Ngày nay, sự mở rộng các mối liên hệ quốc tế là một tiền
đề quan trọng tạo ra cơ hội để các dân tộc có thể tiếp xúc, tiếp nhận và vận dụng
thành tựu tri thức của nhân loại. Tuy nhiên, hiệu quả của quá trình đó như thế
nào luôn phụ thuộc vào nhận thức và sự tỉnh táo của chủ thể nghiên cứu, vì nếu
thiếu các yếu tố nền tảng này sẽ đẩy tới tình trạng sai chênh giữa lý luận với
thực tiễn. Việc vận dụng chủ nghĩa hậu thực dân trong thao tác nghiên cứu của
một số bộ môn khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam là một thí dụ.
Gần đây trong một số bài
viết, trên một số diễn đàn, các khái niệm chủ nghĩa hậu thực dân
(postcolonialism), nghiên cứu hậu thực dân (postcolonial studies) thường xuất
hiện cùng với đề xuất vận dụng như là hướng nghiên cứu cần thiết. Tuy nhiên để
có thể vận dụng, cần xem xét chủ nghĩa hậu thực dân là gì, quan niệm và hệ
thống lý thuyết của nó có phù hợp với Việt Nam hay không? Ra đời từ phương Tây
trong những năm 60 của thế kỷ trước, chủ nghĩa hậu thực dân là xu hướng nghiên
cứu các nước thuộc địa cũ - được định danh là các "chủ thể bị câm
lặng" với những vấn nạn về bình đẳng giới, về các tầng lớp xã hội và dân
tộc thiểu số - những vấn đề được coi là di sản thực dân. Xu hướng học thuật này
nảy sinh từ các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội riêng, mà trước hết là
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (hậu kỳ), sự xuất hiện của các tập đoàn kinh
tế khổng lồ, của văn hóa đại chúng và chủ nghĩa tiêu dùng. Cùng với đó, là sự
sa sút quyền lực kinh tế, chính trị của các nước phương Tây khi các nước thuộc
thế giới thứ ba đã liên tiếp giành được độc lập.
Phần nào đó có thể nói, chủ
nghĩa hậu thực dân có nguồn gốc từ truyền thống nhân văn của phương Tây bắt đầu
từ thời kỳ Khai sáng; đó là phản ứng về tri thức và mỹ học, là hệ quả của sự
phình ra của chủ nghĩa tư bản. Nói tóm lại, chủ nghĩa hậu thực dân là sự thích
nghi về mặt tri thức và thẩm mỹ của phương Tây trước các nguy cơ đến từ những
nước mới độc lập và đe dọa vị trí tiên phong của nó trên trường quốc tế.
Trên thực tế, cách thức
hình thành diễn ngôn hậu thực dân không khác biệt nhiều so với cách thức hình
thành diễn ngôn của chủ nghĩa thực dân. Cả hai đều có mục đích là quảng bá cho tính
chất "đàn anh" về tri thức và văn hóa của phương Tây, từ đó hợp thức
hóa sự thiết lập các tổ chức kinh tế, chính trị của các nước phương Tây tại các
nước thuộc địa, hay hậu thuộc địa. Mà chúng ta đều biết, sự thiết lập này không
bao giờ vì sự phát triển của các nước thuộc địa, hay cái gọi là nước hậu thuộc
địa, mà luôn vì sự phát triển kinh tế - chính trị của chính "mẫu
quốc". Ở các thời kỳ trước, diễn ngôn thực dân cô đặc hình ảnh người dân
thuộc địa như là những kẻ ngây thơ, thuộc về thời tiền sử và kém phát triển, do
đó cần sự trợ giúp của các nước thực dân. Vì thế cái gọi là thiện chí "văn
minh hóa" người bản địa, thông qua diễn ngôn thực dân, thực chất là chiêu
bài che giấu lợi ích kinh tế - chính trị. Chủ nghĩa hậu thuộc địa cũng có những
diễn ngôn tương tự như vậy, bằng cách hậu thực dân hóa (postcolonizing) một
loạt văn bản, hiện tượng, phong trào vốn diễn ra trong những thời điểm, không
gian khác nhau ở các nước ngoài phương Tây, từ đó góp phần hợp thức hóa sự tồn
tại của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia và chủ nghĩa tiêu dùng, cũng như
duy trì vị trí "đàn anh", "dẫn đầu" của các nước thực dân
cũ. Giống như chủ nghĩa thực dân vẫn xem các nước thuộc địa ở tầng nấc thấp hơn
trong thang bậc phát triển, chủ nghĩa hậu thực dân tập trung vào điều được gọi
là vấn nạn kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước ở ngoài phương Tây, như:
bất bình đẳng giới, sự phân biệt giữa các giai cấp, giữa các tộc người. Ðó là
cơ sở để những người theo chủ nghĩa hậu thực dân cho rằng, các nước thứ ba chưa
phát triển đầy đủ về "dân chủ", về "cá nhân", "tự
do", "quyền công dân" và về "quốc gia - dân tộc". Từ
đó ra đời các vấn đề: bình đẳng giới, bình đẳng công dân, dân chủ, hiện đại hóa
hay vô vàn khái niệm liên quan đến nhà nước - quốc gia mà không gì khác hơn là
cố gắng hợp thức hóa điều người ta cho rằng: các nước ngoài phương Tây cần sự
can thiệp của các học giả, các tổ chức chính trị và kinh tế quốc tế để giải
quyết những điều bị (được) cho là "vấn nạn" dân tộc, tộc người và
công dân. Như vậy xét đến cùng, đó chính là cổ vũ cho sự phụ thuộc trong các
sản phẩm và thực hành kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước thứ ba vào
phương Tây. Ở Việt Nam,
có thể nhận diện điều này qua hành vi tiêu thụ một cách tràn lan, đôi khi là mù
quáng, các sản phẩm học thuật, kỹ thuật và các thứ hàng hóa đến từ phương Tây.
Ðó thật sự là hành vi tiêu thụ thiếu cẩn trọng, thiếu chọn lọc, thiếu phê phán.
Từ sự ra đời của nó, có thể
nói chủ nghĩa hậu thực dân là trào lưu tri thức bị quy định bởi điều kiện hậu thực
dân (postcoloniality) và quy luật giá trị thị trường vốn được phương Tây sùng
bái. Coi tiêu thụ là thước đo để định giá giá trị tri thức, các lý thuyết gia
phương Tây cố gắng để làm sao sản phẩm tri thức của họ đắt hàng. Và chủ nghĩa
hậu thực dân, với sự tập trung vào những vấn đề dân tộc, công dân ở các nước
thứ ba đã trở thành "lá bùa" bảo đảm cho tính chất có thể tiêu thụ
của tri thức. Do vậy, các nhà kinh tế, các nhà chính trị phương Tây nhanh chóng
tìm thấy trong các diễn ngôn hậu thực dân sự ủng hộ về mặt lý luận cho các
chính sách bành trướng về kinh tế, chính trị, văn hóa của họ. Nói một cách
chung nhất, chủ nghĩa hậu thực dân, thoạt nghe như một học thuyết tỏ ra rất đạo
đức, chăm lo cho thế giới thứ ba về bình đẳng công dân và dân tộc, lắng nghe
tiếng nói của các thế giới dị biệt, các nhóm ngoại biên; nhưng thực chất nó vừa
được sinh ra trong và vừa phục vụ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, như
là một cố gắng khắc phục, duy trì giấc mơ về tính siêu việt của kinh tế, chính
trị, văn hóa phương Tây.
Với một số tác giả đang cổ
vũ cho việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa hậu thực dân, nghiên cứu hậu thực
dân để nghiên cứu một số vấn đề văn học, nhân học thì phân tích trên đây có thể
là điều khó chấp nhận. Song, không thể phủ nhận một sự thật đã và đang tồn tại
trong nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là: trong khi các học giả phương Tây luôn
ý thức về "tính siêu cường", vai trò "đàn anh, đàn chị" trong
quan hệ với các nước thứ ba, thì lại có một số tác giả ở Việt Nam lại quen với
vị trí "nhược tiểu" của mình. Với họ, cái gì của ta cũng thấp kém,
cái gì của Tây cũng là tiến bộ, là đi trước, dẫn đến sự tiếp thu thiếu phê
phán. Thiếu phê phán trong khi tiếp nhận tri thức đến từ phương Tây có thể để
lại hậu quả khôn lường. Bởi, như chủ nghĩa hậu thực dân chẳng hạn, nó cổ súy
cho vị trí siêu cường của tri thức phương Tây, hợp thức hóa vai trò "đàn
anh, đàn chị", có thể mở ra "đột phá khẩu" cho sự can thiệp của
phương Tây đối với Việt Nam trong nhiều vấn đề khác nhau.
Cũng cần xem xét, phân tích
từ một phương diện khác là chủ nghĩa hậu thực dân không tương thích với thực tế
Việt Nam.
Từ cội nguồn của nó, chủ nghĩa hậu thực dân chủ yếu được khái quát từ thực tiễn
kinh tế, chính trị, văn hóa của Ấn Ðộ hiện đại - một thuộc địa cũ của thực dân
Anh. Chúng ta có thể nhận thấy rất rõ Ấn Ðộ thời thuộc địa không có những tính
chất gần gũi với Việt Nam
thời thuộc địa. Quan trọng hơn, sau khi giành được độc lập, nếu Ấn Ðộ đã phải
trải qua thời "hậu thuộc địa" thì Việt Nam lại không trải qua thời kỳ này.
Tính chất cơ bản của một chế độ chính trị - xã hội mới (trong định hướng phát
triển, khẳng định hệ giá trị và cách thức tổ chức xã hội, cùng vai trò là
chủ thể xã hội của con người,...) đã được xác lập từ khi Việt Nam chưa giành
được độc lập. Và sau khi giành được độc lập, dù còn một số "mảnh vỡ"
của thời thuộc địa cần khắc phục, thì Việt Nam đã phát triển trên con đường
hoàn toàn mới. Do đó, chủ nghĩa hậu thực dân không tương thích với hoàn cảnh
riêng của Việt Nam,
dù là một thuộc địa cũ. Nhưng, một số nhà nghiên cứu (cả Việt Nam và nước
ngoài) lại sử dụng "lăng kính" của chủ nghĩa hậu thực dân soi chiếu
thực tế Việt Nam để "phát hiện" ra vô số vấn nạn xã hội, chính trị và
văn hóa tương tự như Ấn Ðộ! Và đáng tiếc là các vấn nạn này lại trùng khớp với
quan niệm, định nghĩa về các nước thứ ba trong học thuật phương Tây hơn là khớp
với thực tiễn, đặc điểm, truyền thống Việt Nam. Thêm nữa, khi đề cao ý kiến của
các nhà lý luận chủ nghĩa hậu thực dân và một số tác giả nước ngoài sử dụng lý
thuyết này để nghiên cứu Việt Nam, dường như họ đã quên rằng, các tác giả này
đều làm việc tại một đơn vị học thuật thuộc một chính thể nhất định. Dù khách
quan thì phương pháp và nội dung nghiên cứu của họ vẫn chịu sự chi phối của chế
độ xã hội mà họ là thành viên.
Thiết nghĩ, trong điều kiện
của Việt Nam, việc tiếp nhận các lý thuyết khoa học từ phương Tây là điều cần thiết,
nhưng từ tính lịch sử - cụ thể của các vấn đề ở Việt Nam mà sự tiếp nhận luôn
cần sự tỉnh táo và luôn đi kèm tinh thần phê phán, như với chủ nghĩa hậu thực
dân chẳng hạn. Nói cách khác, trước khi tiếp nhận cần xác định xem lý thuyết ấy
có phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và sự phát triển của Việt Nam hay không.
Và cần chú ý, phải dựa trên tinh thần, sự tự tin, bản lĩnh dân tộc để không bị
chi phối bởi tâm lý chạy theo phương Tây về tri thức và vật chất. Dù thế nào
thì không phải là ngẫu nhiên, yếu tố dân tộc lại trở thành một trong ba nguyên
tắc chỉ đạo của Ðề cương văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 (Dân tộc - Khoa
học - Ðại chúng). Trong bối cảnh phức tạp của những mối liên hệ hiện nay, chúng
ta hội nhập, học hỏi từ nhân loại nhưng không được đánh mất mình. Ngay cả khi
đối diện và thích ứng với vấn đề toàn cầu hóa về tri thức, thì tinh thần dân
tộc vẫn là một trong những yếu tố cơ bản để Việt Nam phát triển bằng chính trí tuệ
và khả năng của mình.
PHẠM CHI
Nguồn: Nhân dân điện tử
No comments:
Post a Comment