Tôi
đang dự đám cưới con trai của nhà thơ Trần Ninh Hồ thì nhận được điện thoại của
chị Hương trên Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương gọi vào máy di động của tôi (
Số máy liên lạc được ghi trước trong hồ sơ đăng ký đi Trường Sa). Tôi chưa hề gặp
chị nhưng nhận ra ngay chất giọng mềm mại , ấm áp của người Hà Nội
đã nhiều lần liên lạc, thông báo với tôi về việc chuẩn bị đi Trường Sa. Chị bảo
: 10 giờ ngày 2 tháng 4 năm 2007 anh phải có mặt tại Vùng 4 Hải quân, Cam Ranh
để đi Trường Sa.
Chị nói tiếp: - Anh cho tôi số
fax , tôi sẽ gửi thông báo và giấy mời sau. Tôi trả lời với chị là đang dự đám
cưới, hẹn chị về cơ quan tôi sẽ cho chị số fax. Chị đồng ý. Chị Hương dặn thêm:
Đây là công việc hết sức bí mật không được gọi điện và báo địa đIểm sẽ dến cho
ai ! Tôi chấp hành. Về cơ quan tôi gọi cho chị Hương báo số fax để liên lạc.
Đợi mãi vẫn không thấy chị Hương fax về, tôi suốt ruột điện hỏi chị vì đã mua lỡ
vé tàu rồi. Chị Hương trả lời: - Thông báo này bí mật nên không thể gửi qua máy
fax, sẽ có
người mang đến tận tay cho anh. Quả vậy, gần cuối chiều 28 tháng 3, tôi mới được nhận
thông báo thay cho giấy mời do người của Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương
đưa tới.
Lần này Ban Tư tưởng – Văn hoá
Trung Ương cử 2 đoàn đi Trường Sa. Đoàn 1 gồm 8 người xuất
phát tại Quân cảng, Tân Cảng Sài Gòn. Đoàn 2 gồm 11 người xuất
phát tại Quân cảng Cam Ranh. Tôi thuộc đoàn 2. Ông Vũ Hồng Thanh trưởng Ban
Tuyên giáo tỉnh Bến Tre, trưởng đoàn ốm không đi được, chị Nguyễn Thị Trà Vinh
biên tập viên Trung tâm Dữ kiện-Tư liệu TTXVN cũng vì lý do không đi được. Ông
Đặng Hoài Dũng, Trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh An Giang được đề cử làm trưởng đoàn
2.
Danh
sách đề cử
người đi Trường Sa đã chuẩn bị từ cuối năm 2006. Người được
cử đi phải làm hồ sơ lý lịch. Tôi thầm nghĩ : Đi nước ngoài còn không làm
hồ sơ lý lịch, đi công tác trong nước mắc gì mà phải làm hồ sơ lý lịch.
Ai vượt biên được đâu? Lúc ấy tôi chưa hiểu tình hình Trường Sa đang có sự
tranh chấp khá quyết liệt của nhiều quốc gia nằm trong vùng biển quần đảo này
nên mới có
những ý nghĩ như vậy!
Anh Đỗ Kim Cuông ở trên Ban tư tưởng- Văn hoá Trung ương bảo tôi: - Ai qua biển
Đông, nơi Vùng 4 Hải quân bảo vệ, họ đều phải biết lý lịch. Hoàng ạ, mình ở Phú
Khánh hơn mười năm mà chưa đi được, vì ở dân sự rất ít người được
đi Trường Sa, nên may mắn có dịp này Hoàng đi đi! Tôi nghe ra và chuẩn bị tinh
thần đi Trường Sa!
Đến thị xã Cam Ranh, tôi gọi xe ôm vào Vùng 4 Hải quân. Qua cổng một chẳng ai
hỏi. Đến một chỗ không có biến chắn nào hết thì bị chặn lại. Một người lính
hải quân đội mũ và áo bướm binh chủng chặn tay xe ôm và mời tôi vào doanh trại.
Tôi trả tiền cho người xe ôm để anh ta về thị xã kiếm sống, còn
tôi ngồi chờ
người lính gọi lên cấp trên.
Một thiếu uý mang sắc phục Hải quân chạy xe hon đa 50 đến chở tôi vào vọng gác
chính. Tôi đưa thông báo thay giấy mời của Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương số
77, mật . Trên tít đề là Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà
Nội ngày 28 tháng 3 năm 2007. Một trung tá trực ban nhẹ nhàng bảo tôi : - Đã
nghe thông báo của trên. Anh chờ một lát sẽ có xe chở anh tới địa điểm tập kết.
Trung tá trực ban gọi điện, người thiếu uý lúc nảy lại chở tôi đến một
doanh trại mới.
Đó là Ban ngoaị vụ của Vùng 4 Hải quân. Đợi một lát quảng gần 10 giờ đại biểu
các đoàn thể dân sự cũng tụ tập đông đủ. Có cả sinh viên ttường Đại học Văn hoá
nghệ thuật Quân đội nữa. Sau đó có mấy chiếc xe ca chở mọi người ra
Quân cảng Cam Ranh.
Tôi tranh thủ tìm đọc các tài liệu nói về Trường Sa để hiểu thêm quần đảo này
vì trước đó mình chỉ biết loáng thoáng.
Trường Sa cũng như Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam được tổ tiên gìn giữ từ lâu đời. Năm 1975, giải phóng miền Nam,
Trường Sa trở về với Tổ quốc thống nhất. Quần đảo Trướng Sa được gọi nhiều tên
như Hằng Sa, Đông Sa, Bãi Cát Vàng... Khu vực này là nơi sinh ra các cơn bão
Biển Đông nên còn gọi là quần đẩo bão tố. Quần đảo Trường Sa gồm hơn 100 đảo,
bãi đá, bãi cạn, bãi ngầm diện tích khoảng 180 nghìn kilômét vuông nằm ở phía
Đông - Đông Nam bờ biển Nam Trung Bộ. Phía Bắc là quần đảo Hoàng Sa phía Đông
giáp vùng biển Philippin, phía Nam giáp vùng biển Malaixia,Brunây, Inđônêxia,
phia Tây là vùng lãnh hải của ta. Từ trung tâm quần đảo Trường Sa đến đến vùng
biển Malaixia khoảng 250 hải lý, đến vùng biển Philippin khoảng 210 hải lý, đến
vùng biển Brunây khoảng320 hải lý, đến đảo Hải Nam khoảng 600 hải lý, đến Đài
Loan khoảng 900 hải lý, trong giới hạn vĩ độ 6o 30’N đến 12o O’N và từ
111o 30’ E đến 117o 30’ E.
Trường Sa chỉ có 23 đảo và bãi san hô nhô lên khỏi mặt nước. Thực chất đó là
những đỉnh nhô cao của một cao nguyên ngầm với tổng diện tích khoảng 414 000
km2. Đảo lớn nhất trong quần đảo là đảo Thái Bình ( Ba Bình) có diện tích 0,6
km2, tiếp theo là các đảo Song Tử Tây, Trường Sa, Nam Yết, diện tích mỗi đảo
khoảng 0,1 đến 0,2 km2. Độ cao các đảo không lớn, khi nước thuỷ triều lên ,
những đảo có bình độ lớn nhất cao trên mặt nước chừng 1.5 đến 2 mét; khi thuỷ
triều xuống thấp nhất độ cao của các đảo so với mặt biển cũng chỉ từ 2 đến 5
mét. Có khoảng 18 đảo thuỷ triều không ngập là dân có thể ở được. Thực vật ở
quần đảo Trường Sa có hai nguồn gôc: một là cây mọc tự nhiên như cây bàng vuông,
cây tra, muống biển, cây phong ba, ( dân tự đặt), cây bẫo táp (dân tự
đặt); cây do
người mang từ đất liền ra như dừa,phi lao, cây giàu,ớt tỏi, cây cảnh…
Hàng năm Trường Sa có 131 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên. Mỗi tháng có từ 13
đến 20 ngày gió mạnh. Chỉ tháng 4 là ít gió mạnh. Nhiệt độ quanh năm đều trên
dưới 30oC. Trường Sa là vùng có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt.
Vị trí chiến lược của Trường Sa hết sức quan trọng. Nó án ngữ đường hàng hải
quốc tế nối liền Thái Bình Dương với Ân độ Dương và Đại Tây Dương, giữa Châu
Âu, Châu Phi, Trung Cận Đông, Trung Quốc và Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và
Đông Bắc Á. Là một tuyến đường huyết mạch có lưu lượng tàu thuyền tấp nập vào
ra hàng thứ 2 trên thế giới ( chỉ sau Địa Trung Hải). Trung bình một ngày có từ
250 đến 300 tàu biển các loại đi qua Biển Đông.
Về quân sự, quần đảo Trường Sa là lá chắn quan trọng bao quanh vùng biển và dải
bờ biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Sự liên kết
giữa các đảo, cụm đảo, tuyến đảo thành một hệ thống cứ đIểm tiền tiêu để ngăn
ngừa và đẩy lùi các hoạt động trtanh chấp, lấn chiếm của tàu thuyền nước ngoài.
Vì thế quần đảo Trường Sa luôn được các nhà quân sự, khoa học, chính trị đánh
giá cao.
Trường Sa từ lầu đời đã là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Trong
các tài liệu và bản đồ cổ của Việt Nam và của nước ngoài đã ghi rõ quần đảo
Trường Sa là lãnh thổ và nằm trong hệ thống địa lý hành chính của Việt Nam. Bản
đồ của xứ Đàng Trong do Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774 và Đại Nam nhất thống chí vẽ
năm 1838 thì Bãi Cát Vàng (tức là Trường Sa) là lãnh thổ Việt Nam. Với tư cách
là chủ nhân đất nước, Nhà nước Việt Nam trong nhiều thế kỷ đã giữ gìn bảo vệ
một phần biển đảo thiêng liêng của Tố
quốc.
Trước khi rời đất liền, Lãnh đạo Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân tổ chức họp mặt
thông báo tình hình Trường Sa và lãnh đạo Đoàn công tác cho mọi người biết.
Trung tướng Bùi Văn Huấn, Uỷ viên Trung Ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam làm trưởng đoàn, Chuẩn đô đốc, Chính uỷ quân
chủng Hải quân Trần Thanh Huyền làm phó đoàn. Đại tá Chính uỷ Vùng 4 Hải quân
Nguyễn Đức Long chỉ huy hành quân. Đoàn công tác có 135 người, phục
vụ 69 người,
tổng cộng là 204 người. Cuộc họp điểm mặt chu toàn, vui vẻ. Bữa
liên hoan và cuộc tiễn đưa Đoàn đến Trường Sa lên đường theo nghi lễ Hải quân
hết sức long trọng.
Chiếc tàu HQ 996 chở Đoàn đi với dòng chữ nổi bật: “Nhiệt liệt chào mừng Đoàn
công tác bộ Quốc phòng và các đồng chi đại biểu đi thăm và kiểm tra quần đảo
Trường Sa 04 – 07”.
Chúng tôi lên tàu nao nức hồ hởi. Sau đó đi tìm nơi nghỉ.Tôi giật mình khi thấy
tên, chức danh của mình và nhiều đồng nghiệp khác đã ghi săn ở phòng ngủ. Chao
ơi, bộ đội Hải quân làm công tác quản lý và tổ chức kỹ lưỡng không chê vào đâu được.
Quảng hơn 6 giờ chiều tàu rú còi nhổ neo ra khơi. Quân cảng Cam Ranh đẹp như
một bức tranh thuỷ mạc cổ. Biển xanh, trời xanh, nuí xanh lộng lẫy trong màu
hoàng hôn bát ngát dần dần lùi xa. Tôi thấy lòng mình xuyến xao lúc rời đất
cảng, chạnh nghĩ những chiến sỹ đi công tác lâu dài ngoài biển cả họ bâng
khuâng lưu luyến biết nhường nào khi rời đất liền. Khoảnh khắc đẹp này tôi lại
nhớ đến bài hát “Tâm tình người thuỷ thủ” của Hoàng Vân phổ nhạc bài thơ cùng
tên của nhà
thơ Hà Nhật nổi tiếng một thời: “Tạm biệt em yêu/ Vẫy chào thành phố
cảng thân yêu/ Em ơi, chớ hỏi anh rằng, anh nhiều/ Vì sao xa khơi kia có những
gì kêu gọi anh! Nhổ neo ra khơi anh biết rằng nếu ở cuối trời có những hòn đảo
xinh tươi đầy châu báu/ Hay có nàng thiếu nữ với đôi môi hồng như san hô/ Vẫn
không thể làm anh xa được em yêu!”
Đêm đầu tiên trên biển, mọi người thức
rất khuya, ai cũng lên bong tàu, mũi tàu ngắm nhìn trời nước của Tổ quốc xa
xôi, rộng dài. Và cuộc giao lưu văn nghệ giữa quân dân rất sôi nổi ấm cúng, đậm
đà. Sinh viên nghệ thuật biểu diễn hết mình, các bậc lãnh đạo cao niên cũng
tham gia hát những bài ca mình yêu thích.
Đến sáng ngày thứ ba khi ánh bình mính hồng lựng phía chân trời thì hòn Trường
Sa lớn đã mờ thấp thoáng trong khói sương. Ai có máy ảnh đều lên bong tàu, mũi
tàu tranh thủ chớp lấy nét đẹp hiếm có của một phần đất đai của Tổ quốc.
Vì thời gian
eo hẹp, vì các đảo nằm xa cách, nên Đoàn công tác được chia thành nhiều nhóm để
đi các đảo. Nhóm đi đảo Đá Lát, nhóm lên đảo Trường Sa lớn. Tôi được lên đảo
Trương Sa lớn. Phút đón tiếp đại biểu của các chiến sỹ trên đảo Trường Sa lớn
cũng đầy cảm động và long trọng bằng nghi lễ Hải quân không kém lúc tiễn đưa
Đoàn từ Quân cảng Cam Ranh ra biển. Tôi càng xúc động hơn khi nhìn người thật,
biết việc thật của những con người dạn dày sóng gió, dám hy sinh bám trụ
trên biển đảo, bảo đảm yên bình cho biển trời. Mình như được trở lại quân ngũ
sống những ngày trận mạc hiểm nguy của những ngày đánh Mỹ nhưng thật hào hùng,
nghĩa hiệp của anh bộ đội cụ Hồ.
Trường Sa lớn là thủ phủ của huyện đảo Trường Sa. Trụ sở của Uỷ ban nhân huyện
đóng gần các doanh trại quân đội. Nhà cửa trên đảo rất khang trang không thua
đất liền là bao. Có nhà lầu, có hội trường lớn nhỏ. Công trình vệ sinh: giếng
nước, nhà tắm sạch sẽ khang trang. Nhìn các công trình xây cất trên Trường Sa mới biết
Đảng và Chính phủ đã dầu tư bao nhiêu tiền của mới được
như hôm nay. Bỡi vì ta biết xây một cái nhà hai tầng trên Đảo độ 100 m2 thì
bằng xây một khu phố trên đất liền. Bao nhiêu máu quân dân đổ ra để được như
hôm nay. Khi chúng tôi đến thì huyện đảo Trường Sa đang tổ chức lễ kỷ
niệm 32 năm ngày giải phóng quần đảo Trường Sa ( 29 – 4 – 1975 _ 29 – 4 – 2007)
và tuyên truyền học tập nội dung, thể lệ bầu cử Quốc hội khoá XII vào ngày
20-5- 2007 sắp tới. Ông Tạ Trung Đức, đảo phó, Bí thư Đảng uỷ, tổ ttưởng tổ bầu
cử đang họp mật cử tri nói về quyền lợi và nghĩa vụ công dân khi cầm lá phiếu.
Việc làm này của huyện đảo Trường Sa đã được đưa lên trên báo chí và các cơ
quan truyền thông khác từ nhiều năm trước. Trong đất liền sự kiện này là bình
thường nhưng ở Trường Sa là một sự kiện nổi bật. Hơn 63 cử tri đều hồ hởi lắng
nghe học tập thể lệ bầu cử Quốc hội. Tôi hỏi anh Trần Văn Thăng:- Anh hiểu ý
nghĩa, nội dung bầu cử Quốc hội, quyền lợi, nghĩa vụ của người cử
tri chưa? Trần Văn Thành là chiến sỹ sinh năm 1982 quê ở Quỳnh Ngọc,
Quỳnh Phụ, Thái Bình ra Trường Sa 7-2006. Thăng đáp: - Tôi biết 2 tháng
nữa sẽ bầu cử Quốc hội khoá XII, tôi thấy cuộc bầu cử có nhiều ý nghĩa quan
trọng với nước ta ở thời kỳ đổi mới, hội nhập. Bầu cử Quốc hội thể hiện quyên
dân chủ của một công dân để chọn người xứng đáng lo việc nước. Tôi hoàn toàn
thông suốt và tự hào khi cầm là phiếu đI bầu. Vinh dự hơn nữa mình là người chiến
sỹ Trường Sa được đi bầu cử . Tôi cười:- Bạn nói khá sách vở đấy. Thành
đáp: -Không phải, em hiểu từ tấm lòng của em! Đây là lần đầu tiên em được đi
bầu cử.
Rời tổ bầu cử, tôi tìm gặp anh em chiến sỹ của Trạm ra đa 11. Ngày 12 tháng 12
năm 2000, Trạm ra đa 11 được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang trong thời kỳ đổi mới. Trạm ra đa 11 thuộc D 292, F 377, Quân
chủng Phòng không – Không quân có bề dày trong kháng chiến chống Mỹ và làm
nghĩa vụ quốc tế ở Cămpuchia. Ngày 17-3-1988 khi xảy ra sự đụng độ ở Trường Sa
với nước ngoài thì đơn vị được lệnh hành quân ra đảo. Từ đó đến nay 19 năm làm
nhiệm vụ trên đảo, mặc dù vũ khí, khí tài cũ, sử dụng nhiều năm hỏng hóc nhưng
đơn vị vẫn liên tục sẵn sàng trực chiến bảo đảm chiến đấu 24/24giờ, quản ly tốt
các mục tiêu bay qua khu vực.
Năm 2006, đơn vị đã kịp thời bắt và phát hiện 76 mục tiêu (tốp) bay
qua khu vực Trường Sa. Đơn vị đã nhanh chóng phối hợp với các đơn vị phối thuộc
trên đảo để bắt và kiểm soát các mục tiêu. Khương Công Vũ, thiếu tá Trạm
trưởng, cho biết : - Qua 19 năm đơn vị liên tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
của mình, chi bộ trong sạch, đơn vị vững mạnh toàn diện đạt danh hiệu quyết
thắng. Về khó khăn thì nhiều khó khăn lắm, nào khí tài đã cũ, thời hội
nhập máy bay, tàu thuyên xâm nhập liên tục, cường độ làm việc của cán bộ chiến
sỹ căng thẳng. Mùa mưa bão tàu thuyền ít ra nên đời sống của anh em thiếu thốn
cả vật chất lẫn tinh thần. Tình cảm thì quá thiếu thốn.
Tôi biết Trường Sa không có bóng con gái. Phụ nữ chưa đến sống lâu dài với đảo.
Thảng
hoặc có văn công nữ, chị em các cơ quan đát liền ra thăm vội vàng rồi trở về để
lại nỗi mơ mòng, tơ tưởng cho cán bộ, chiến sỹ mà thôi!
Tôi
đồng cảm những day dứt suy tư của các chiến sỹ. Ngày dánh Mỹ ở biền biệt mười
năm trong núi rừng, những vùng rừng không dân. Cả nước đều hy sinh như vậy nên
sự hy sinh của bộ đội cũng như mọi người. Nay đất nước thanh bình mọi người ai
cũng được vui hưởng thụ mà chiến sỹ hy sinh cả vật chất lẫn tình cảm thì điều
này ai cũng phải day dứt, băn khoăn. Nhưng quân đội mình thì khác quân đội một
số nước. Anh bộ đội phải biết hy sinh trước tiên. Thời chiến
tranh chống Mỹ ở trên chốt nhìn qua các đồn địch cứ cuối tuần Mỹ cho máy bay
trực thăng chở gái các thành phố lên cho lính giải trí. Qua ống nhòm thấy lính
Mỹ, nguỵ chực sẵn ở bãi, hễ có cô gái trần truồng nào ra khỏi máy bay là chúng
bu đến như ruồi, mỗi đứa ẵm mỗi con điếm chạy vù vào các hầm hào công sự. Thủ
trưởng của tôi tức quá chưởi thề: - Đụ mạ, chúng mày hưởng lạc như thế sẽ thua
chúng tao! Nguyễn
Ngọc Giang, thiếu tá Chính trị viên Trạm ra đa 11 trầm tĩnh hơn: -Gian khổ như
vậy, nhưng chúng tôi lấy hoàn cảnh xa vợ, xa con của mình ra để động viên cán
bộ, chiến sỹ yên tâm công tác, khỏi phụ lòng cả nước lo cho Trường Sa, hướng về
Trường Sa! Tranh
thủ phút ít công việc, tôi gặp đảo trưởng Nguyễn Bạch Dương. Tôi nhận ra anh vì
có một lần chương trình VTV3 phát hình anh. Nguyễn Bạch Dương người gọn
nhỏ, da sạm nắng biển. Trong anh rất thư sinh thế mà anh ra đảo từ đầu năm 2005
và chỉ huy một đảo lớn. Đảo duy nhất có sân bay trên Trường Sa của ta. Anh quê
ở Vĩnh Chấp, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Vợ dạy trung học cơ sở và hai con đều ở
trong đất liền. Anh báo cáo vắn tắt kết quả thực hiện nhiệm vụ của Đảo:
-
Năm 2006, kết hợp với Trạm ra đa 11, Đảo đã quan sát phát hiện kịp thời cac
mục tiêu trên không: 8 887 tốp. Đáng chú ý trong năm 2006 có 16 lượt máy bay
Trung Quốc, Philíppin bay qua Đảo ở độ cao thấp; phát hiện các mục tiêu trên
biển: gồm 621 lượt tàu bè, riêng tàu quân sự Trung Quốc là 2.
Đảo đã chủ động xây dựng, bổ sung kiện toàn đầy đủ các kế hoạch, phương án
chiến đấu, củng cố hầm hào công sự, đường cơ động đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu. Anh Nguyễn Bạch Dương thay mặt Đảo có mấy đề xuất:
Đề nghị
cấp trên quan tâm hơn nữa về vật chất phục vụ nâng cao đời sống bộ đội như bàn ghế, tủ
gường, đài casset, radio. Tăng lượng phát sóng, tuyên truyền nhiều hơn về quần
đảo Trường Sa và người lính đảo. Tạo điều kiện thuận lợi học
tập, học nghề cho các chiến sỹ khi hết nghĩa vụ ở Trường Sa.
Đây là
những yêu câu rất khiêm nhường mà đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhan dân Việt Nam lắng nghe và ghi nhận.
Sau đó tôi theo các đồng chí Trưởng, phó đoàn và các đại biểu đi thăm hầm hào.
cơ sở chiến đấu của Đảo. Là người lính trải qua chiến đấu, tôi vô cùng
sửng sốt cảm phục trước các hệ thống phòng ngự mà bộ đội công binh hải quân xây
dựng. Với hệ thống phòng thủ này, với tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sỹ,
chắc chắn không có một thế lực ngoại xâm nào lấn chiếm biển đảo của ta.Tuy thế
nhưng hoả lực của mình thì quá cũ và quá yếu. Không biết còn cất dấu ở đâu,
chứ cái tôi nhìn được như xe tăng thì có từ trước cả thời chống
Mỹ, súng cối 60, cối 82 cũng đã quá cũ. Súng phòng không càng cũ hơn. Súng
12ly7( thường gọi là 12 ly vác), bộ đội không dùng chỉ cho dân quân du kích sử
dụng cũng
thời chống Mỹ giỡ cũng có trên bệ pháo. Súng cá nhân AK báng gỗ, AK báng
gập của
thời tôi nhập ngũ thập kỷ 70, nay các chiến sỹ vẫn cầm tay. Tất cả các
vũ khí cỗ lỗ này các chốt trên các đảo Trường Sa đều sử dụng. Thời hiện
đại tên lửa tomohow, súng bắn lade, tên lửa vượt mặt trăng thì trang bị vũ khí
của bộ đội ta quả quá là “khiêm tốn”. Điều này Đảng và Nhà nước phải biết chứ
không thể lấy xương thịt đọ với mãi với sắt thép của quân thù!
Tối ngày 4 – 4- 22007 dự lễ mít tinh kỷ niệm32 năm ngày giải phóng quần đảo
Trường Sa xong, Đoàn công tác lên tàu đi đảo Đá Tây. Đảo Đá Tây nằm ở phía Nam
quần đảo Trường Sa, toạ độ 8o 52’ vĩ độ Bắc, 111o 21’ kinh độ Đông cách đảo
Trường Sa lớn 22 hải lý về phía Đông Bắc. Đây là một trong những dảo có vị quan
trọng trên quần đảo. Đảo Đá Tây có hình dạng quả trám, bao quanh có long hồ
rộng rất thuận lợi cho các tàu thuyền nhỏ vào neo đậu khi gió bão lớn. Tàu đi
chưa đến một đêm thì tới đảo Đá Tây. Các đại biểu, cán bộ lần lượt xuống xuồng
để lên đảo.
Quân và dân đảo Đá Tây đang triển khai thí điểm nuôi trồng hải sản. Ông Vũ Văn
Tám thứ trưởng Bộ Thuỷ sản thành viên của Đoàn công tác cho tôi biết: “ Bộ Thuỷ
sản đang triển khai xúc tiến nuôi trồng thuỷ sản ở Trường Sa. Tổng Công ty Hải
sản Biển Đông phối hợp với Tổng Công ty Trườg Sa làm thí điểm nuôi cá lồng trên
các đảo. Đá Tây là điểm nuôi cá lồng được bộ Thuỷ sản đầu tư khá lớn. Xây
nhà thí nghiệm, ăn ở, lồng cá trên 100 tỷ đồng ngay canh đảo Đa Tây.Dự kiến đây
sẽ là Trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá phía Nam Trung Bộ. Bộ Thuỷ sản và các
đơn vị thành viên học tập kinh nghiệm đã triển khai ở các đảo Bạch Long Vỹ, Cồn
Cỏ, tổ chức đăng ký kiểm tra tàu thuyền đến thàng 4 – 2007 cơ bản đã hoàn
thành, khuyến khích, tài trợ cho ngư dân đẩy mạnh đánh bắt khai thác hải sản.”
Bộ Thuỷ sản đã có những tầm nhìn chiến lược. Trước đây quần đảo Trương Sa phong
phú hải sản nhưng sau ba mươi năm cả ta cả nhiều quốc gia khác người ta
khai thác nguồn lợi thuỷ sản vô tội vạ, phản khoa học nên thuỷ sản gần như cạn
kiệt.
Nhiều
chiến sỹ Trường Sa kể rằng: - Trước đây nhúng tay xuống biển cá chạy tới đặc
kìn như cá để trong bể. Thế mà giỡ chẳng thấy con nào. Vài con bơi lượn lờ từ
ngoài xa. Ngư dân của ta phải đi qua đánh bắt vùng biển của Philíppin,
Inđônêxia, Malaxia, Brunây. Trước đây họ đuổi nay thì họ bắt thật, sau đó
đục thủng song nồi rôi trả về bằng đường đại sứ quán.Thế nhưng vì đói khổ ngư
dân vẫn lẻn đánh bắt trộm. Đến đâu thì đến có chết cũng thôi.
Thượng tá Thái Hồng Bình, Phó giám đốc Công ty Hải sản Trường Sa cho biết: “
Tiềm năng nuôi trồng hải sản ở Trường Sa là rất lớn. Muốn làm tốt việc này
trước hết phải làm tốt khâu dịch vụ nghề cá, đặc biệt chú trọng nước ngọt, xăng
dầu, cầu cảng để bà con ra vào thuận lợi trong viêc khai thác đánh bắt hải sản.
Thứ nữa là phải có chính sách đãi ngộ thu hút đội ngũ kỹ sư thuỷ sản trẻ để họ
đến công tác lâu dài ở Trường Sa cho họ thử sức, thử tay nghề và nghiên cứu
khoa học kỹ thuật.
Các Tổng Công ty Hải sản triển khai việc nuôi trồng hải sản trên Trường Sa tuy
có muộn và chưa ra tấm, ra móm gì nhưng dẫu sao có vẫn hơn không. Đây là việc
làm có ý nghĩa quốc kế dân sinh và ý nghĩa chiến lược phòng thủ bảo vệ chủ
quyền quốc gia về biển đảo hết sức quan trọng.
Ông Vũ Văn Tám cũng nói thêm: - Cái chính là phục vụ dân . Trước mắt không nên
tinh lỗ lãi, có chính sách thu mua ngay tại Trường Sa, có chính sách trợ giá cho người khai
thác, nuôi trồng thuỷ sản.
Hiện Đá Tây đã nuôi 2 bè lồng cá ngựa trên 12 000 con và 1 lồng bè cá mú: 10
000 con. Đó cũng là một tín hiệu đáng mừng cho ngành Thuỷ sản
Trung uý Nguyễn Văn Pha, một kỹ sư thuỷ sản trẻ tuổi vừa mới tốt
nghiệp đại học tình nguyện đến với Trường Sa để làm công tác nghiên cưu khoa
học nuôI trồng thuỷ sản . Anh nói: Vẫn biết ra Trường Sa thì điều kiện nghiên
cứu, vật dụng làm thí nghiệm khó khăn hơn đất liền nhưng bù lại là anh có thực
tế cuộc sống phong phú giúp anh hoàn thành những đề tài từng ấp ủ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường.
Tôi hỏi: - Có ai ra cùng anh không?
Anh Pha đáp: - Cả khoa học chỉ một mình tôi ra mà thôi.
Tôi tiếp: - Buồn nhiều không?
Anh Pha
trả lời: - Lúc đầu thì buồn, vì 3 tháng mới có tàu ra tiếp tế một lần, sách báo tin
tức gia đình đều đến chậm lắm. Nhưng dần dần thì nguôi ngoai đi. Công việc cuốn
hút nên cũng tạm quên nỗi buồn.
Nguyễn
Văn Pha cũng như bao chiến sỹ Trường Sa khác họ đã biết hy sinh những nhu cầu
cá nhân để phục vụ sự nghiệp chung của Tổ quốc.
Gương
dấn thân của kỹ sư Nguyễn Văn Pha cũng giống gương sáng của trung uý bác sỹ
quân y Nguyễn Quang Đạo tổ trưởng tổ quân y trên đảo Phan Vinh.
Đạo
tốt nghiệp Học viện Quân y hệ đa khoa. Vừa cưới vợ xong là xung phong ra Trường
Sa công tác. Đây không phải làm việc làm nông nổi, anh hùng rơm mà là một tấm
gương sống và cống hiến của thế hệ trẻ. Vì gia đình Đạo là gia đình trí
thức. Bố là bác sỹ công tác trong ngành công an. Anh là thạc sỹ y khoa đang
giảng dạy tại Học viện Quân y. Vợ là cán bộ ngân hàng, gia đình có vị thế xã
hội. Tìm một công việc an nhàn trong quân đội đối với Đạo không khó. Nhưng anh
nói: - Thế hệ cha anh biết cống hiến cho đất nước, anh ruột tôi cũng đã có 2
năm ( 2001- 2003 ) công tác tại Trường Sa, lẽ nào thế hệ mình chỉ ngồi hưởng
thụ. Đạo lên đường không một đắn đo suy tín thiệt hơn. Dù người thân,
bạn bè và cả anh nữa đều biết công tác ở Trường Sa là gian nan, khốn khó, có
khi phải chiến đấu hy sinh. Nhưng đã xác định trước, Đạo nhận công tác và làm
việc không biết mệt mỏi.
Từ năm
2006 đến nay, Đạo đã mổ thành công 4 ca cấp cứu ruột thừa ngay ở đảo Phan Vinh.
Hai trường hợp là của quân đội, hai trtường hợp là của dân thường là bà con đi
đánh cá trên biển xin vào cấp cứu. Trên Trường Sa các đảo cũng có nhiều bác sỹ
nhưng chưa bác sỹ nào dám mổ. Mổ thành công trên đảo là chuyện phi thường, Bỡi
trong đất liên đầy đủ tuốc men, dụng cụ mà có khi còn sơ sẩy, huống hồ ngoài đảo
cách đất liền hàng nghìn dặm. Việc làm của Đạo đã để lại nhiều tình cảm mến yêu
trong quân đội và nhân dân. Tấm gương sáng của trung uý bác sỹ Nguyễn Quang
Đạo, trung uý kỹ sư Nguyễn Văn Pha và nhiều cán bộ chiến sỹ Trường Sa khác nở
đẹp như hoa san hô hồng trên biển đảo. Họ làm cho trang sử Trường Sa thêm thắm
tươi! Quân đội, nhân dân cả nước
Họ làm
cho trang sử Trường Sa thêm thắm tươi! Quân đội, nhân dân cả nước tự hào về họ,
về thế hệ trẻ hôm nay biết cống hiên tuổi xuân, trí tuệ, sức lực cho sự sống
còn lâu bền của Tổ quốc. Rời đảo Phan Vinh, đảo mang tên người anh
hùng, thuyền trưởng tàu không số trong thời kỳ chống Mỹ, tàu HQ996 chở Đoàn công tác
dến đảo An Bang. Đảo An Bang là đảo quanh năm sóng to gió lớn. Lãnh đạo Đoàn
chỉ cho một số ít cán bộ chiến sỹ hải quân có kinh nghiệm theo xuồng đem quà,
tặng phẩm vào đảo. Anh chị em văn công đành phải đứng hát trên tàu qua máy bộ
đàm tặng các chến sỹ đảo An Bang. Nhiều người vừa hát, vừa khóc. Tình cảm quân dân
thật là sâu đậm. Rồi đoàn phải chia tay các chiến sỹ đảo An Bang trong làn sóng
điện.
Trước
khi về Bà Rịa – Vũng Tàu, ông Đặng Hoài Dũng tổ trưởng tổ công tác đoàn 2 thuộc
Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương triệu tập họp tổ để nhận xét, rút kinh
nghiệm chuyến đI và đề đạt ý kiến lên cấp trên do yêu cấu của Ban trước
khi đi Trường Sa.
Những ý
kiến tựu trung là: - Du lịch chưa vào cuộc. Trường Sa sẽ là địa danh du lịch
nối tiếng, kể cả du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm. Ngành du lịch phải có tầm
nhìn quốc tế, có chiến lược vỹ mô để khai thác tiềm năng du lịch Trường Sa.
Ngành Thuỷ sản đã bắt đầu triển khai nhưng nhỏ giọt cò con, mang tính chất thí
nghiệm là chính. Nguy cơ thuỷ sản Trường Sa cạn kiệt. Nếu không đẩy mạnh nuôi
trồng thuỷ sản thì Trường Sa là một biển chết. Các phát minh khoa học chưa được
áp dụng. Như việc trồng rau xanh bằng dung môi đã được triển khai hơn 10 năm
trong đất liền nhưng chưa áp dụng cho các chiến sỹ trên biển đảo. Họ vẫn phải
trồng rau màu trong các xô nhựa ,thau, chậu cảnh. Cần phải hiện đại hoá trang
bị vũ khí cho bộ đội. Khi cụ, khí tài, vũ khí, đạn được đã cũ kỹ lại còn lạc
hậu. Cần trang bị cho mỗi đảo hai xuồng máy để liên lạc, ứng cứu, tác chiến và
làm các công tác hữu ích khác. Mười năm trở lại đây Trường Sa chưa có đổi thay
gì nhiều. Đảng và Nhà nước phải có đội ngũ tư vấn tham mưu tốt để không cấp
kinh phí cho nhiều dự án, công trình nghiên cứu khoa học không có hiệu quả,
không khả thi, tập trung kinh phí đầu tư cho Trường Sa. Với sự tranh chấp của
các nước và sự đầu tư của họ, Trường Sa sẽ mất uy thế chiến lược!
Tôi cũng
phát biểu ý kiến đóng góp thu hoạch trong chuyến công tác. Tôi nói: - Ở các
lĩnh vực kinh tế tôi không rành lắm chỉ biết Nhà nước tiêu tồn hàng nghìn tỷ
đông cho những dự án không đem lại hiệu quả thiết thực, làm hao hụt ngân sách
quốc gia. Riêng lĩnh vực văn hoá - nghệ thuật có nhiều vụ chi ngân sách làm
phim bỏ kho, làm tượng đá “ phơi những lối mòn” tốn tiền Nhà nước hàng chục
triệu đô la mà không để lại giá trị gì đáng kể, có khi phản nghệ thuật nữa. Số
tiền ấy đủ trang bị hoả lực mạnh cho một chốt đảo hay xây một cột ăng ten thu
sóng Đài tiếng nói Việt Nam hoặc mua được một con tàu biển để nối liền
các đIểm đảo Trường Sa. Những người ký chi tiền vô bổ ấy cũng đã đến thăm
Trường Sa nhiều lần trước đây. Ai cũng hoài nghi là anh em mình thảo luận chắng
khác gì gái goá bàn việc triều đình. Những điều tâm huyết sát
thực như thế này có đến trời cao hay không?
Ngày
mồng 9 – 4 - Đoàn công tác đến Nhà Giàn DK1, 14 thuộc khu vực tỉnh Bà Rịa- Vũng
Tàu. Nhà Giàn kết cấu như giàn khoan giếng dầu nhưng nhỏ hơn. Các cột thép đóng
sâu xuống đáy biển từ 20 đến 25 mét. Từ đáy biển lên mặt nước biển độ 15 mét,
từ mặt nước biển lên phòng ở là 25 mét. Như vậy tổng chiều cao cột thép
là phải 65 mét. Theo thiết kế Nhà Giàn chịu được bão cấp mười. Khu vực Bà Rịa -
Vũng Tàu trước đây có 19 Nhà Giàn nhưng do bão gió nay 4 Nha Giàn bị đổ,
13 cán bộ chiến sỹ hy sinh. Nay còn lại 15 Nhà Giàn. Khu vực Nhà Giàn do Lữ
đoàn 171 ( thuộc Vùng 4 Hải quân) quản lý với nhiệm vụ bảo vệ các trọng đIểm
kinh tế và hoạt động kinh tế, dịch vụ.
Chiều 8
–4 –2007 Đoàn công tác tổ chức lễ tưởng niệm 13 cán bộ chiến sỹ hy sinh trong
khi làm nhiệm vụ tại khu vực Nhà Giàn DK1 năm 2006. Buổi lễ tổ chức chu đáo
theo nghi thức của người đi biển. Khi vòng hoa thả xuống đại
dương, tất cả mọi người ai có quà gì thì thả xuống biển để tưởng
nhớ các hương hồn liệt sỹ. Người thì thả gói thuốc, người thì
thả đồng bạc, có người cẩn trọng mang sẵn nắm đất trong đất
liền thả xuống biển. Tôi cũng thả chiếc lược và mấy đồng bạc cho các liệt sỹ.
Nhiều ánh mắt rưng rưng. Tình đồng đội sống chết thật là thiêng liêng gắn bó.
Trước đó thì biển nổi sóng đến cấp bảy, cấp tám. Sóng bạc đầu trắng xoa cả đại
dương. Nhưng sau buổi lễ, tự nhưng trời nước yên bình, lòng trời đất nhẹ nhõm
mà lòng người
cũng thanh hoát, yên lành.
Sau buổi
lễ tưởng niệm, tàu HQ 996 chở Đoàn công tác về đất liền.Thế là chúng tôi lại
tạm biệt Trường Sa, tạm biết biển Đông. Biết bao giờ gặp lại những chiến sỹ,
những con
người gan góc, dũng cảm những đồng đội một thời của
tôi. Lòng tôi tràn dâng một nỗi niềm kính yêu và cảm phục vô cùng.
Khi
vòi vọi nhìn những con sóng màu chàm tím lướt nhanh qua mạn tàu, tôI bồi
hồi lại nhớ đến bài hát “Tâm tình người thuỷ thủ”: “Nhưng em ơi! Nếu
có những chàng trai chưa từng vượt qua nhiều sóng gió. Nếu có những chàng trai
chưa từng vượt qua nhiều thử thách gian lao. Có lẽ nào sánh với tình em!”
Trường
Sa – Hà Nội tháng 4 – 2007
Đỗ Hoàng
(1) Bài
được giải thưởng cuộc thi Bút ký Văn học Tạp chí Nhà văn năm 2007 - 2008