau khi nhận sách,tôi tìm trang cuối quyển 6 chép về Dận Quận công Đặng Đình Miên (trang 356) thấy có đoạn:”Giờ Quý Sửu,ngày mồng 2 tháng 5,năm Mậu Ngọ,khi bà (Phạm Thị Yến,vợ lẽ thứ 5 của Dận Quận công) sinh ra con trai thứ 8 của Dận Quận công là Đông (   ) sau đổi sang chữ Đông (   ).Trong sách Tự vựng có câu:sau khi trời mưa sụt sùi,bổng thấy ánh mặt trời.Bởi vậy đặt tên như vậy”. Đây chính là đoạn dịch câu“tự thuật” của Đặng Đô đốc ông Trần Văn Quý đã nêu  trên “ĐTSH”.Như vậy,cùng trong năm 2000,cùng một câu chữ Hán nhưng hai nhà nghiên cứu Hán Nôm có tên tuổi lại có cách dịch khác nhau!Ông Quý dịch “sinh ra đặt tên Đông sau cải lại thành tên“Giản”,ông Sáng dịch”sinh ra đặt tên Đông sau cải đổi thành chữ “Đông”(thêm bộ nhật bên cạnh chữ Đông).Tuy nhiên tra từ điển để đối chiếu thì chữ “Giản” (ông Quý dịch) sẵn có trong từ điển còn chữ “Đông” (ông Sáng dịch) không có trong bất cứ cuốn từ điển nào!
Hơn nữa chữ Hán có định nghĩa “sau khi trời mưa sụt sùi bổng thấy ánh mặt trời”như ông Sáng dịch thì chỉ ứng vào chữ “Giản” không có chũ “Đông” nào có định nghĩa tương tự!Sau khi nghe tôi trình bày sự khác nhau như trên,ông Võ Tuấn Hỷ,,bạn của Trần Lê Sáng,đã nói: tên của Đặng Đô đốc phải đọc đúng là “Giản”.Theo truyền thống khi cãi tên cho con, ai cũng chọn tên mới có ý nghĩa hay hơn tên cũ,nhất là với một gia đình cao sang,có học vấn như Dận Quận công thì không thể có chuyện cãi đổi tên cho con từ tên “Đông” (phương Đông) sang chữ “Đông” vô nghĩa!.Cho đến nay dư luận vẫn công nhận lập luận của cố học giả Trần Văn Quý (ông Quý đã qua đời năm 1993)về cách đọc tên nhân vật như trên là có sức thuyết  phục.Tuy nhiên ông Trần Văn Quý cũng nhận định:”tên “Đông” hay tên “Giản” không phải là vấn đề lớn,Điều quan trọng nhất,chính yếu nhất là ông có làm nên chiến thắng Đống Đa không?”
Bài thứ ba trên ĐTSH:”Xin trả lại công đánh trận Đống Đa cho Đô đốc Long” của Lê Trọng Khánh,một nhà nghiên cứu sử học lão thành, đã bàn thêm về chủ đề này.Theo tác giả: “trong tất cả các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá không có câu chữ nào xác nhận Đặng Đô đốc ở Lương Xá chính là Đô đốc Long, trên văn bia chỉ chép niên đại trận đánh là Mậu Thân,hoàn toàn không có 2 chữ Kỷ Dậu,2 chữ “Quang Trung” chỉ là 2 chữ phỏng đoán lắp vào 2 chữ bị đục nhưng Phan Huy Lê lấy làm tiền đề để dựng lên giả thuyết “Đô đốc Đông chính là Đô  đốc Long”là một sai lầm,lại được Nhà nước công nhận như một “định luận”!Một giả thuyết lịch sử    sai lầm chuyến thành của Nhà nước,đã ảnh hưởng đến cả việc giảng dạy và học tập môn lịch sử trong tất cả các cấp học!”
Sau các bài báo trên “ĐTSH” đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đồng tình,ủng hộ lập trường của “nhóm ĐTSH”.Năm 2001 nhà văn,sử gia Tạ Chí Đại Trường (nhà nghiên cứu Tây Sơn quê Bình Định hiện định cư tại Mỹ) đã viết bài về nhân vật Đặng Tiến Đông, tác giả tặng ông Phan Huy Lê danh hiệu:”Người chôn Đô đốc Long lần thứ 2”.Theo tác giả thì nhân vật Đặng Tiến Đông là không có thật trong lịch sử Tây Sơn nhưng việc sữa lại không dễ dàng:”con cháu họ Đặng cứ yên tâm.Sai lầm đã gắn với một chế độ,một quyền lực thì không dễ gì xóa bỏ”.Cũng trong năm 2001 nhà văn Thụy Khê ở Đức đã phỏng vấn sử gia Bùi Thiết và nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về vấn đề “Đặng Tiến Đông” trên trang web của mình.
Cả sử gia Bùi Thiết và NNC Lại Nguyên Ân đều khẳng định nghi vấn Đặng Tiến Đông nêu trên ĐTSH là có cơ sở nhưng việc giải quyết không dễ dàng vì:” giới sử học Việt nam do những điều kiện nào đó lãng tránh nó.Tại sao vậy? Bởi vì giới sủ học VN hơi giống khuôn khổ các nhà trường,tức là có hệ thống thầy trò.Thế hệ thầy có những người có kết quả không còn đứng được nữa nhưng những người đó còn có một thế lực nào đó nên những thế hệ sau ngại việc thay đổi,tức là ngại đụng chạm đến thầy hơn là bảo vệ những đúng đắn hơn trong nghiên cứu”!
Điều dáng buồn cho sử học nước ta là thực tiễn những năm tiếp theo đã diễn ra đúng như những lời cảnh báo trên!Giới sử học đã lãng tránh giải quyết và nghi án lịch sử này có nguy cơ chìm xuống.Mặt khác nhóm “ĐTSH” vì sức khỏe, tuổi tác cũng không còn khả năng theo đuối cuộc tranh luận làm sáng tỏ chân lý.Mặc dù Nhà nước chưa cải chính nhưng cho đến những năm gần đây một bộ phận dư luận vẫn không chấp nhận việc thay tên “Đô đốc Long” bằng tên“Đặng Tiến Đông”.Trong pho truyện lịch sử lớn “Tây Sơn bi hùng truyện” của Lê Đình Danh (Nxb VHTT 2006),nhà văn Bùi Minh Tường viết “Lời mở đầu” có đoạn nêu:”Nhân đây xin lưu ý các nhà lịch sử và các cấp chính quyền Thành phố Hà Nội nên đổi lại phố Đặng Tiến Đông thành phố Đặng Văn Long vì trong chính sử cũng như trong tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh khồng hề nhắc đến tên Đặng Tiến Đông mà chỉ có tên Đô đốc tài danh Đặng Văn Long…”.
III-Để nghi án lịch sử này không bị chìm xuống,một nhóm nhà nghiên cứu trong đó có người viết bài này tiếp tục tìm kiếm bổ sung chứng cứ phản biện giả thuyết của GS PHL.Cuối năm 2007,công trình phản biện về giả thuyết “Đô đốc  Đông chính là Đô đốc Long” của GS PHL đã được chúng tôi trình lên Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch (BVHTTDL)đã được Bộ tiếp nhận và ngày càng được dư luận trong và ngoài nước quan tâm.(3)
Nội dung công trình phản biện năm 2007 chúng tôi vẫn sử dụng thành quả nghiên cứu của “nhóm ĐTSH” song có bổ sung chứng cứ.Đáng chú ý là phản biện lần này đã công bố nguyên tác chữ Hán nội dung tờ Sắc phong và đoạn văn bia Tông đức thế tự bi cùng lời dịch của nhà nghiên cứu Hán nôm Lê Nguyên Lưu ở Bảo tàng TP Huế.
Bản Sắcphong: Sau khi tìm được nguyên tác chữ Hán bản Sắc phong , chúng tôi thấy ngoài việc tờ “Sắc” ca ngợi Đặng Tiến Giản là người có “khí khái của trượng phu,tấm lòng của nam tử”,được “Nguyễn Huệ phong làm Đô đốc đồng tri tước Đông Lĩnh hầu” như GS PHL giới thiệu,theo chúng tôi,tờ sắc còn có một đoạn rất đáng chú ý chưa được nêu. Đó là đoạn: phiên âm:”Cầu y thê chi vô đạo,Sĩ cộng đái chi hữu thiên Bốc nhất lộ chi khả nan,đại bang vu khống,Cự bán hà chi dĩ bắc,nghĩa sĩ hội vô.Tương dụng xử ư niên lai, Xá tư nhân kỳ thục khả,…” dich nghĩa:”Tạm nương náu không tìm được đất, Luống hồ ngươi cùng đội chung trời. Một nẻo đường cõi Nam,đại bang ngăn giữ, Nữa bên sông về đất Bắc,nghĩa sĩ vắng tênh. Đem dùng cho năm sau, bỏ người này ai làm được?”.Đoạn này đại ý nói:”Đặng Tiến Giản bỏ Bắc Hà về với Tây Sơn là chọn con đường sáng.Giản đi rồi đất Bắc còn mấy ai là nghĩa sĩ? Năm sau Tây Sơn vượt sông tiến ra bắc,Giản sẽ là người đắc dụng không ai thay thế để quy tập sĩ phu Bắc Hà về với Tây Sơn”.Thiên tài trong cách dùng người và dự kiến hành động của Nguyễn Huệ nêu trong sắc phong được chứng minh không lâu sau đó qua văn bia Tông Đức thế tự bi.Nghiên cứu bản sắc phong chúng tôi còn nhận thấy thời điểm Đặng Tiến Giản từ Bắc Hà vào đầu quân Tây Sơn (tháng 8 năm 1787) là lúc mối bang giao giữa Bắc triều với Tây Sơn đang ở đỉnh căng thẳng do hành vi phản trắc của Nguyễn Hửu Chỉnh âm mưu chống lại Nguyễn Huệ.
Chương Chín và chương Mười cuốn Hoàng Lê nhất thống chí đã chép chi tiết về giai đoạn này ghi nhận trong năm Đinh Mùi/Vị (1787) đã nhen nhóm cuộc Bắc tiến của Tây Sơn lần thứ 2 (lần thứ nhất là giữa năm Bính Ngọ-1786) đúng vào lúc Đặng Tiến Giản đầu quân Tây Sơn và được Nguyễn Huệ đãi ngộ phong chức tước và ngay sau đó giao ấn kiếm ủy thống cầm quân đánh ra Thăng Long vào cuối năm Đinh Vị/Mùi.như văn bia Tông đức thế tự bi đã chép dưới đây.
Văn bia Tông Đức thế tự bi: (trước đây có người đọc “Tông đức” là “Sùng đức”) do 2 danh sĩ Tây Sơn là Thụy Nham hầu Phan Huy Ích biên soạn và Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm nhuận sắc khắc vào bia đá năm 1797 (Cảnh Thịnh 5)có nội dung ca ngoại công đức của Đặng Tiến Giản đã làm đối với tổ tiên song giới nghiên cứu chú ý khai thác đoạn nói về võ công của Đặng Đô đốc,nguyên tác chữ Hán như sau:
Phiên âm: “Kim triều đại tướng thống Vũ Thắng đạo Thiên Hùng đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản hệ xuất lệnh tộc giáp nhất chi,Yên quận công chi tôn, Dận quận công chi tử (mất một chữ) thì, hoàng triều Thái tổ Vũ Hoàng đế nghĩa thanh chấn bạc quy trú Quảng Nam, công nhất kiến quân môn, mật mông tri ngộ, sủng ban ấn kiếm, ủy thống nhung huy, ngưỡng lại thiên uy, nhất cử đãng định. Mậu Thân (2 chữ tiếp theo bị đục) sơ, bắc binh nam mục, phụng chiếu tiên phong đạo tiến chiến nhi bắc binh hội công đương kỵ đương tiên, túc thanh cung cấm. Võ Hoàng đế giá lâm Thăng Long sách huân hành thưởng đặc tứ bản quán Lương Xá vĩnh vi thực ấp”. (Câu in chữ đậm là câu GS PHL đã khai thác và dịch lần đầu tiên vào năm 1973s-TDT).
Điều đáng lưu ý  là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ (1797-Cảnh Thịnh 5) triều Tây Sơn đang lúc suy tàn,thế lực của Nguyễn Ánh, kẻ thù không đội chung với Tây Sơn đang trỗi dậy mạnh mẽ.Để tấm bia tưởng nhớ Đặng Tiến Giản, người bạn chí thiết đồng hương,đồng triều,đồng chí hướng, tồn tại trước mọi biến cố của thời cuộc, hai ông Phan,Ngô  đã buộc phải sử dụng một số từ ẩn dụ để người đọc bình thường không nhận ra tấm bia nói về công trạng của một danh tướng Tây Sơn như danh xưng “Thái tổ Võ Hoàng đế”, “bắc binh nam mục”,“bắc binh hội”…Nhờ vậy tấm bia đã thoát được nạn “truy sát” nghiệt ngã dưới triều Nguyễn tồn tại đến tận nay nhưng cũng đã gây khó khăn cho giới nghiên cứu đã có cách dịch và giải thích không thống nhất về niên đại trận đánh và công trạng của nhân vật nêu trong văn bia. Khi phát hiện ra tấm bia,dù vài chữ có liên quan đến niên đại Tây Sơn đã bị đục bỏ nhưng giới nghiên cứu không mấy khó khăn để nhận ra tấm bia là di vật quý hiếm thuộc đời Tây Sơn còn sót lại.GS PHL đã nắm băt đúng“Thái tổ Võ Hoàng đế” là miếu hiệu của vua Quang Trung sau ngày nhà vua băng hà.Song “Thái tổ Võ Hoàng đế” không chỉ để chỉ vua Quang Trung mà còn để chỉ Nguyễn Huệ khi chưa lên ngôi hoàng đế.Bia lập năm 1797 tức đã 5 năm sau ngày vua Quang Trung băng hà.Năm 1787 Nguyễn Huệ ở Quảng nam vẫn còn là Bình Định vương. 2 ông Phan Ngô dùng miếu hiệu của Quang Trung để tránh dùng danh tính Nguyễn Huệ mà dùng danh xưng “tiên đế” là rất đúng và khéo léo.Điều khó hơn là tìm hiếu đúng “Bắc binh nam mục”,”bắc binh hội” là lực lượng nào! Đã có 2 cách giải thích dẫn đến 2 kết luận khác nhau:GS PHL giải thích “Bắc binh nam mục”là “quân Thanh xâm chiếm nước Nam” do đó xác định văn bia nói đến trận đánh của Tây Sơn với quân Thanh năm Kỷ Dậu và “Đô đốc Đông chính là Đô đốc Long”.Hai ông Đỗ Văn Ninh,Lê Trọng Khánh nêu lập luận:văn bia chỉ nói trận đánh xảy ra năm Mậu Thân không hề có 2 chữ Kỷ Dậu, “Bắc binh” năm Mậu Thân là chỉ quân của Bắc triều (Nhà Lê) Đặng tướng công tham dự trận năm Mậu Thân nhất quyết không phải là Đô đốc Long!
Việc thu thập nguyên tác chữ Hán và dịch lại đoạn văn bia Tông đức thế tự bi vào năm 2005  (chính thức công bố năm 2007) đã làm sáng tỏ thêm đúng sai giữa 2 lập luận nêu trên.
Dịch nghĩa:”Vị Đại tướng triều ta là đô đốc ĐôngLĩnh Hầu Đặng Tiến Giản thống lĩnh về Thiên Hùng trong đạo Vũ Thắng, xuất thân từ chi thứ nhất một họ lớn, cháu cụ Yên quận công, con cụ Dận quận công (mất một chữ). Bấy giờ tiếng tăm nghĩa khí của Thái tổ Vũ Hoàng đế lừng lẫy khắp nơi, ngài đang đóng quân ỏ Quảng Nam, ông một lần vào ra mắt trước cửa quân, nhờ ơn tri ngộ, yêu ban ấn kiếm, giao cho cầm quân. Ngữa nhờ oai trời, một lần cất quân là quét sạch giặc giả. Mậu Thân, năm đầu niên hiệu Quang Trung (2 chữ Quang Trung bị đục) quân bắc nhòm ngó phương nam, ông vâng chiếu lãnh đạo tiên phong tiến đánh quân bắc tan rã, ông một mình một ngựa đi trước vào dẹp yên cung cấm. Võ Hoàng đế đến Thăng Long xét công phong thưởng, đặc biệt ban cho ông làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn…”(câu in đậm để đối chiếu với câu dịch của GS PHL với 2 cụm từ có gạch dưới là 2 điểm khác biệt). Tuy nhiên chỉ với lời dịch như trên cũng chưa đủ làm sáng tỏ văn bia nói đến trận đánh nào,vị tướng Tây Sơn tham dự trận đánh này là ai? Do đó cần có sự “giải mã” tiếp theo.
Trước hết đoạn văn bia nêu trên cho thấy mối liên quan giữa ba di bản (chi tiết xuất thân của Đặng Tiến Giản như trong văn bia cũng chính là lai lịch của Đặng Tiến Giản đã chép trong bộ phả do Đặng Tiến Giản biên soạn; tước “Đông Lĩnh hầu” trong văn bia chính là từ bản Sắc phong năm 1787) đồng thời cũng cho thấy việc diễn biến nối tiếp giữa việc Nguyễn Hụệ phong tước Đông Lĩnh hầu (8-1787)và sau đó đã giao ấn kiếm cho Đặng Tiến Giản cầm quân đánh giặc cuối năm đó (12/1787).
“Mậu Thân Quang Trung sơ”,GS PHL dịch là “năm Mậu Thân đầu triều Quang Trung” là không chuẩn xác.Chúng tôi dịch lại:”Mậu Thân năm đầu niên hiệu Quang Trung” để chứng minh dù bổ sung 2 chữ “Quang Trung” (đã bị đục)thì năm Mậu Thân-năm đầu niên hiệu Quang Trung cũng không thể hiểu là năm Kỷ Dậu là năm thứ 2 niên hiệu Quang Trung.Trận đánh ra Bắc Hà cuối năm Đinh Vị/Mùi và tiến phạm Thăng Long đầu năm Mậu Thân của Tây Sơn vào lúc Bắc Hà còn thuộc triều nhà Lê.chưa hề có bóng dáng quân Thanh thì “Bắc binh” đương nhiên không phải là quân Thanh mà là quân Bắc Hà dưới sự chỉ huy của Nguyễn Hửu Chỉnh.” Chữ “mục”(nam mục) không nơi nào có định nghĩa là “xâm chiếm”,”xâm lăng”,”xâm lực”.Chúng tôi dịch “nam mục” là nhìn về hướng nam cũng tức là “nhòm ngó lãnh thổ Tây Sơn” lột tả nguyên nhân xảy ra cuộc tiến quân của Tây Sơn ra Bắc Hà là do mưu toan của Chiêu Thống và Hữu Chỉnh “lăm le đòi lại đất Nghệ An”.Đặng Tiến Giản được Nguyễn Huệ giao nắm đội tiên phong trong trận đánh này.Sau khi lập công “đánh tan quân Chỉnh (Bắc binh hội) tiến vào Thăng Long dẹp yên cung cấm” Giản được giao trấn Thanh Hoa(đúng như đã ghi trước trong bản sắc phong tháng 8/1787). Vũ Văn Nhậm được giao trấn Thăng Long sinh kiêu căng,tự phụ,lộng quyền.Được tin,tháng 5 Mậu Thân,Huệ bất ngờ  ra Thăng Long bắt giết Nhậm,khen thưởng tướng sĩ đã lập công trong đó “Đặng Tiến Giản được ban làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn”.
Đúng như dự kiến của Nguyễn Huệ nêu trong bản sắc phong: việc Đặng Tiến Giản được Tây Sơn trọng dụng đã thu hút nhiều nhân tài là sĩ phu Bắc Hà về với Tây Sơn trong đó có:Phan Huy Ích,Ngô Thì Nhậm…Văn bia Tông Đức thế tự bi là chứng tích lịch sử quý đề cập đến trận đánh của Tây Sơn ra Thăng Long năm Mậu Thân đúng như 2 Chương Chín,Mười Hoàng Lê nhất thống chí dưới thời Tây Sơn và cả “Tây Sơn thuật lược”dưới triều Nguyễn đã chép.Các tư liệu lịch sử trên  không nói hệ quả  chiến thắng của Tây Sơn năm Mậu Thân,theo chúng tôi,việc Tây Sơn thu phục Bắc Hà xóa ranh giới Nam,Bắc triều đã tạo thuận lợi về địa thế,nhân,tài,vật lực cho Nguyễn Huệ lập chiến công vang dội chỉ chưa đầy một năm sau:đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược nước Nam chỉ trong ba ngày từ 3 đến 5 Tết Kỷ Dậu trong đó Đô đốc Long có phần đóng góp quan trọng.
Các  tư liệu lịch sử trên hoàn toàn không có dòng nào nói đến việc Đặng Tiến Giản tham dự trận Tây Sơn đánh quân Thanh đầu năm Kỷ Dậu.”Tây Sơn thật lược” có chép chi tiết thời gian Đặng Tiến Giản làm trấn thủ Thanh Hoa từ đầu năm 1788 đến năm 1790“vua Quang Trung cử Tuyên (tức Nguyễn Quang Bàn con trai thứ của Quang Trung-TDT) về thay làm trấn thủ Thanh Hoa,Giản về Thăng Long được phong Đại Đô đốc coi giữ Đại thiên hùng binh,sai làm thuốc súng…”Như vậy ngoại trừ giả thuyết của GS PHL nói “Đô đốc Đông ở Lương Xá chính là Đô đốc Long” không còn có tư liệu lịch sử thời nào từ Tây Sơn,đến Nguyễn và cả thời hiện đại  chép điều tương tự.Riêng đô đốc Long hiện vẫn còn nhiều giả thuyết:là Đặng Văn Long ỏ Tuy Phước Bình Định.là Lê Văn Long ở Tam kỳ Quảng nam,là Nguyễn Tăng Long ở Sơn Tịnh,Quảng Ngãi.Bài viết này chỉ nêu chứng cứ loại trừ giả thuyết “Đô đốc Long là Đặng Tiến Đông quê ở Lương Xá (Hà Nội)” không bàn đến các giả thuyết khác.Riêng đối với Đặng tộc ở Lương Xá người viết bài này rất kính trọng ngưỡng mộ một tộc họ lớn,có truyền thống với những danh nhân Đặng Thái Mai,Đặng Văn Ngữ,Đặng Thùy Trâm…vì vậy rất bất bình khi có người buộc Đặng tộc phải tôn thờ một “ĐặngTiến Đông” không có thật và phủ nhận Đô đốc Đặng Tiến Giản đã có tộc phả,sắc phong  bia,tượng đời Tây Sơn và cả sách sử đời Nguyễn ghi nhận như trên.
Thay lời kết: Cho đến nay lập luận “Đô đốc Đông chính là đô đốc Long” của GS PHL vẫn tồn tại như một giả thuyết.Giả thuyết thì chưa phải là sự thật và tất yếu cần có sự phản biện để tìm ra sự thật.Với ý nghĩa này lãnh đạo Bộ VHTTDL đã có 2 văn bản (vào năm 2008 do thứ trưởng Trần Chiến Thắng ký và năm 2010 do thứ trưởng Lê Khánh Hải ký) yêu cầu ông Viện trưởng Viện KHXHVN xem xét giải quyết công trình phản biện và trả lời.Dư luận đang trông chờ Viện KHXHVN có kết luận làm sáng tỏ một nghi án thuộc quốc sử.
HN tháng 5-2012
TRÚC DIỆP THANH
____________________
Chú thích:
(1)Tây Sơn thuật lược bằng chữ Hán xuất bản dưới triều Nguyễn đăng trong Tạp chí Nam Phong số 148.Bản dịch tiếng Việt do chuyên viên Hán nôm Viện Khảo cổ Sàigòn Tạ Quang Phát thực hiện đăng trên Tạp san Sử-Địa (Sàigòn)số Xuân Mậu Thân 1968
(2)Đô đốc Đặng Tiến Đông-một tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa-Phan Huy Lê-Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 154(1-1974).
(3)Tạp chí Huế Xưa và Nay”(Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên-Huế) với bài “Tư liệu về vị tướng Tây Sơn ở Lương Xá” số 90 (tháng 11 và 12 năm 2008).Báo Hà Nội mới cuối tuần với bài “Trả lại tên cho vị tướng Tây Sơn” số 34 ngày 29/8/2009.Nhiều trang web trong và ngoài nước đăng bài về Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản ở Lương Xá trong các năm 2010-2011-2012.

No comments:

Post a Comment