1. Trong một cuộc thi video clip âm nhạc trên truyền hình mới đây, khi một giám khảo đồng thời cũng là một nhạc sĩ, một nhà sản xuất âm nhạc có uy tín phê phán việc lạm dụng nhạc xưa (chỉ các sáng tác âm nhạc thời trước 45 hoặc mang hơi hướng của dòng âm nhạc này) và cho đó là một biểu hiện của sự bế tắc trong đời sống âm nhạc đương đại (điều hoàn toàn có thật), ca sĩ chủ nhân của video clip đó đã thẳng thắn đáp trả bằng một lôgíc quen thuộc: “âm nhạc không có thời gian”. Cũng cách đây chưa lâu, dư luận xôn xao về vụ cấm cuốn sách tranh của họa sĩ Thành Phong Sát thủ đầu mưng mủ.
Thực ra, cuốn sách này đã được
xuất bản và đưa ra thị trường từ nhiều tháng nay nhưng mọi chuyện chỉ trở nên
ồn ào bắt đầu từ khi tác giả của cuốn sách than phiền trên Facebook về việc
người ta ngang nhiên scan tác phẩm của anh và lan truyền miễn phí trên mạng.
Không lâu sau entry đó, trên một số tờ báo lớn bắt đầu xuất hiện những ý kiến
đánh giá trái chiều về cuốn sách mà mở đầu là những phê phán nặng nề về việc nó
làm lệch lạc chuẩn mực ngôn ngữ ở trẻ em và đặc biệt, nó tác động tiêu cực đến
cái gọi là “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (một thứ quan niệm khá khác
thường từ góc độ ngôn ngữ học). Và điều “quái đản” hơn chính là việc chỉ không
lâu sau khi có những ý kiến trái chiều trong công luận, trước yêu cầu của Cục
xuất bản, cơ quan cấp phép, NXB Mỹ thuật đã yêu cầu đối tác của mình thu hồi
cuốn sách, bất chấp ý kiến của các chuyên gia ngôn ngữ học về sự “bình thường”
của cuốn sách tranh này. Cũng tương tự là trường hợp vụ thu hồi cuốn sách Ở
lưng chừng nhìn xuống đám đông. Nhưng lần này, cơ quan xuất bản đã cương quyết
bảo vệ đứa con tinh thần của mình đến cùng trong một cuộc tọa đàm có cả đại
diện của Cục xuất bản.
Những câu chuyện nói trên, dẫu chỉ
là những hiện tượng nhưng xâu chuỗi lại cũng cho phép nhận diện ra không ít vấn
đề của đời sống văn hóa nghệ thuật ngày nay. Một trong những điều đáng được đặt
thành vấn đề đó là vị trí, sức nặng của tiếng nói những người làm nghề, những
người “thạo nghề” và “hiểu nghề” đích thực trong tổng thể cái gọi là dư luận.
Không phải là không có nhưng dường như ngày nay, tiếng nói ấy đang bị chìm
khuất trong ồn ào của những âm thanh khác. Sự phát triển của internet thúc đẩy
quá trình dân chủ hóa các sinh hoạt từ văn hóa nghệ thuật cho đến giải trí.
Thông qua kênh phản hồi và xếp hạng (rating), với mạng xã hội và blog, không cứ
là người làm nghề, bất cứ ai cũng có thể cất lên tiếng nói của mình về các sản
phẩm văn hóa. Công chúng thoát khỏi thân phận là những người vô danh mà tiếng
nói chỉ được thể hiện qua những đồng tiền trả cho tác phẩm nghệ thuật.
Hơn thế nữa, khi mà quá trình thị
trường hóa nghệ thuật và sự tồn tại của công nghiệp giải trí đã khiến cho công
chúng - người trả tiền - có một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn
hóa nghệ thuật. Nếu như trước đây ba mươi năm, yếu tố kìm hãm sự phát triển
nghệ thuật là tình trạng “mặc đồng phục về giá trị” thì giờ đây, khi tình trạng
đó chưa hoàn toàn giải thể, nghệ thuật lại phải đối mặt với những “kẻ thù” mới:
những mặt trái của thị trường giải trí. Có thể nói rằng, giờ đây, tiếng nói của
những người làm nghề đang bị chìm khuất giữa tiếng nói của những kênh phản hồi
của công chúng trên báo mạng và một vài nhà báo viết về văn hóa nghệ thuật. Sẽ
là bình thường nếu như công chúng được chuẩn bị tâm thức và kiến thức để đón
nhận sự đa dạng và phức tạp của đời sống nghệ thuật. Và cũng sẽ là bình thường
nếu như những người viết báo về nghệ thuật cũng đồng thời là những người chuyên
nghiệp về nghệ thuật. Đáng tiếc là thực tế dường như không phải như vậy.
Từ đây, sẽ tạo nên những hệ lụy khi
mà trên những chuyên mục được gọi là văn hóa của các báo, đặc biệt là báo điện
tử, chuyện đời, scandal, những chuyện “hậu trường” của làng giải trí sẽ thay
thế cho những bài điểm sách và điểm phim đích thực. Từ đó mới có cái tình trạng
quái gở khi mà một bộ phim mới ra rạp, trong khi phải vô cùng khó khăn mới tìm
thấy những bài điểm phim đích thực thì lại vô cùng dễ dàng để được ngắm nhìn
các “ngôi sao” của giới giải trí, diện thời trang và đến dự suất chiếu ra mắt.
Và nếu gọi sự vật bằng đúng tên của nó thì chuyên mục văn hóa của một số không
ít tờ báo cần phải được đổi tên thành mục tin tức giải trí.
Những công trình phê bình văn học
nghệ thuật đích thực nhưPhê bình văn học con vật lưỡng thê ấy của
Đỗ Lai Thúy bị chìm khuất trong đời sống văn chương và những bài viết về phim
ảnh đích thực lại tìm chỗ trú chân trông một tạp chí ra hàng tháng cho dân chơi
đồ hi-end âm thanh hình ảnh. Và với một thực trạng như thế, sẽ là dễ hiểu khi
mà đời sống văn hóa nghệ thuật bị cuốn đi bởi cái gọi là “dư luận” đầy tính cảm
tính và nguy hại hơn nữa là khi trong cái tổng thể gọi là “dư luận” đó xuất
hiện những tiếng nói trái chiều thì quyết định của những người quản lý nghệ
thuật sẽ vô cùng dễ bị “lung lạc”.
2. Trước thực tế nói trên, người ta không thể không đặt ra câu hỏi “vì sao”. Nếu như cách đây khoảng hai mươi năm, khi Đổi mới vừa mới bắt đầu, nguời ta có thể nói đến một tình trạng “đói thông tin” mang tính lý thuyết. Đổi mới đồng nghĩa với sự cởi mở và hội nhập. Nhiều giá trị cũ được phát hiện lại và trở thành cái đương đại. Những kỹ thuật thể hiện nội tâm và hình dung về thế giới tâm lý từng xuất hiện từ trong tiểu thuyết của Nhất Linh những năm 1940 (Bướm trắng) giờ xuất hiện lại trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Những giá trị như hội họa của Nguyễn
Sáng, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái, âm nhạc “tiền chiến” và những cách tân
văn chương của Nhân văn giai phẩm... lần lượt được phát hiện lại và trở thành
một cái gì hết sức mới mẻ. Đổi mới cũng đồng nghĩa với việc du nhập cả những
khuynh hướng và những loại hình nghệ thuật hiện đại và đương đại của thế giới
từ những khuyn hướng hiện đại, hậu hiện đại cho đến những loại hình như sắp
đặt, trình diễn... Tất cả những cái mới đó đòi hỏi người làm nghề và công chúng
phải được trang bị thêm hoặc thậm chí, trang bị lại những kiến thức lý thuyết
về nghệ thuật bởi lẽ suốt nhiều thập niên, lý luận về nghệ thuật tồn tại ở Việt
Nam là lý luận nghệ thuật gắn với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ
nghĩa.
Trong hai mươi lăm năm qua, đã diễn
ra một tiến trình hội nhập về mặt lý thuyết giữa giới nghiên cứu, giới sáng tạo
nghệ thuật ở Việt Nam và thế giới. Có nhiều thứ vô cùng xa lạ đã trở thành quen
thuộc, thậm chí, còn kịp trở thành “à la mode”: thi pháp học, phân tâm học, hậu
hiện đại... Phản ứng của công chúng đối với một số hình thái nghệ thuật với
những trình diễn kiểu như Đáo xuân của Đào Anh Khánh hay Cột
điện, WC.com của Lê Anh Hoài không còn là vì đó là trình diễn mà là vì
chính bản thân nội dung tác phẩm. Người ta cũng không còn cảm thấy xa lạ với
những trình diễn thơ, những sắp đặt hoặc những phá cách đi ra ngoài điêu khắc
hay hội họa truyền thống. Tất nhiên, vẫn còn một bước rất dài để những loại
hình đó đi từ những Trung tâm văn hóa của nước ngoài, những không gian nghệ
thuật thử nghiệm ra với không gian công cộng. Vẫn còn một bước dài để việc tiếp
nhận lý thuyết nghệ thuật ở Việt Nam chuyển từ giai đoạn những sơ đồ, chuyển từ
giai đoạn những cái tên và những ý tưởng sang những tiếp cận sâu sắc và thực
chất hơn. Dẫu vậy, so với trước Đổi mới, tình trạng “đói thông tin” lý thuyết
rõ ràng đã được cải thiện rất nhiều. Vậy đâu là vấn đề thực sự?
3. Có lẽ, điều đó nằm trong một vấn đề thuộc về nền tảng của đời sống: hệ thống giáo dục. Không cần phải nói quá nhiều cũng đủ thấy giáo dục nghệ thuật là một trong những lĩnh vực yếu nhất của hệ thống giáo dục. Hãy chỉ nhìn vào một lĩnh vực nghệ thuật được giảng dạy kỹ lưỡng nhất, đầy đủ nhất trong hệ thống giáo dục - môn văn học - là đã có thể nhận ra những vấn đề của giáo dục nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. Từ 1986 đến nay, môn văn học trong nhà trường phổ thông đã trải qua hai cuộc cải cách và trải qua hai cuộc cải cách đó, chương trình giảng dạy đã tiến gần hơn đến tính phức tạp và bản chất nghệ thuật của văn chương.
So với cách đây ba mươi năm, danh
mục tác giả - tác phẩm được giảng dạy trong chương trình phổ thông đã có sự
thay đổi. Nhiều tác phẩm thuộc giai đoạn xung quanh 1986 đã được đưa vào giảng
dạy như truyện ngắn Một người Hà Nộicủa Nguyễn Khải, kịch Hồn
Trương Ba - da Hàng thịt của Lưu Quang Vũ hay thơ của
Thanh Thảo. Ngay cả những tác giả được giữ nguyên qua các kỳ cải cách, văn bản
được chọn để đưa vào giảng dạy cũng có sự thay đổi. Nguyễn Minh Châu là một điển
hình. Học sinh giờ đây sẽ được học sẽ là Bến quê và Chiếc
thuyền ngoài xa, một sự thay đổi lớn nếu so sánh với Mảnh trăng
cuối rừng trước đây. Bên cạnh đó, trong chương trình giảng dạy, khi
phân tích tác phẩm, những yếu tố thi pháp đặc thù của văn bản (như: giọng,
không gian, thời gian nghệ thuật trong trần thuật hay nhịp điệu, nhạc tính
trong trữ tình...) cũng được chú ý nhiều hơn, thay vì chỉ tập trung cho lối học
nắm bắt tác phẩm qua những đại ý và những giá trị tư tưởng (và thường là khá
đơn giản). Linh hồn của tất cả những thay đổi đó chính là triết lý “đọc hiểu”
của chương trình giảng dạy văn chương trong nhà trường: cung cấp cho người học
những công cụ, hướng dẫn cách thức để tự tìm hiểu các tác phẩm văn chương. Với
những thay đổi và điều chỉnh đó mỹ cảm của người học được đa dạng hóa, đồng
thời, cách cảm thụ văn chương của người học cũng được định hướng để tiến gần
hơn tới sự thưởng ngoạn văn chương đích thực: cảm nhận được tính nội dung, cái
đẹp của hình thức nghệ thuật.
Dẫu vậy, bên cạnh những thay đổi
theo hướng tích cực đó của chương trình phổ thông, vẫn tồn tại một vấn đề thuộc
về cấu trúc tổng thể của chương trình. Không phải ngẫu nhiên khi triết gia Mác
xít Pháp Louis Althusser gọi hệ thống giáo dục là những “cỗ máy ý thức hệ”. Vấn
đề của hệ thống giáo dục không chỉ là chuyện nó cung cấp những kiến thức nào
cho người học mà quan trọng hơn, chính là việc nó hướng đến việc định hướng về
mặt giá trị cho những con người xã hội, những công dân tương lai, thế nào. Hơn
thế nữa, đó lại là một sự định hướng có tính rập khuôn và hàng loạt (bởi bất
chấp tính đa dạng của đối tượng người học nhưng chương trình giáo dục, đặc
biệt, giáo dục phổ thông, là có tính thống nhất, duy nhất và bắt buộc). Và đây
chính là điểm cần bản trong giảng dạy văn học tại nhà trường phổ thông.
Trong năm học 2010-2011, một sinh
viên tốt nghiệp chuyên ngành Sư phạm ngữ văn của Trường Đại học Giáo dục, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã tiến hành khảo sát từ vựng phần văn học Việt Nam hiện
đại trong sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn hai lớp 11 và 12 chương
trình nâng cao. Những bộ phận mà sinh viên tiến hành khảo sát là các phần “kiến
thức cần đạt được”, phần “câu hỏi gợi ý đọc bài” và chuẩn kiến thức trong sách
giáo viên. Điều bất ngờ là sau khi tiến hành khảo sát, bên cạnh các nhóm từ về
các yếu tố nghệ thuật của các dạng văn bản khác nhau (tự sự, trữ tình, kịch,
phê bình văn học...), ba nhóm từ có tần số lặp lại nhiều nhất chính là ba nhóm
từ thuộc về giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực và tinh thần yêu nước. Cụ thể
hơn, gắn với nhóm từ về giá trị nhân đạo là các cụm từ đồng cảm, xót thương, vẻ
đẹp tâm hồn, nhân cách, khát vọng sống, niềm tin, nghị lực, tố cáo tội ác, cảnh
ngộ số phận và tương ứng là phản ánh chân thực, chân thành, điển hình hóa, vấn
đề lớn của hiện thực hiện thực xấu xa của xã hội, thế lực tàn bạo, thực trạng
xã hội, đả kích, phê phán với nhóm từ về giá trị hiện thực và nhiệt tình yêu
nước, lòng yêu nước, tư tưởng yêu nước, tinh thần dân tộc, tinh yêu quê hương,
tình yêu thiên nhiên, những giá trị văn hóa, yêu tiếng Việt với nhóm từ về tinh
thần yêu nước.
Sẽ là bình thường và cần thiết nếu
như những giá trị về tinh thần nhân đạo, về giá trị hiện thực và về tinh thần
dân tộc nằm trong hệ thống giá trị mà chương trình giảng dạy văn chương định
hướng cho người đọc. Tuy nhiên, sự tồn tại mang tính độc tôn và áp đảo của ba
giá trị nói trên sẽ có thể dẫn đến nguy cơ làm đơn giản hóa những chuẩn mực
thẩm mỹ của người học, đơn giản hóa hình dung của họ về văn chương nói riêng và
nghệ thuật nói chung. Bên cạnh những chuẩn mực đó, còn hàng loạt giá trị khác
không kém phần quan trọng của nghệ thuật như giá trị thẩm mỹ, sự sáng tạo, tính
độc sáng, tính khác biệt, sự đa dạng. Hơn thế nữa, có vẻ như đang có mộ sự đơn
giản hóa trong chính những giá trị quan trọng nhất mà sách giáo khoa cố gắng
định hướng người đọc. Nhìn qua những từ vựng hiện diện trong sách giáo khoa, có
thể nói về một thứ chủ nghĩa cảm thương trong hình dung về giá trị nhân đạo,
một thứ chuẩn của chủ nghĩa hiện thực phê phán thế kỷ XIX về giá trị hiện thực
và một cái nhìn có phần một chiều về tinh thần yêu nước. Vấn đề của giá trị
nhân đạo chắc chắn sẽ không chỉ bao gồm việc cảm thương với những số phận đau
khổ nào đó mà còn là tiếng nói mang tính khẳng định những quyền con người và
quyền cá nhân. Tương tự như vậy, văn học và nghệ thuật không chỉ có giá trị
trong việc phản ánh để phê phán, tố cáo hiện thực mà còn vượt lên trên hiện
thực, sáng tạo nên một hiện thực để suy tư về hiện thực. Và tinh thần dân tộc
đích thực không thể chỉ gói gọn trong những sự tự hào và tính kế thừa mà còn
phải mở rộng đến sự phản tư về tính dân tộc và sáng tạo nên tính dân tộc.
Giáo dục không phải là yếu tố duy
nhất hình thành nên con người nhưng chắc chắn là một trong những yếu tố quan
trọng nhất. Kinh nghiệm lịch sử về sự tồn tại một cách dai dẳng của thơ Đường
luật ở Việt Nam có thể là một ví dụ sinh động về việc giáo dục có thể chi phối
chuẩn thẩm mỹ của con người thế nào. Với một định hướng giá trị như thế tồn tại
một cách ổn định trong nhiều thập niên, sẽ là không lạ khi một tác phẩm điện
ảnh cố gắng tạo nên một ngôn ngữ khác nhưBi đừng sợ, khi xuất hiện sẽ
nhận được những phản ứng tiêu cực của chính những người làm nghề mà từ vựng
được dùng trong phê phán, đến cùng cũng chỉ xoay quanh “góc nhìn phiến diện”,
“soi chiếu hiện thực”, “bóp méo hiện thực”, “điển hình hóa”, “khái quát hóa”.
Vấn đề đối với đời sống nghệ thuật
ngày nay không phải là việc trang bị cho công chúng kiến thức về những nghệ
thuật mới (một tiến trình không có điểm dừng) mà là chuẩn bị cho họ một tâm
thức về tính đa dạng về giá trị của đời sống nghệ thuật, về sự đa nguyên của
cái đẹp trong nghệ thuật. Và gốc của điều đó không thể chỉ tìm ở phê bình. Phê
bình chỉ là ngọn gắn liền với một cái gốc sâu xa hơn: giáo dục.
TS. Phạm Xuân Thạch
No comments:
Post a Comment