Thực tế nghèo nàn về thành tựu khoa học xã
hội và nhân văn của chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trong lối tư duy độc
tôn một thời và đang tiếp tục ở lĩnh vực học thuật. Cội nguồn sâu xa của lối tư
duy ấy đang nằm trong di chứng của thời kì chiến tranh kéo dài ba mươi năm và
cuộc đấu tranh ý thức hệ tàn khốc. Nhiều người thường nói chiến tranh Việt Nam đã để lại di chứng nặng nề trong tâm thức
người Mĩ. Nhưng thời gian tham gia của họ vào chiến tranh Việt Nam chỉ hơn
mười năm. Thời gian chúng ta trải qua chiến tranh dài gấp ba họ và còn cõng
thêm cuộc chiến tư tưởng cũng lâu bằng ngần ấy năm lẽ nào không để lại di chứng
nặng nề trong tâm hồn người, cái mà nhiều người hôm nay vẫn gọi là chấn thương?
Quy luật khắc nghiệt của hai cuộc chiến chồng chất ấy đã để lại nếp hằn sâu đậm
trong tâm lí và tư duy, đến nay vẫn còn có tác dụng chi phối cách nghĩ, cách
làm của con người hôm nay trong mọi hoạt động xã hội và cá nhân.
Trong lĩnh vực văn hoá và tư tưởng thời ấy, mọi hoạt động khoa học, nghệ thuật và nói chung là văn hoá đều nằm trong phạm vi hình thái ý thức của nhà nước. Mà đã thuộc về hình thái ý thức của nhà nước thì phải thực hiện nhiệm vụ đấu tranh triệt để, không khoan nhượng: “Phàm cái gì chống lại tinh thần dân tộc độc lập và thống nhất, phải thẳng cánh đập tan. Phàm cái gì trái khoa học, phản tiến bộ, phải kiên quyết bài trừ. Phàm cái gì phản lại đại chúng, xa đại chúng, phải nhất luật san phẳng.”(Lời ông Trường Chinh). Đường lối cứng rắn, phân hoá địch ta rõ rệt có tác dụng xác lập mục tiêu, tập hợp lực lượng nhất định. Nhưng đồng thời, đó cũng là tư tưởng, đường lối làm cho xã hội quen sống trong môi trường tư tưởng độc tôn, duy nhất, luôn luôn coi phân biêt địch ta, đúng sai, tiến bộ, lạc hậu, dân tộc, phản dân tộc, khoa học, phản khoa học… theo một tiêu chí cố định, một lập trường, quan điểm cứng rắn, rồi trên cơ sở đó mà tiến hành nghiên cứu, đấu tranh học thuật. Lâu dần, hình thành một thứ tâm lí đấu tranh ý thức hệ ăn sâu trong tâm thức của nhiều thế hệ đến nỗi chiến tranh đã qua lâu rồi, đối lập ý thức hệ trên thế giới cũng qua rồi mà nó vẫn còn hiện diện như một cái gì đương nhiên, hợp lí trên đất nước ta.
Trong lĩnh vực văn hoá và tư tưởng thời ấy, mọi hoạt động khoa học, nghệ thuật và nói chung là văn hoá đều nằm trong phạm vi hình thái ý thức của nhà nước. Mà đã thuộc về hình thái ý thức của nhà nước thì phải thực hiện nhiệm vụ đấu tranh triệt để, không khoan nhượng: “Phàm cái gì chống lại tinh thần dân tộc độc lập và thống nhất, phải thẳng cánh đập tan. Phàm cái gì trái khoa học, phản tiến bộ, phải kiên quyết bài trừ. Phàm cái gì phản lại đại chúng, xa đại chúng, phải nhất luật san phẳng.”(Lời ông Trường Chinh). Đường lối cứng rắn, phân hoá địch ta rõ rệt có tác dụng xác lập mục tiêu, tập hợp lực lượng nhất định. Nhưng đồng thời, đó cũng là tư tưởng, đường lối làm cho xã hội quen sống trong môi trường tư tưởng độc tôn, duy nhất, luôn luôn coi phân biêt địch ta, đúng sai, tiến bộ, lạc hậu, dân tộc, phản dân tộc, khoa học, phản khoa học… theo một tiêu chí cố định, một lập trường, quan điểm cứng rắn, rồi trên cơ sở đó mà tiến hành nghiên cứu, đấu tranh học thuật. Lâu dần, hình thành một thứ tâm lí đấu tranh ý thức hệ ăn sâu trong tâm thức của nhiều thế hệ đến nỗi chiến tranh đã qua lâu rồi, đối lập ý thức hệ trên thế giới cũng qua rồi mà nó vẫn còn hiện diện như một cái gì đương nhiên, hợp lí trên đất nước ta.
Trong điều kiện chuyển đổi hình thái xã hội, tiến sang kinh tế thị trường, tự
do cạnh tranh, dục vọng cá nhân trỗi dậy, tính háo danh bùng phát, đồng thời ý
thức quyền lực không chỉ vẫn nguyên, mà có cơ mạnh mẽ hơn, vì khả ăng thuyết
phục yếu hơn, cơ chế dân chủ không được thực hiện đầy đủ, di chứng ấy lại có
dịp bộc lộ với nhiều sắc thái.
GS Trần Đình Sử |
1.Phê phán nhiều, sáng tạo ít.
Phải nói ngay rằng
phê phán là một công cụ của tiến bộ. Bất cứ xã hội nào muốn tiến bộ nhất thiết
phải có năng lực phê phán và chấp nhận những người phê phán. Song khái niệm phê
phán ở đây có một nội hàm đặc biệt. Chúng ta đặt mục tiêu bảo vệ sự thuần
khiết, trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và đường lối chính trị của Đảng cầm
quyền, do đó mọ phê phán chỉ nhằm đánh đổ mọi tư tưởng khác có thể làm phương
hại hay phân tán khỏi tư tưởng trung tâm. Trong chế độ của ta không thừa nhận
cái khác. Hoặc là ta hoặc là địch, không có cái thứ ba. Từ trước Cách mạng
tháng Tám, trong điều kiện thuộc địa, nhưng Việt Nam đã có nhiều nhóm có xu hướng tìm
tòi học thuật khác nhau, có thể nói là đa nguyên. Có báo chí tư nhân, có cơ hội
cho ý kiến khác được phát biểu. Bắt đầu từ “Đề cương văn hoá”, chúng ta dần dần
chỉ thừa nhận một khuynh hướng, một cách hiểu, một tư tưởng, bắt đầu phê phán
nhóm Thanh Nghị, nhóm Hàn Thuyên, nhóm Xuân Thu nhã tập. Trong Kháng chiến
chống Pháp chúng ta phê phán thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, phê phán thơ
Mới lãng mạn, phê phán những ai không thừa nhận văn nghệ là tuyên truyền. Sau
hoà bình chúng ta phê phán nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, tiếp theo phê phán “chủ
nghĩa cá nhân và chủ nghĩa xét lại hiện đại” trong văn nghệ, phê phán các ý
muốn bổ sung hay nới rộng cách hiểu một vài vấn đề cụ thể của văn nghệ, như
tính chân thật, tính ước lệ của văn học, “phá vỡ lôgich cuộc sống”. Nói
là “phê phán” nhưng không phải là thảo luận hay tranh luận học thuật nhằm tìm
ra chân lí, mà thực chất là quy chụp, áp đặt cách hiểu duy nhất, tổ chức các
cuộc những cuộc đấu tranh có tính đấu tố, nhằm quét sạch hay thủ tiêu các quan
điểm khác với mình. Chính vì vậy mà nói chung bên bị phê phán không có quyền
nói lại, không có quyền bảo vệ hoặc trao đổi ý kiến, họ không có lẽ phải nào,
còn bên phê phán thì tha hồ nhân danh chính nghĩa, chủ nghĩa, nhân danh quần
chúng nhân dân, nhân danh cách mạng, nhân danh văn hóa, nhân danh bản sắc dân
tộc mà chụp mũ, quy kết các tội danh nguy hiểm về chính trị và tư tưởng, lối
sống. Một phương pháp đấu tranh hữu hiệu là bôi nhọ nhân cách bằng cách chỉ ra
lối sống hủ hoá, đồi truỵ, cá nhân chủ nghĩa hoặc tính cách tự cao, tự đại, xa rời
quần chúng hoặc biểu hiện dốt nát, gian trá… của bên bị phê phán, làm cho họ
trở thành kẻ đáng khinh bỉ, đáng ghét bỏ. Các cuôc đấu tranh ấy thường đều kết
thúc bằng việc bên bị phê phán phải viết bản kiểm điểm và nhận một hình thức xử
lí nặng hay nhẹ tùy theo mức độ nguy hiểm, về hành chính, tổ chức hay hình sự.
Trong không khí ấy chẳng ai còn muốn hoặc có thể sáng tạo ra học thuyết, tư
tưởng gì khác cho thêm phiền, mà nói cho đúng, lúc ấy chúng ta cũng không muốn
có bất cứ tư tưởng nào khác ngoài tư tưởng chính thống, và con đường còn lại
chỉ là “bàn thêm”, “mở rộng”, “nói rõ thêm”, “cụ thể hóa”, tức là minh hoạ cho
tư tưởng chính thống ấy mà thôi. Vì vậy lúc ấy tuy chúng ta đã có không ít công
trình khoa học mới, có giá trị nhất định về sử học, văn hoá, văn học, ngôn ngữ,
lí luận văn học, nghệ thuật học…tuy mức độ giá trị khoa học khiêm tốn khác
nhau, song các công trình ấy ít nhiều đều nặng về tính chất minh hoạ cho tư
tưởng chính trị. Một số công trình khoa học có tính độc lập nhưng trái chiều
thì phải cất đi, đến thời kì sau này mới có điều kiện công bố, ví như Tìm
hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc, nghiên cứu về
Nho giáo của Trần Đình Hượu, ngữ học của Cao Xuân Hạo. Một số công trình phê
phán có tính thời sự đương thời như Phê phán chủ nghĩa xét lại hiện đại
trong văn nghệ của Hoàng Xuân Nhị , Phê phán chủ nghĩa hiện sinh của
Đỗ Đức Hiểu thì sau này chính tác giả của chúng có phần lấy làm tiếc, giá trị
khoa học thiếu hẳn sức thuyết phục.
Tâm thức và
cách ứng xử ấy hầu như vẫn còn giữ nguyên trong những năm thuộc thời kì đổi mới
trong các cuộc tranh luận lí luận, phê bình sách giáo khoa, về các tác phẩm văn
học, về luận văn khoa học. Cái mới của thời kì đổi mới có khi là những người bị
phê bình không bị làm kiểm điểm hay xử lí về hành chính và tổ chức, nhưng họ
vẫn bị chụp mũ, quy kết, chửi bới, bêu riếu mà không có quyền bảo vệ ý kiến của
mình trên mặt báo. Ngày nay thì hầu như lại đang muố lặp lại nếp cũ. Có thể coi
đó là biểu hiện rõ rệt của sự thiếu tính nhân văn.
2. Công
kích nhiều, thừa nhận ít.
Tâm thức cảnh
giác, đấu tranh tư tưởng trở thành thói quen thường trực trong những người làm
công tác văn hoá văn nghệ. Trước một ý kiến mới, khác với truyền thống, người
ta liền cảnh giác, nghĩ ngay đến một xu hướng muốn phủ nhận các thành tựu đã có
của cách mạng và đặt vấn đề nghi vấn, phê phán, có khi nghiêm trọng hơn, người
ta nghĩ là phản động, bị lực lượng thù địch lợi dụng. Vào đầu những năm 60, có
người nêu phương pháp sáng tác có tính độc đáo thẩm mĩ, thế là có người đặt vấn
đề nhầm lẫn phương pháp với phong cách (bởi chỉ phong cách mới độc đáo!), phải
chăng là định đem phong cách thay thế cho phương pháp sáng tác, một vấn đề cốt
tử đối với nền văn học! Thế là tranh luận, chụp mũ không dứt. Sang những
năm 70, có người nêu vấn đề tiếp nhận của người đọc, lập tức ông Vũ Đức Phúc,
một người chủ trì Tạp chí văn học hồi ấy nghĩ ngay đến vấn đề, đề cao việc
người đọc tự tiếp nhận tức là xem nhẹ vai trò định hướng, giáo dục của văn học
đối với quần chúng, đề cao tiếp nhận có nghĩa là xem nhẹ lí luận sáng tác, vậy
là tổ chức tranh luận ầm ĩ. Đến những năm 80 trước một số ý kiến đánh giá laị
văn học cách mạng, Phan Cự Đệ và một số người nghĩ ngay đến xu hướng phủ định
văn học cách mạng. Trước một vấn đề mới, người ta không suy nghĩ đến khía cạnh
khoa học mới và khác ở trong đó, mà nghĩ ngay đến sự phương hại của cái mới ấy
đối với trật tự lí luận đã xác lập. Thế là vấn đề tiếp nhận của người đọc, một
vấn đề lí luận quan trọng bị gác lại, phải mười lăm năm sau nó mới được đề cập
tới. Trong các cuộc tranh luận ấy phần lí tính thì ít mà phần phi lí tính, định
kiến, thiên kiến thì nhiều, do vậy không bao giờ đem lại một kết quả nào về
khoa học. Chúng ta ít có thói quen khi có người nêu ra ý mới thì nên xem xét
đúng sai, lợi, hại, thấy có chỗ đúng và lợi thì góp sức phát huy, làm cho tư
tưởng ấy phát triển. Ngược lại chúng ta hầu như chỉ quen phát hiện cái mặt yếu,
mặt sai, mà mặt này, đối với các ý kiến mới đề xuất nhiều khi khó tránh được,
bám vào đó mà đánh, làm cho cái mới, cái hay không thể nào phát huy được. Chúng
ta không quen thừa nhận thành tựu của nhau, cùng suy nghĩ với nhau, tìm thấy
hạt nhân hợp lí để mở rộng không gian tư tưởng. Thói quen đó sẽ phát huy tính
tiêu cực của nó trong thời kinh tế thị trường, báo chí muốn bán chạy, nhiều
trường hợp người ta không chỉ khai thác một vài khiếm khuyết nhỏ, mà còn không
ngại ngần bịa đặt, bóp méo thêm để công kích, bất chấp lương tâm, phải trái,
làm cho dư luận rối tung, không biết đâu mà lần. Đó cũng là biểu hiện thiếu
nhân văn.
3. Thù hận
nhiều, khoan dung ít
Trong chiến tranh, cách
mạng mọi người đòi hỏi vạch rõ ranh giới bạn thù, địch ta để tiến hành cuộc đấu
tranh một mất một còn, không khoan nhượng, tuyên truyền giáo dục cho quần chúng
một mối “thù muôn đời muôn kiếp không tan” đối với kẻ thù. Không chỉ đối với kẻ
thù cầm súng như thế, mà đối với “kẻ thù”cầm bút, kẻ thù tư tưởng cũng như thế,
không thể có sự khoan nhượng, thoả hiệp, thông cảm trên các mặt quan điểm, lập
trường, khuynh hướng giá trị về văn hoá, văn học và tư tưởng. Ai có dịp
đọc lại các hồ sơ về các cuộc đấu tranh tư tưởng trước đây sẽ thấy, nhiều người
vốn là đồng chí, đồng nghiệp, vốn đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử với nhau,
chỉ sau một cuộc đấu tranh tư tưởng, sau khi vạch rõ “ranh giới”, liền trở
thành kẻ thù, đứng ra vạch mặt, tố cáo nhau như kẻ thù của ý thức hệ, đẩy đối
phương vào bước đường cùng. Đó là do cần phải thể hiện tinh thần chiến đấu,
chiến đấu không khoan nhượng mà thành ra thế. Phải nói rằng đó là một cách đơn
giản hoá cuộc sống rất nguy hại của thời đối kháng ý thức hệ, bởi vì người ta
đã dùng quyền lực để chiến đấu, áp đặt nhận định, kết luận thì còn cần gì tiêu
chuẩn chân lí khách quan nữa? Và thế là nhiều cuộc đấu tranh diễn ra bất công,
bất chấp lẽ phải thông thường, làm thương tổn biết bao người làm nghề sáng tạo
mà đến hôm nay vết thương vẫn chưa lành. Chiến tranh đã qua lâu rồi, đứng trước
nhiều vấn đề học thuật, văn hoá, văn học, giáo dục phức tạp, vốn nhất thời không
thể dễ dàng vạch rõ được đúng sai, phải trái, nhưng thói quen cũ lại tái phát,
lại có nhiều người nhân danh chế độ, nhân danh xã hội, nhân danh công luận phê
phán theo lối vùi dập và đăng một lúc nhiều báo mà không cho nói lại. Có lần
tôi tiến hành đối thoại với một nhà lí luận phê bình khác về sáng tác của một
nhà thơ, tôi dành thiện cảm cho nhà thơ ấy, nhưng đồng thời nêu một số ý tưởng
về lí luận. Vấn đề ấy còn để ngỏ, đúng hay sai đều có thể bàn thêm. Không
ngờ “vụ ấy” được hiểu như là “hạ bệ thần tượng”, xúc phạm thành tựu của văn học
cách mạng, và sau đó không lâu tôi nếm “đòn thù” bởi một lí do bịa đặt. Tôi
từng đề nghị với một nhà thơ có ý kiến khác về một số bài viết của tôi, tiến
hành đối thoại trên tinh thần học thuật, nêu lí lẽ để cùng trao đổi, tham khảo,
nhưng nhà thơ ấy im lặng, lãng tránh và sau đó dùng chiêu “ra tay trước”, đăng
báo để áp đặt ý kiến của mình cho công luận với thái độ trịch thượng. Có lần
tôi nêu ý kiến phê bình văn học chúng ta còn “thiếu chuyên nghiệp”, (vấn đề mà
gần đây Nghị quyết 23 BCT nhắc đến và Hội nhà văn Việt Nam đang tổ chức triển
khai thảo luận!) thế là chuốc lấy một cuộc phê phán có tính hội đồng, mấy người
phao lên rằng chính tôi là không chuyên nghiệp, tôi không phải nhà phê bình,
lại còn nêu một vài chi tiết chưa chính xác của tôi để phủ nhận việc phê bình
thơ của tôi. Thế là vấn đề mà tôi nêu ra để xây dựng đã bị vùi lấp một cách oan
uổng. Rõ ràng đó không phải là tranh luận học thuật mà công kích cá nhân.
Có nhà thơ viết hết bài bày qua bài khác, phát huy tài năng bịa đặt, xuyên tạc
để công kích hầu hết các nhà trí thức, trong đó có tôi. Đó là cách làm vượt ra
ngoài phạm vi phê bình mà trở thành hành vi vu khống, hãm hại. Có người còn bịa
đặt chứng cớ, xuyên tạc để dễ bề đánh đổ đối phương. Như thế mà có người
khen là có tinh thần chiến đấu! Đó là biểu hiện thiếu tính nhân văn.
Tâm lí đấu tranh tiêu
diệt kẻ thù đã làm mất đi tinh thần khoan dung vốn có truyền thống lâu đời
trong xử thế của người Việt và người phương Đông. Trung thứ của đạo Nho, từ bi
của đạo Phật đã ăn sâu vào tâm lí người Việt bao đời. Thực ra đã làm nghề phê
bình, nghiên cứu thì khó mà tránh khỏi sơ suất, nhầm lẫn. Không ít nhà phê bình
tầm cỡ, được một thời sùng bái mà vẫn nhầm lẫn ở một số chỗ buồn cười, nhất là
trong tiểu tiết. Có sơ suất nhầm lẫn thì tuỳ mức độ mà phê bình. Không thể vì
một sơ suất nhỏ chỉ đáng dọn vườn mà đưa ra những kết luận nặng nề về trình độ,
nhân cách, học vấn. Ở đây phê bình cần có sự khoan dung, thông cảm mới khích lệ
người ta vượt qua để làm tốt những việc khác. Tiếc thay trong phê bình, thảo
luận học thuật một số người đã đem tinh thần căm thù giặc mà thay thế cho tinh
thần khoan dung.
Truyền thống tư tưởng
phương Đông ở Trung Quốc và Việt Nam xưa chủ trương trọng tình và
trọng văn trong phê bình. “Trọng tình” nghĩa là coi trọng tự thân thể nghiệm, lời
văn bao giờ cũng chứa chan tình cảm. Đồng thời coi trọng quan hệ giữa người với
người, tức tinh thần nhân văn theo nguyên tắc nhân ái, “kỉ sở bất dục vật thi ư
nhân”. Đọc các bài tựa, bạt trong sách Từ trong di sản sẽ thấy tinh thần
trọng tình ấy.“Trọng văn” nghĩa là thích văn hoa, thích văn đẹp, khác với
phương Tây chỉ thích văn chặt chẽ, rõ ràng. Người xưa cũng thích lí tính, thích
văn có triết lí, lời gần mà ý xa, có nhiều ngụ ý.
Tuy nhiên truyền thống tư
tưởng của chúng ta thiếu vắng các cuộc tranh luận khoa học thật sự, vì truyền
thống ấy coi trọng “chữ đồng”; “Tam giáo” rất khác biệt vẫn “đồng nguyên”. Do
coi trọng chữ đồng cho nên xã hội, văn hoá ít có biến động lớn, xã hội gần như
dẫm chân tại chỗ, ít phát triển. Trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhân tố
“hữu biệt” có ý nghĩa kích thích đối với sự phát triển của khoa học. Mà đã “hữu
biệt” thì tất nhiên cần có tranh luận để tìm ra chân lí. Không phải vô cớ mà từ
khi bước vào thế kỉ 20 trên văn đàn Việt Nam xuất hiện lại nhiều cuộc tranh luận
về học thuật, tư tưởng đến như thế. Đó là cái mới, đòi hỏi tinh thần nhân văn
mới, khác với tinh thần nhân văn thời phong kiến.
Nhân văn trong xã hội hiện
đại trước hết gắn liền với các tư tưởng về quyền của con người, như dân chủ, tự
do, bình đẳng; gắn với ý thức về tính chủ thể của mỗi người, với tinh thần đối
thoại trong quan hệ với các thành viên xã hội khác. Tinh thần nhân văn đòi hỏi
mỗi người phải tư duy bằng cái đầu của mình, kinh nghiệm của mình, không được
dựa dẫm vào người khác, làm công cụ nói theo người khác.
Mặt khác, tinh thần
nhân văn hiện đại không chấp nhận bá quyền độc thoại của một số ít người, một
tầng lớp người, còn đại đa số nguời khác thì bị tước đoạt mất tiếng nói. Vì vậy
mà có điều khoản tự do ngôn luận được quy định trong hiến pháp. Tinh thần nhân
văn không thừa nhận độc quyền chân lí. Chỉ một số ít “ưu tú, “tinh hoa” là có
chân lí, còn những người khác thì chỉ có nhầm lẫn và sai lầm!” Không đúng, đó
chỉ là huyền thoại thuần tuý của ý thức độc thoại lỗi thời. Điều này nhà lí
luận Nga M. Bakhtin đã nói rõ. Chân lí không thể tự nó thừa nhận, cũng không
thể chỉ do một người phát minh thừa nhận. Chân lí nằm trong đối thoại và chỉ qua
đối thoại mới được mọi người thừa nhận. Và ai có điều kiện nghiên cứu, tìm
hiểu, học hỏi thì sẽ có điều kiện tiếp cận chân lí nhiều hơn người chỉ biết áp
đặt nhận định tuỳ tiện.
Tinh thần đối thoại dựa
trên nền tảng tôn trọng sự tồn tại của mỗi người, xem con người là chủ thể,
không phải đồ vật. Là chủ thể, con người không chấp nhận người khác kết luận về
mình một cách tuỳ tiện, con người luôn có nhu cầu và khả năng nói tiếng nói
cuối cùng về mình. Do đó đối thoại đòi hỏi phải biết lắng nghe. Trong cuộc
tranh luận mà người tham gia chỉ muốn giành phần thắng bằng mọi giá thì chân lí
không xuất hiện, bởi vì lúc đó lẽ phải tắt tiếng. Theo Bakhtin, tồn tại có
nghĩa là sống giữa ý thức và lời của người khác, không ai có thể sống ngoài ý
thức và lời của người khác, và cũng không ai có thể đứng ngoài sự phán xét của
người khác. Bao nhiêu người đã làm mưa làm gió vào thời khi họ còn nắm chút quyền
lực, một khi thời họ qua đi, hãy lắng nghe xem người ta nói gì về họ.
Nhà lí luận phê bình văn
học đương đại Trung Quốc Tiền Trung Văn nhận xét, lối tư duy chỉ thừa nhận đã
là A thì không B, chỉ tôi đúng, anh sai, chỉ tôi thắng anh thua, là kết quả của
truyền thống tư duy độc thoại siêu hình thâm căn cố đế. Nhà phê bình trên cho
biết, thực trạng ở Trung Quốc cũng như vậy, người ta vừa phê phán lối tư duy ấy
vừa lặp lại lối tư duy ấy, tiến hành áp đặt người khác một cách ngon lành,
không hề có chút nguyện vọng xây dựng để đi đến đối thoại. Theo ông, đó là do
chỉ chú trọng đến “giải thích” mà bỏ qua sự “hiểu”. Phê bình phải đem đến sự
hiểu. Theo Bakhtin, “khi giải thích thì mới chỉ có một ý thức, một chủ thể, còn
khi hiểu thì có hai ý thức, hai chủ thể….Do có hai ý thức nên khi ‘hiểu’ thì
bao giờ cũng có đối thoại trên một mức độ nhất định.” Trọng tâm của khoa học
nhân văn không ở giải thích mà ở sự hiểu, mà hiểu là đối thoại
giữa người với người, là giao lưu chủ thể với chủ thể, giao tranh ý thức với ý
thức, là anh với tôi thảo luận để cùng bỏ sai tìm đúng, lấy dài bù ngắn,
cùng nhau phát hiện đi đến hiểu vấn đề. Trong đối thoại có khát vọng
đồng thuận với chân lí. Như vậy đối thoại là nguyên tắc nhân văn lớn nhất
của thời đại chúng ta. Trong đối thoại hàm chứa tinh thần khoan dung. Khoan
dung không phải là tha thứ, dung thứ mà là mở lòng thừa nhận người khác, đối xử
với người khác như chính mình.
Lí luận phê bình văn
học của chúng ta thiếu tinh thần nhân văn đã quá lâu rồi, đến nỗi lấy thế làm
thường và vì vậy mà nẩy sinh nhiều hiện tượng không lành mạnh. Đã đến lúc lấy
tinh thần đối thoại mà xây dựng tinh thần nhân văn, học đối thoại để nuôi lấy
tinh thần nhân văn, có như thế thì lí luận phê bình nước ta mới có ngày được
phát triển phong phú thực sự. Một vài người tự độc thoại, tự tâng bốc nhau, dè
bỉu, xuyên tạc người khác thì làm sao có chân lí để xây dựng lí luận và phê
bình lành mạnh.
Bài đã đăng Tạp chí Sông
Hương, Hà Nội, 5 – 10 – 2008, TĐS
Minh Tuấn
ReplyDeleteChuyên viên kinh doanh máy nước nóng năng lượng mặt trời
Tel: 0123 7049 054
Mail: hoangminhtuan.cd@gmail.com
Click xem chi tiết: Bán máy nước nóng năng lượng mặt trời nhập khẩu tại TPHCM hoặc Ban may nuoc nong nang luong mat troi nhap khau tai TPHCM