Trang

Thursday, July 4, 2013

CAO MINH TÈO (ĐH CẦN THƠ): CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – GÓC NHÌN TỪ THI PHÁP HỌC

 
Cao Minh Tèo
 (Học viên Cao học, lớp Văn học Việt Nam, khóa 19, Trường ĐH Cần Thơ)


Văn học sau năm 1975, không phải là nhà văn đổi mới đầu tiên nhưng phải nói rằng Nguyễn Minh Châu (1930- 1989) là một trong những nhà văn mở đường bởi tài năng và phát huy được năng lực trực giác của mình đối với cuộc sống. Hết thảy những tác phẩm của ông sau 1975 đã cơi nới phạm vi hiện thực của cuộc sống, bổ khuyết vào hiện thực quen biết những mảng màu chưa được nói đến hoặc còn né tránh vì điều này điều nọ. Trong sáng tác thời kì trước đó, Nhà văn dường như đã vượt lên khỏi cái hằng ngày và hướng về cái đẹp đẽ của cuộc đời, cái đẹp dường như được giải thoát khỏi gánh nặng của cái xấu, bay vượt lên khỏi cái thường nhật ví như truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng, trước đó được đưa vào chương trình phổ thông giảng dạy nay thay bằng truyện ngắn luận đề Chiếc thuyền ngoài xa. Nhưng phải nói rằng, Mảnh trăng cuối rừng thật sự xứng đáng là một trong những tác phẩm đã khoát lên mình bản chất chủ nghĩa anh hùng Cách mạng  trong thời kì tất cả vì tuyền tuyến, một sứ mệnh của thiên hùng ca giữ nước thế hệ Hồ Chí Minh trong mảng văn học nghệ thuật.

Thực chất sự đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu sau khi truyện ngắn Bức tranh ra đời (được viết từ 1976 nhưng đến 1982 mới công bố được). Truyện ngắn Bức tranh như một tiếng còi báo hiệu một bước chuyển mới trong sáng tạo văn học, dự báo một quan niệm, “nhận đường mới”. một bút pháp hoàn toàn mới của Nguyễn Minh Châu, đó còn là “lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” mà trước đó ông từng là người dụng công xây dựng. Ở giai đoạn hậu “minh họa” này, tính chất bi kịch và mặt trái của chiến tranh đối với số phận của con người, những phát hiện về cuộc sống với biết bao nghịch lí, lạ lùng thậm chí có cả sự tàn nhẫn, biết bao ngẫu nhiên bất ngờ, những phức tạp, bí ẩn của con người trong cuộc sống thường nhật… để rồi thi pháp văn học về tác giả hay nói rõ ra là hình tượng tác giả được hình thành, định hình và trở thành nền móng tốt đẹp lâu dài trong văn học Việt Nam hiện đại.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là những chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về nghệ thuật và cả về con người trong cuộc sống của hình thái xã hội mới. Đây là thông điệp của nhà văn gửi đến với độc giả một cách tự nhiên. Bên cạnh, việc tạo dựng tình huống truyện – luận đề độc đáo “phát hiện” có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống bởi đặc điểm lời người kể chuyện được quy định bởi ngôi kể, điểm nhìn.

Trong Chiếc thuyền ngoài xa người kể chuyện thuộc ngôi thứ nhất - xưng tôi, đồng thời là nhân vật chính của truyện. Người kể chuyện xuất hiện với tư cách một nghệ sĩ nhiếp ảnh- Phùng ngoài ra còn với tư cách “một người lính giải phóng từng mười năm cầm súng”.

Với tư cách người nghệ sĩ nhiếp ảnh, người kể chuyện đã kể lại câu chuyện về chuyến đi công tác của mình khi được anh trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào bộ lịch năm mới. Một cảnh biển buổi sáng có sương, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng Bảy. Tại đây, sau nhiều ngày “phục kích” thiên nhiên, nhân vật tôi ngẫu nhiên gặp được một cảnh đắt trời cho:“…trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi,….

Trước vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Trong khoảnh khắc đó, anh ta “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng ngay sau “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại” nhân vật tôi – nghệ sĩ nhiếp ảnh đã chứng kiến một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi nó còn ở ngoài xa với một “khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.

Bước ra từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn ông với tấm lưng rộng va cong nhu lưng chiếc thuyền và một đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi. Với không gian nghệ thuật gần với cuộc sống, nhân vật xung tôi bất đầu khám phá. Hình ảnh con người hiện ra với vai trò là nhân vật trung tâm của bức tranh cuộc sống xã hội, để rồi nhân vật tôi bám sâu sâu hiện thực ấy để phản ánh chân thật về con người, về những đều chưa thấy hay chỉ có thể chỉ có nghe. Sau khi đi đến chiếc xe rà phá mìn trên bãi cát, người đàn ông “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Còn người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, không hề kêu một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy. Tại sao lại như vậy, tại sao người đàn bàn nhẫn nhục, chịu đựng những cú thượng cẳng tay hạ cẳng chân một cách chấp đến thế?!

Tất cả mọi việc khiến “tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Tiếp sau đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố. Lão đàn ông “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Người đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa con cũng đuổi theo gã đàn ông, trở lại thuyền. Phía sau họ, “tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng” với ánh mắt ngơ ngác. Hình ảnh ấy, người nghệ sĩ tưởng “Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”,- một quan niện nhân sinh, hãy cứu lấy nhân tính của con người.

Lần thứ hai, nhân vật xưng tôi chứng kiến cảnh người chồng vũ phu hành hạ người đàn bà, dường như bản chất người lính từng chiến đấu vì chính nghĩa đã khiến anh không thể làm ngơ, không thể đứng bên lề với thái độ bàng quan, người kể chuyện đã xông vào can thiệp: “tôi nện hắn (…) bằng bàn tay rắn chắc của người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng”. Từ những cảnh trái ngược diễn ra trong mắt người nghệ sĩ, ta thấy xuất hiện một phép song hành tâm lí. Đó là một biện pháp đối chiếu khách thể và chủ thể tạo thành nghệ thuật cho tác phẩm. Những bất ngờ của nhân vật tôi trong truyện ngắn chính là sự thảng thốt của nhà văn trước thực tế của cuộc sống. Sự song hành tâm lí ấy, đó là một phương tiện để Nguyễn Minh Châu bộc lộ nội tâm của mình một cách sâu nhất. Nhu đã nói ở trên, với truyện ngắn này, nhà văn bày tỏ một quan niệm về nghệ thuật, về con người hay một cách nói chung là mối quan hệ giữa cuộc sống hiện thực với nghệ thuật. Với thời gian trần thuật - Thời gian diễn ra sự kiện được xác định cụ thể, rõ ràng theo tuyến tính trước sau, không thể đảo ngược đã làm cho mạch truyện tự nhiên, làm gia tăng tính kết nối chặt chẽ giữa các tình tiết nghệ thuật. Tạo ra độ căng, độ nóng nhưng không xuất hiện điểm thắt nút của của cốt truyện – hình thức bên ngoài mà chỉ gia tăng chất keo kết dính bên trong nội tâm nhân vật, vừa hàm ý của nhà văn vừa tạo tính chất khách quan cho mạch truyện.

Khi ở tòa án, người kể chuyện - nhân vật xưng tôi tiếp tục bị bất ngờ bởi những nghịch lí: Người đàn bà chấp nhận chịu đựng những trận đòn man rợ chứ nhất định không chịu bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu nói của người đàn bà khiến người kể chuyện “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”. Câu hỏi tại sao chưa được giải đáp!. Có lẽ, cái nhìn vốn chỉ quen nhìn thấy những nét thơ mộng của cuộc sống, người nghệ sĩ đã không thể hiểu và không thể chấp nhận được cách xử sự quái lạ của người đàn bà, thậm chí có thể người nghệ sĩ cho rằng người đàn bà này “ngu”, vừa xấu vừa ngu muội là đằng khác. Nhưng từ những câu trả lời phát ra từ cửa miệng của nhân vật người đàn bà xấu xí với Chánh án Đẩu, với nhân vật người nghệ sĩ, tác giả đã thành công trong việc khắc họa được tính chất bên trong của nhân vật. Sự cam chịu của người đàn bà khi bị chồng đánh là có lí do, có cái giá của nó, nói như Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư thì đến cái tâm sĩa răng cũng giá.

Sự đơn giản trong cái nhìn của “tôi” còn thể hiện qua việc anh hỏi người đàn bà: “Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính ngụy không?” để tìm nguyên do của những hành động dã man của người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà do chính chị ta kể ở tòa án mà người kể chuyện vừa là người chứng kiến và kể lại, vừa là người trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại với chị ta, đã dần dần cho anh câu trả lời về những điều nghịch lí mà anh đã chứng kiến.

Người chồng vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm” nhưng đã trở nên vũ phu là vì khổ quá khổ với chén cơm manh áo. Còn người đàn bà van những người đại diện công lí “đừng bắt con bỏ nó” là vì: “…đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được”. Câu nói giản dị, thật thà như đếm của người đàn bà xấu xí đã có tác động sâu xa tới nhận thức của Chánh án Đẩu và cũng là nhận thức của người kể chuyện: “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu vị bao công của cái phố huyện vùng biển” thật ra cũng là “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu” người nghệ sĩ, một đáp án mà người nghệ sĩ – nhân vật xưng tôi được biết, đó là sự thật phủ phàng. Tất cả chỉ vì cuộc mưu sinh, vì con cái… mà người phụ nữ lại chấp nhận những trận đoàn của ông chồng vũ phu. Sự thật trần trụi của cuộc sống được người nghệ sĩ khám phá, bốc dở sau khi được cấp trên phân công chụp bổ sung vào bộ lịch năm mới một tấm ảnh “(…) cảnh buổi sáng có sương…”.

Trong khi trước đó, người kể chuyện “tin là nếu chiếc Prati-ca trung thành với tôi thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kì một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên thơ nào từ trước” nghĩa là một trăm phần trăm tin vào sự cảm nhận của mình về vẻ đẹp đối với tự nhiên, hay nói cách khác anh ta tin vào chính bản thân mình, khả năng thâu tóm được cuộc sống một cách toàn bích, một người nghệ sĩ am tường về cuộc sống, thậm chí đó là lời thán ca về bản thân mình. Nhưng, sau khi chứng kiến tất cả những gì liên quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy, sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, người nghệ sĩ không giữ cái nhìn ban đầu. Hôm đó, anh ta đã xách máy ảnh đi lang thang trên bãi biển đến tận khuya.  Sau này, mỗi khi nhìn lại bức ảnh, anh luôn có cảm giác: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vần thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”. Bức ảnh trắng đen – sản phẩm linh hồn của người nghệ sĩ, nhưng đó là kết quả cuộc thực tế. Thực tế được phản ánh chân thật, đúng bản chất cuộc sống, và đó cái cần cho một người nghệ sĩ chân chánh. Hay nói cách khác, hãy đổi mới quan niệm sáng tác, văn học và cuộc sống, văn học cần chạm đến cái nhỏ nhoi nhất để cách tân tâm hồn, cái nhìn, một chủ nghĩa không phải không tưởng mà chủ nghĩa hiện thực trong một hình thái mới. Nghệ thuật phải đặt con người vào vị trung tâm, phải ca thán cho những ướt mơ, khát vọng của con người.

Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể chính là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Người kể không chỉ kể lại những điều mắt thấy tai nghe mà còn bày tỏ những cảm xúc chủ quan, những suy nghiệm về nghệ thuật, về con người và cuộc sống con người, về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Trong truyện, vai kể có khi được chuyển sang nhân vật khác - người đàn bà và đi cùng với nó là sự thay đổi góc độ nhìn. Tuyệt nhiên, vai trò chính vẫn thuộc về người kể chuyện xưng tôi nói trên vì lời kể của nhân vật người đàn bà nằm trong lời kể của người kể chuyện. Sự lựa chọn vai kể, góc nhìn như trên nằm trong dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Và chính với lời kể, nhà văn đã thành công trong việc xây dựng nhân vật cho câu chuyện, nhân vật đươc chạm khắc từ ngoại hình đến việc tậm trạng, tích cách, hành động mà ở đây trong Chiếc thuyền ngoài xa là người đàn bà, anh nghệ sĩ Phùng, đại diện cho công lí là Chánh án Đẩu.

Tính chủ quan trước hết bộc lộ trong việc tả thiên nhiên “… một vùng phá ăn sâu vào đất liền”. Là nghệ sĩ cho nên người kể chuyện có khả năng phát hiện, cảm nhận những phương diện nên thơ của cảnh vật thiên nhiên. Đây là vẻ đẹp của vùng phá nước: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá- chiếc thuyền đứng im như làm bằng các tông dán vào cảnh vật êm ả”.

Đây là vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.  Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh để miêu tả cũng thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm của một nghệ sĩ mà cụ thể ở đây là nhà văn Nguyễn Minh Châu – “người mang thế giới cảm xúc đặc thù và trung tâm tổ chức ngôn từ theo nguyên tắc nghệ thuật”. Từ việc miêu tả trên, chúng ta thấy được sức mạnh của ngôn từ nghệ thuật, mà ở đây sự tài hoa, sự đặc tả của nhà văn trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật nhằm thể hiện quan điểm của bản thân mình về đời sống. Không chỉ tinh tế ở cách dùng từ ngữ, mà các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ (Chiếc thuyền ngoài xa), biểu trưng, chúng tạo nên một giá một giá trị thẩm mĩ cao cho tác phẩm.
Tính chân thực thể hiện rõ nhất trong việc miêu tả tâm lí. Cũng như, các nhân vật nghệ sĩ trong những tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu, người kể chuyện- nghệ sĩ Phùng tỏ ra là người có đời sống nội tâm phong phú. Những trạng thái tâm lí của người kể chuyện hết sức đa dạng. Trước hết, là sự rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên được bộc lộ trực tiếp ngay khi miêu tả đối tượng: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại” hoặc khi kể lại những khoảnh khắc đứng trước vẻ thơ mộng của phong cảnh: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh đắt trời cho như vậy (…) đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.”

Có khi là nỗi xót xa trước cuộc sống của những người dân chài thấm đẫm trong giọng kể:“Thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại. Cuộc sống cứ lênh đênh kắp cả một vùng phá nước mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết ở vào một khoảng đất nào.”
Khi kể lại những việc được chứng kiến, người kể chuyện luôn bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình một cách chân thành và thường bộc lộ trực tiếp bằng những từ ngữ chỉ trạng thái tâm lí gay cho người đọc một thiện cảm đặt biết, lôi kéo tâm hồn người đọc cùng căng theo tâm lí nhân vật:“tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “tôi cảm thấy (…) ngột ngạt quá.”

Ngoài ra, tính chân thực còn được thể hiện qua tính hướng nội của lời kể: Trong lời kể thường có những từ ngữ miêu tả trực tiếp các hành vi bên trong, các ý nghĩ, cảm xúc, cảm giác của nhân vật: “Tôi trở nên bối rối…, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy…, tôi chắc mẩm…, tôi kinh ngạc…, tôi cảm thấy…, tôi mới sực nghĩ ra…,” v.v…
Còn khi diễn tả những gì không thể trực tiếp quan sát được, người kể chuyện thường dùng những từ ngữ có tính chất phỏng đoán: “khuôn mặt (…) dường như đang buồn ngủ”, “có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết”, “người đàn bà dường như lúc này mới thấy đau đớn”, “hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”.v.v…Các sự kiện trong truyện được kể lại từ chính điểm nhìn chủ quan của người kể, những cảm xúc, suy tư trước cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống con người được chính người kể bộc lộ trọn vẹn và sâu sắc, độc đáo.
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, sức thuyết phục của những thông điệp mà tác giả Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm có thể sẽ bị giảm sút nếu những hạn chế không được khắc phục bằng một số thủ pháp: Thứ nhất là chuyển vai kể và điểm nhìn nhưng vẫn không làm mất đi vai trò của vai kể chính. Khi chuyển vai kể làm tăng tính khách quan cho câu chuyện: Cách ứng xử kì lạ của người đàn bà khiến người kể chuyện từ kinh ngạc đến phẫn nộ và không hiểu nổi. Nguyên nhân đã được lí giải bằng chính lời kể của người đàn bà về cuộc đời mình. Lời kể của nhân vật này không chỉ giải thích cho cách ứng xử kì lạ của chị ta mà còn giúp người nghe hiểu được phần nào nguyên nhân của hành động vũ phu ở người đàn ông. Lời kể ấy giúp cho Phùng, Đẩu và cả chúng ta nhận ra cuộc đời người đàn bà này không hề đơn giản, suy nghĩ của chị ta không phải là cái sự lạc hậu như chị ta nói mà là của một người thấu hiểu các lẽ đời. Lời kể ấy còn khiến ta cảm động trước lòng vị tha, đức hi sinh của người đàn bà khốn khổ. Điều quan trọng hơn nữa là nó mang lại ấn tượng về tính khách quan cho câu chuyện, bởi đây là lời của nhân vật tự kể về cuộc đời mình, tự nói lên những suy nghĩ của mình.

Thứ hai là đưa vào lời người kể chuyện những đánh giá, những cách nhìn nhận khác nhau về cùng một vấn đề. Ví như, hành động của người đàn ông, người kể chuyện cho đó là hành động tàn nhẫn, anh đã nghĩ có thể lão ta độc ác là do đi lính ngụy. Thằng Phác cũng căm phẫn hành động của cha và nó đã bảo vệ mẹ bằng cách đánh người cha của mình. Cô y tá ở trạm xá thì “kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh cá trong vùng này- do phong tục để lại”. Còn người đàn bà thường xuyên bị chồng đánh đập lại cho rằng chồng mình trở nên độc ác như vậy là vì hoàn cảnh. Chị xác nhận: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Qua những cách nhìn khác nhau ấy về người đàn ông, người đọc nhận thấy không thể nhìn nhận, đánh giá một con người một cách đơn giản, một chiều mà cần phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Người đàn ông ấy vừa đáng bị lên án bởi tính vũ phu nhưng anh ta cũng có chỗ đáng được cảm thông, chia sẻ, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống quá khắc nghiệt. Con người, hay nói chính xác nhân vật trong Chiếc thuyền ngoài bị là nạn nhân của cuộc sống, mỗi nhân vật thuộc một nấc thang khác nhau.

Qua những cái nhìn khác nhau của các nhân vật, đều là sự khúc xạ cái nhìn của tác giả. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại chọn người kể chuyện là một nghệ sĩ đã từng là người lính. Từ điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu mới không kém phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa bình, cuộc chiến đấu này đã làm cho nhiều nhà văn từng trăn trở, ví như Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạng.

Đưa vào trong lời kể chuyện những cách nhìn khác nhau, cái nhìn chủ quan của vai kể đã được khách quan hóa, tạo ra tính đối thoại, thể hiện khuynh hướng dân chủ hóa của văn học. Nhà văn Nguyễn Minh Châu không áp đặt thông điệp của mình cho người đọc mà bằng cách để cho vấn đề hiện lên một cách đa chiều, nhiều khía cạnh buộc người đọc phải nhập cuộc để cùng tìm câu trả lời với tác giả.

Lời kể hay tả trong lời người kể chuyện đều thấm đượm chất trữ tình. Chất trữ tình thể hiện rất rõ trong lời tả thiên nhiên. Nhiều đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của vùng phá nước: Thiên nhiên của Chiếc thuyền ngoài xa là sự phát hiện chất thơ trong những cái tưởng như bình thường, quen thuộc, khơi dậy ở con người “những khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
Lời kể tái hiện sự việc, con người song việc tái hiện ấy nhằm hướng tới những tâm trạng, cảm xúc, chiêm nghiệm: Những phát hiện về cuộc sống với bao nghịch lí dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cách nhìn về cuộc sống của Phùng. Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng chất trữ tình gắn với tính triết lí

Tính triết lí có khi thể hiện qua những suy ngẫm có tính chất triết lí được rút ra sau một sự việc nào đó. Chẳng hạn, sau khi buộc phải đi cảnh biển có sương theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng suy nghĩ về vai trò của hoàn cảnh: “Ở đời cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì”. Sau khi ngẫu nhiên chụp được một cảnh đắt trời cho, Phùng “nghĩ rằng với những tay nhiếp ảnh nghệ thuật nếu không thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba bao nhiêu, anh cũng chỉ thu được những tấm ảnh …vô hồn”. Suy nghĩ ấy chứa đựng triết lí về mối quan hệ giữa tài năng và ngẫu nhiên may mắn. Phùng còn suy ngẫm về bản chất của cái đẹp: “Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức?”. Như vậy, qua lời kể thuật lại những suy ngẫm có tính cá nhân nhưng những suy ngẫm ấy đã vượt qua giới hạn của những hiện tượng cá biệt, vươn tới tầm phổ quát cho người nghệ sĩ hướng đến, chạm vào.

Tính triết lí còn thể hiện qua những hình ảnh mang tính biểu tuợng: Chiếc thuyền ngoài xa với vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích không chỉ là một hình ảnh cụ thể mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống khi người nghệ sĩ tiếp cận nó ở cự li, khoảng cách “xa”, xa ở đây không đơn thuần về mặt không gian nghệ thuật.. Nhưng nghịch lí mà Phùng chứng kiến đều có liên quan đến Chiếc thuyền ngoài xa ấy là một trong muôn vàn những cảnh ngộ éo le có thể gặp trong cuộc sống đời thường. Đó còn là biểu tượng cho những phương diện khuất lấp, phức tạp của cuộc sống mà với cái nhìn hời hợt, đơn giản, người nghệ sĩ khó có thể phát hiện ra. Hãy lật tung những khuất lấp lên trang giấy, để rồi cùng cười, cùng dau đớn, cùng tìm ra một cách lí giải, cùng hướng đến cái thiện, hướng nghệ thuật đến cái  toàn bích, để người nghệ sĩ là người nghệ sĩ của cuộc sống, của của những tâm hồn “Sống”. Hình ảnh cuối truyện: “…tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là ấn tượng chủ quan của người kể chuyện. Đó là sự khúc xạ quan “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” của người kể chuyện. Nó gợi ra cái nhìn mà người nghệ sĩ chân chính cần phải có: Bằng vốn sống, sự trải nghiệm, người nghệ sĩ cần nhận ra không chỉ những gì thuộc bề mặt mà cần thấu suốt bề sâu của cuộc sống vốn nhiều bộn bề, phức tạp.

 Hình tượng tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu chính là một người nghệ sĩ luôn hướng tới cái đẹp trong cuộc sống thực của mỗi kiếp người. Đó cũng chính là nét đặc sắc nổi bật mà nhà văn đã thể hiện trong Chiếc thuyền ngoài xa để rồi khi đã thật sự tìm được câu trả lời cho mỗi nhân vật, mỗi thân phận con người, chúng ta vẫn không nguôi ám ảnh về cuộc đời của họ bởi có thể đó là những người đang hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta. Những con người đó có thể là ta….

Việc lựa chọn người kể vai kể trong truyên ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nằm trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Đó là những suy ngẫm, chiêm nghiệm của Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống về cuộc đời và con người. Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời cần phải nhìn con người và cuộc sống một cách đa diện nhiều chiều thì mới có thể tránh được cái nhìn ấu trĩ, giản đơn. Có thể nói, đặc điểm lời người kể chuyện đã góp phần đưa thông điệp của nhà văn đến với người đọc một cách tự nhiên mà thấm thía. Đồng thời nó tạo nên phong cách ngôn ngữ riêng của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tạo ra một nét riêng, cá nhân độc đáo đối cuộc sống con người.

Chiếc thuyền ngoài xa được xây dựng trên nguyên tắc luận đề, đi vào một khoảnh khắc trong cuộc sống, hướng tới một vấn đề suy nghĩ, nhưng truyện này không có biến cố, xung đột mà chỉ có phát hiện và ngộ ra sự thật. Cốt truyện được xây dựng trên tâm lí nhân vật cùng với hiện sinh cuộc sống. Cốt truyện dựa vào hành động bên trong của của nhân vật. Không phải là mới mẻ với dạng cốt truyện này, song phải nói rằng Nguyễn Minh Châu - là “lời ái đếu cho cho một giai đoan văn học minh họa”, giảm bớt tính ước lệ, thể hiện sự tương quan giữa nghệ thuật với hiện thực đời sống.

Tóm lại, khi nghiên cứu về tác giả thông qua tác phẩm của họ, ta sẽ hiểu được phong cách sáng tác. Ở từng giai đoạn trong một quá trình sáng tác, mỗi tác giả có một cái nhìn; giọng điệu; lập trường lựa chọn, phân tích, đánh giá khác nhau bắt nguồn từ một hình thái xã hội nhất định. Và khi tiếp xúc với tác phẩm là ta tiếp xúc với tác giả của nó. Nhận ra tác giả, đồng cảm với tác giả chính là ta hiểu được tác giả và từ đó có cái nhìn đích đáng về tác phẩm văn học của từng tác giả. Đấy cũng là việc áp dụng hệ luận của thi pháp học để nghiên cứu tác giả thông qua tác phẩm, vì theo GS Trần Đình Sử “Đối tượng của thi pháp học là hình thức mang tính nội dung.” Có thể thấy, qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”; - đúng như tác giả của nó – nhà văn Nguyễn Minh Châu nói: “… Trên con đường đến chủ nghĩa hiện thực đôi khi chúng ta khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài của chính mình.”


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hoa Bằng, Chuyên đề từ hệ luận của thi pháp học, nghiên cứu tác giả, tác phẩm, Cần Thơ, 2013.
2. Nguyễn Lâm Điên- Trần Văn Minh, Đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975, Cần Thơ, 2005.
3. Phong Lê (Chủ biên), Lí luận văn học (Tái bản lần thứ 5), Nxb Giáo dục, 2006.
4. Phong Lê, Đến với tiền trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009.
5. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới (Tái bản lần thứ 1), Nxb Giáo dục, 2003.
6. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Thị Phương, Lí luận văn học và vấn đề suy nghĩ, Nxb Giáo dục, 1999.
7. Nguyễn Trọng Hoàn (Tuyển chọn), Nguyễn Minh Châu về tác giả tác phẩm (Tái bản lần 2, chỉnh lí bổ sung), Nxb Giáo dục, 2007.
8. Bùi Công Hùng, Sự cách tân của thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2000.
9. Dương Phong (Tuyển chọn), Nguyễn Minh Châu tuyển tập, Nxb Giáo dục, 2012.



No comments:

Post a Comment