Sinh hoạt phê bình Việt Nam mấy chục năm qua đầy tràn các căn bệnh như thế với nhiều biến thái và biến tướng. Các bài viết kia cuối cùng được tập hợp lại trong tập sách dày trên dưới 300 trang, rồi tự tin kêu đó là “tập lí luận - phê bình”: Cảm nhận, Cảm luận, Tản mạn... gì gì đó. Đọc suốt tác phẩm, độc giả không thấy đâu là tư tưởng nền tảng của nhà phê bình, mà chỉ nghe bao nhiêu giai thoại nhảm nhí, trích đoạn tùy tiện, nhận định vu vơ vô bằng, cùng muôn ngàn ý kiến nói theo từng xuất hiện nhan nhản trên đủ loại báo phổ thông.
1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay
Qua
tiếp nhận phát hiện của người đi trước và bằng sự quan sát của mình về hiện
tình sinh hoạt văn học Việt Nam đương đại, tôi đã một lần gọi tên mười căn bệnh
phê bình, nay xin điểm mặt lại:
Phê
bình bình và tán,
không trên nền tảng mĩ học nào, chỉ bình tán đầy tính may rủi.
Phê
bình độn giai thoại,
ở đó trong một bài viết, nhà phê bình tùy tiện độn vào cơ man giai thoại cũ và
mới, rất nhảm.
Phê
bình chung chung,
tránh né, vô thưởng vô phạt, là loại phê bình có thể áp dụng cho mọi nhà thơ, mọi
tập thơ mà không sợ bị trật.
Phê
bình hũ nút,
lấy mình làm thước đo văn chương người thiên hạ; cho dù văn chương thiên hạ rộng
và cao tới đâu, cứ lấy chuẩn mình ra đo.
Phê
bình núp bóng,
núp bóng và nhân danh. Nhân danh đạo đức, chân lí, truyền thống, nhân danh tên
tuổi lớn trong lịch sử văn học, lấy cả "phương Đông" ra mà nhân danh.
Phê
bình bè phái,
thể hiện mình cả ở thái độ khen chê, bênh vực hay cáo giác.
“Phê
bình du kích”, để thỏa mãn tính thù vặt, nhân vụ này đá sang vụ khác, đối
tượng muốn đối thoại cũng không thể.
Phê
bình quan phương,
là thứ phê bình hãnh tiến của kẻ đang nắm chặt chân lí trong tay, bao giờ và ở đâu
cũng ăn nói ở thế đúng, thế thắng.
Phê
bình hàng hai,
nói theo vì đang kì ăn theo, nói theo để còn ăn theo lâu dài hơn.
“Phê
bình liếc nhìn” vượt mặt phê bình hàng hai, nó còn biết đi rất nhiều hàng,
nhưng chung quy nó thể hiện thói nịnh bợ, uốn ngòi bút để kiếm chác(1).
Sinh
hoạt phê bình Việt Nam mấy chục năm qua đầy tràn các căn bệnh như thế với nhiều
biến thái và biến tướng. Các bài viết kia cuối cùng được tập hợp lại trong tập
sách dày trên dưới 300 trang, rồi tự tin kêu đó là “tập lí luận - phê bình”: Cảm
nhận, Cảm luận, Tản mạn... gì gì đó. Đọc suốt tác phẩm, độc giả không thấy
đâu là tư tưởng nền tảng của nhà phê bình, mà chỉ nghe bao nhiêu giai thoại nhảm
nhí, trích đoạn tùy tiện, nhận định vu vơ vô bằng, cùng muôn ngàn ý kiến nói theo
từng xuất hiện nhan nhản trên đủ loại báo phổ thông.
2.
Chuẩn bị tinh thần thay đổi cách làm phê bình
Để
dứt bỏ thứ bóng ma phê bình cảm tính đầy tùy tiện từng ám văn học Việt Nam, nhà
phê bình tự trang bị tinh thần và cả thái độ mới. Đòi hỏi trước tiên là nhà phê
bình tự thức toàn diện và sâu thẳm về sự yếu kém của bản thân nền phê bình, nhận
mặt căn bệnh và cương quyết rũ bỏ chúng.
Tư
thế tự do,
tự do khỏi mọi ràng buộc định kiến nghệ thuật, ý thức hệ tôn giáo hay chính trị,
quyền lợi phe nhóm, quen biết anh chị em bằng hữu. Có cái nhìn toàn cảnh văn
học đương đại, trong nước và hải ngoại, chính thống và ngoại biên, trung tâm
văn hóa lớn và các địa phương,…. Nhà phê bình học biết chấp nhận các quan điểm,
các tác phẩm không cùng hệ mĩ học với mình. Hướng về phía tương lai và phía
mới - nhà phê bình học biết suy tư trong chiều hướng đưa nền văn học phát
triển ở ngày mai, chứ không phải ngược lại, một phê bình sẵn sàng cho thế hệ
hôm nay sáng tạo cái mới trong tâm thế mở của thời đại toàn cầu hóa.
Làm
thế nào để giải thoát khỏi phê bình cảm tính? Câu trả lời là: Chỉ qua thao tác
phê bình lập biên bản, nhà phê bình mới hi vọng thoát khỏi định phận từng bám
đuổi văn học Việt Nam suốt cả thời gian dài dặc ấy.
3.
Ba hình thức phê bình lập biên bản
Phê bình lập biên bản hiện hữu dưới
ba dạng:
Bàn
tròn Văn chương(2)
Ở Bàn
tròn văn chương, đề tài có thể là một tập thơ, bài thơ, một tập truyện ngắn,
một tác giả, một trào lưu văn chương hay hình thức in ấn và phát hành; không
phân biệt tác phẩm đó xuất sắc hay không. Các hiện tượng này cả tốt lẫn xấu,
hay, dở hoặc trung bình,... được soi chiếu từ nhiều chiều, nhiều góc độ khác
nhau. Bởi nếu là tập thơ trung bình, BTVC thảo luận về cái trung bình
đó, rằng nó trung bình thế nào, tại sao như thế, và nó có gì khác so với trung
bình tương cận không? Nghĩa là BTVC vẫn có thể rất hay, cả khi bàn về
tác phẩm dở(3).
BTVC là Lập biên
bản [như là] phê bình. Các thành viên nhận định và phê bình một tác phẩm, một
vấn đề hay trào lưu văn chương đương đại, như kiểu tập thể phê bình. “Biên bản BTVC”
là bản ghi chép trung thực và đầy đủ các nhận định đó.
Bảy
kì BTVC tập hợp đa thành phần, đa xu hướng sáng tác, nhiều lứa tuổi khác
nhau với số lượng người tham dự ngày càng tăng để cùng bàn về văn chương đương
đại; đề tài được chọn tự do, vô phân biệt; thành viên tham gia và thảo luận tự
do trong một không khí cởi mở, vô ngại - một tự do đầy trách nhiệm. Là ba điều
chưa từng xảy ra trước đó.
BTVC đảm bảo cho nhà
phê bình cái nhìn toàn cảnh sinh hoạt văn học.
Biên
bản lập chậm
Sau
mỗi Hội thảo, Ra mắt sách, Cà phê văn học,... các báo đưa tin, bình luận. Mỗi
nơi mỗi khác, thậm chí ngược hẳn nhau, tùy thế đứng, cách nhìn hay tâm cảm người
viết. Người đọc do đó, tiếp nhận và hiểu
nó mỗi khác. Bình luận trên thông tin thiếu và [lắm lúc] sai, như thể
nhà phê bình đánh giá tác phẩm dựa trên văn bản chưa hoàn chỉnh hay sai vậy. Chủ
quan và phiến diện là khó tránh khỏi. BBLC: cụ thể, chính xác, đầy đủ. Sự việc sẽ nói lên tất cả. Biên bản trước,
trong, sau và cả ngoài hành lang hội thảo. BBLC thể hiện thao tác
công bằng nhất có thể có, làm cơ sở cho nhà phê bình và độc giả đánh giá sự
việc.
Chỉ
dựa trên thông tin đầy đủ và chính xác, các nhận định hay phê bình mới
mang tính tích cực như là tích cực. Qua đó, nó khả năng đẩy nền văn học dấn tới.
Đó là cách chuẩn bị cho lối phê bình văn học tuân thủ các thao tác rất khoa học(4).
Phê
bình lập biên bản(5)
Là
các bài “phê bình” về tác phâm, tác giả hay trào lưu văn chương đương đại. Phê
bình trên nền tảng một thao tác nghiên cứu cẩn trọng, cho nên chính danh nó phải
là Phê bình [như là] lập biên bản.
Phê
bình lập biên bản ghi
nhận một trào lưu hay một bộ phận văn chương: về thơ nữ, thơ dân tộc thiểu số,
thơ hậu hiện đại, thơ trẻ Sài Gòn, thơ của các cây bút Chăm…; về tác giả hay
tác phẩm thuộc nhiều hệ mĩ học khác nhau.
PBLBB cố gắng bày nó
ra như là thế, “đi vào trong” và đứng trên cơ sở hệ mĩ học của tác giả để
đánh giá chính tác phẩm đó. Với sự “đi vào trong” này, nhà phê bình sẽ có thái
độ công bằng với mọi trào lưu văn chương, qua đó khả năng soi sáng các góc khuất
chưa được soi sáng đầy đủ. Khi ấy, nhà phê bình có thể nhận ra bản chất văn học
rằng, các hiện tượng nào bất kì hiện hữu có lí do của nó, chúng không loại trừ
nhau mà cùng tồn tại để thúc đẩy nền văn học phát triển. PBLBB mang đủ đầy
ý nghĩa của song thoại, nghĩa là đầy tính dân chủ.
Bất
kì hiện tượng văn học nào tồn tại đều có lí do của nó. Từ phong trào ngâm thơ
cho đến sinh hoạt câu lạc bộ thơ Đường luật hay thơ mực tím, từ thơ đăng báo Văn
nghệ cho đến thơ in photocopy, thơ kì khu lựa chữ ép vần cho đến thơ viết
văng mạng,… mỗi loại đều có độc giả của nó. Và không thể nói nó không được đón
nhận đầy trân trọng.
Tìm hiểu tinh thần con người thời đại thì không thể bỏ
rơi chúng, miệt thị chúng. Tôi không cho phong trào văn chương thời thượng nào
đó thì tiên tiến hơn cái có trước, không cho hậu hiện đại tiến bộ hơn hiện đại,
tượng trưng lạc hậu so với siêu thực. Mỗi trường phái văn nghệ đều có thể hiến
tặng cho nghệ sĩ một cách biểu hiện khác. Chúng góp nhiều chiều nhìn để làm
phong phú cuộc sống tinh thần của nhân loại. Nhìn văn học trong tiến trình và
biến trình của nó - từ một tác giả, một nhóm tác giả cho đến một trào lưu - là
cái nhìn khả dĩ hơn cả. Chỉ có thái độ và hành vi cản trở sự hình thành và phát
triển cái mới mới là lạc hậu và phản [chuyển] động.
Thế nhưng với sáng tác của các khuôn mặt
thơ thế hệ mới, thế hệ thơ sau hậu hiện đại, Phê bình lập biên bản chưa
thể đáp ứng được sự phát triển trương nở đến vô cùng của nó cùng tốc độ cập
nhật và tương tác đa dạng và nhanh nhạy của nó. Nó cần đến thái độ khác, phương
cách khác, tại đó “kiểu tập thể phê bình” như đã từng diễn tập tại Bàn tròn
văn chương chỉ là một gợi ý ở phạm vi hẹp.
Đó chính là Phê bình mở.
4.
Phê bình mở: độc giả nhập cuộc đồng sáng tạo
Một tác giả xuất hiện, một tác phẩm vừa lên
mạng hay ra lò in, vấn đề văn học đang nóng, nếu phê bình truyền thống phải chờ
đến ngày hôm sau, tuần sau, tháng sau mới thấy xuất hiện bài viết, tác giả mới
đọc được lời bình luận về nó, thì hôm nay đã khác. Chúng nhận được ý kiến khen
chê, hoặc chúng bị bỏ quên ngay khi vừa ló đầu ra đời. Trên mạng internet!
Kịp thời và nhanh nhạy là điều dễ thấy nhất
của phê bình ở thời đại vi tính. Nó mang ở tự thân đặc tính của báo chí.
Còn hơn cả báo chí. Bởi điều mà báo giấy
không kham nổi thì báo mạng, website, facebook, blog đảm đương oanh liệt. Có cả
không gian mênh mông cho người quan tâm vào cuộc. Bài thơ cuối cùng trong tập
thơ Liên tưởng của Lê Vĩnh Tài, kêu đòi nhiều diễn giải khác nhau. Ở Bàn
tròn Văn chương, nó chỉ dừng lại trong không gian hạn định đó, không thể
khác. Nhưng nếu bài thơ xuất hiện trên website hay blog, sự diễn dịch và tương
tác sẽ được mở, rộng và xa hơn rất nhiều. Như “Mình không định giống nhau đến
thế” của Phạm Tường Vân đã nhận được. Mười một nhận định từ nhiều địa chỉ khác
nhau, nhận định này kéo theo nhận định khác; nhận định sinh bài thơ, sinh cả
hành động. Chúng xảy ra trong một thời gian rất ngắn, có khi chỉ vài giờ, mươi
phút sau khi tác phẩm xuất hiện.
Chẳng những không giới hạn về không gian,
phê bình mở cũng không giới hạn về thời gian. Tác phẩm hay vấn đề, có thể khá
lâu sau đó hay khi thành viên cũ khám phá ra điều mới mẻ, vẫn có thể ghé lại
bình luận tiếp tục. Xới lại vấn đề. Sự này sẽ sinh ra nhiều sự khác, đan xen,
chống lắp. Vô cùng.
Tác phẩm văn chương như một thế giới mở tồn
tại vô vàn khoảng trống và những điểm trơn trợt bất định, mời gọi bao nhiêu
diễn ngôn khác nhau. Nếu thế giới là nơi diễn ra và dung chứa mọi hoàn cảnh, sự
thể (The world is all that is the case, Wittgeinstein), thì tác phẩm văn
chương cũng là nơi xảy ra và chấp nhận mọi khả thể của diễn ngôn. Vì tác phẩm
văn chương là thế giới mở, người đọc có thể chắp nối đằng trước, đằng sau; bởi
ở đó tồn tại khoảng vắng lẫn khoảng trống, người đọc có thể làm đầy nó từ nhiều
điểm nhìn khác nhau. Sự chắp nối và các điểm nhìn này được phát ra từ những
kinh nghiệm, cảm xúc, tri thức rất khác nhau của nhiều thành phần độc giả khác
nhau qua các lần đọc khác nhau. Của kẻ vô danh hay người nổi tiếng. Cũng chùm
thơ đó của Tuệ Nguyên, cảm nhận của tôi vào mùa hè năm 2008 khác xa chính tôi
nửa năm sau đó. Nhận định bột phát dại dột của cô bé năm cuối Trung học Việt
Nam nằm sát sườn một ý kiến nghiêm cẩn của tiến sĩ sử học đang dạy Đại học ở
Mĩ, cảm tưởng lạc đề của anh nông dân nằm ngay trang sau comment của một
kĩ sư hóa học sính thơ với nhận định đầy võ đoán. Chúng chắp nối và làm đầy tác
phẩm. Làm đầy tràn và tiếp tục mở ra hướng mới, khác nữa… cho đến khi tác phẩm
kia chết hẳn.
Trình độ thẩm định văn chương của đôch giả
hôm nay đã được nâng cao, hết còn thưởng thức tác phẩm một cách thụ động. Họ
sẵn sàng nhảy vào tham gia nhận định và tranh luận, nói lên cảm nghĩ và các
phát hiện của riêng mình về tác phẩm. Khen ngợi hay chê bai thậm chí miệt thị, đồng
tình hay phản đổi… Hệt người hâm mộ bóng đá tranh cãi về trận cầu đang diễn ra
hay vừa kết thúc.
Có kẻ đi đường tạt vào phát một câu rồi đi. Cả bà chủ quán không hiểu gì về
bóng đá cũng xía vào. Theo đường link, các nhà kinh doanh hay chính trị gia
ngẫu nhiên ghé mắt sang trang thơ của một tác giả lạ, cũng đưa lời bình. Trên
diễn đàn này, không ai cầm cây gậy khuơ khoắng chỉ bảo, đe nạt. Tất cả đều bình
đẳng trong một không gian mở. Dân chủ và vô phân biệt. Ý kiến nào gửi trước thì
được đăng trước, xóa nhòa lằn ranh đại chúng với đặc tuyển, chuyên hay không
chuyên. Đại bộ phận các nhận định không bị biên tập hay sửa chữa. Người
nào thấy ý kiến mình quá tẻ hay nhảm thì có thể chuồn êm. Hôm sau lại lập nickname
khác tranh luận tiếp!
Phê bình truyền thống đủ loại có thể cảm
nhận hay diễn giải một tác phẩm bằng nhiều cách khác nhau, bình luận hay luận
chiến về tác giả, tác phẩm đó; nhưng dẫu sao tác phẩm vẫn được xem như một thứ
văn bản đóng. Ngược lại, các phản hồi trên blog, facebook, website góp phần
biến tác phẩm thành một văn bản mở, văn bản sống đúng nghĩa. Tác giả nghe hơi
thở của tác phẩm mình đập thình thịch qua các bình luận lắm khi rất bá vơ không
đâu vào đâu của người tiếp nhận(6).
Đó là chuyện không tờ báo giấy nào chấp
nhận hay có thể kham nổi.
Vài năm qua, thơ mạng bị phê phán là thứ
thơ dễ dãi, thơ ăn nhanh. Đúng, nhưng đó là đúng từ cách nhìn cũ. Không ít nhà
thơ xem bản “in” đầu tiên là bản nháp đơn thuần, cảm tác tức thời đáp ứng nhu
cầu nội tâm hay thời cuộc. Hoặc đó chỉ là thử nghiệm cách diễn đạt mới để dò
lòng người đọc. Qua tương tác với độc giả, tác giả có thể hoàn chỉnh nó vài
ngày sau, đăng lại bản sửa cũng chính ở trang đó; hoặc tái bản trong thời gian
sớm nhất ở trang khác. Không vấn đề gì cả! Ranh giới kẻ sáng tác và người thụ
hưởng bị xóa nhòa toàn triệt, đó cũng là một cách đồng sáng tạo. Với tinh thần
của Mĩ học tiếp nhận Reception Aesthetics và phê bình đặt trên phản hồi
của độc giả Reader reponse criticism, người đọc chủ động và tích cực hơn
trong đọc. Có không ít độc giả sau những tương tác với tác giả trên thế giới ảo,
đã kéo tác giả ngồi vào quán cà phê hay hội trường thực để trao đổi.
Đó là những điều kiện phát sinh và phát
triển Phê bình mở. Ở đó, các nhà phê bình chuyên nghiệp cũng vào cuộc,
nếu không hắn sẽ bị bỏ rơi lại phía sau trong nỗi bảo thủ tệ hại. Nhập cuộc
trong tinh thần Phê bình mở, nghĩa là chấp nhận và dung chứa tất cả hiện
tượng mới đó trong sinh hoạt văn chương. Nó gợi hứng và gợi mở cho mọi người
cùng nhập cuộc. Nó không phán định mang tính đinh đóng. Cũng đưa cảm nhận
riệng, nhưng nó không bao giờ cho đó là lối cảm nhận duy nhất đúng. Nó chấp
nhận và kêu đòi nhiều cách tiếp cận đối tượng khác nó, điểm nhìn và cách nhìn
khác nó. Nó vừa tương tác với tác giả, với tác phẩm đồng thời tương tác với các
tương tác khác.
Phê bình mở không sợ sai. Sai thì
sửa sai. Không có gì nghiêm trọng cả. Do đó, nó không cần độ lùi để ngoảnh nhìn
lại cho chắc ăn. Nó nhanh nhạy đuổi bắt, nó đi vào trong và có khi đi trước sáng
tác.
Đa hướng trong cách tiếp cận tác giả, tác
phẩm, Phê bình mở cũng đa dạng trong lối thể hiện. Có bài cảm nhận theo
lối cổ truyền, người viết đưa ra một chiều bình, ngoài ra không gì khác. Phê
bình đính kèm phần quan niệm sáng tác của tác giả cùng thư trao đổi qua lại
giữa người viết và tác giả, cũng là một cách. Có khuôn mặt được gợi mở qua vài
nhận định trích dẫn từ các trang báo và cả của người viết ở thời điểm trước đó,
rồi mới tới lời bàn. Đặc biệt, có tác giả mà người viết đưa các phản hồi
của độc giả xen vào giữa các bài thơ tuyển. Nghĩa là - linh hoạt và, hoàn toàn
theo hướng mở.
5.
Nền tảng thẩm định văn chương (thử chọn một thể loại: thơ)(7)
Đòi
hỏi đầu tiên với nhà phê bình là đủ bản lĩnh: bản lĩnh tri thức và tinh thần để
thẩm định; thừa tự do, tự do thoát khỏi mọi gu thẩm mĩ “cổ điển” hay thời thượng,
thoát khỏi mọi thứ quyền lực bất kì, đám đông công chúng hay ý hệ; dư tinh thần
dân chủ, dân chủ để thật công tâm với mọi loại, mọi dạng sáng tác. Nghĩa là phê
bình đặt hoàn toàn trên lí tính. Nhưng trước muôn ngàn quan điểm về thơ, làm thế
nào hòa giải chúng, để các “loài” thơ cùng tồn tại mà không bị loại trừ hay phải
loại trừ nhau? Có ba loại nhà thơ (không có chút tâm phân biệt trong thái độ
phân loại này cả):
Người
làm vần
là thơ câu lạc bộ các loại, câu lạc bộ phường xã, câu lac bộ thơ hưu trí, thơ
báo tường thơ mực tím hay áo trắng,… Thơ ưa chuộng của bộ phận này là thể thơ
cũ, lục bát đậm đà bản sắc, thơ có vần điệu êm tai, dễ nhớ và dễ truyền.
Nhà
thơ "tiếp hiện" (dùng lại dụng ngữ của Nhất Hạnh) - tiếp nhận và thể
hiện các thành tựu gần, sáng tác vừa với tầm mong đợi của đại đa số độc giả
đương thời.
Kẻ
sáng tạo
cắt đứt hoàn toàn với truyền thống, luôn luôn trên đường khám phá, thay đổi và
làm mới. Họ sẵn sàng làm mếch lòng độc giả đã từng yêu mến họ, bởi họ dám thay
đổi cách viết, thay đổi cả mĩ học sáng tạo.
Khi
học biết nhìn nhận tất cả ba “loại” nhà thơ trên, nhà phê bình sẽ có cái nhìn
công bằng, từ đó đưa ra nhận định và thẩm định(8).
Một
nhà văn được đánh giá qua bốn điểm cốt yếu: [1] Nhà văn có tư tưởng nào mới
không, hoặc có động cập đến các vấn đề cốt tủy nào của dân tộc, đất nước và thời
đại không? [2] Bạn có dấn vào nhiều thể loại để mở rộng và đào sâu tư tưởng/ vấn
đề đó không? [3] Bạn có khám phá bút pháp nào mới, để thể hiện tư tưởng/ vấn đề
đó? [4] Cuối cùng là dung lượng để đo bề rộng, chiều cao và độ sâu, của một tác
phẩm hay cả đời viết của một nhà văn; nghĩa là tương quan giữa tầm vóc và dung
lượng. Đáng giá và thẩm đinh tác giả cần dựa trên bốn yếu tố đó.
Cuối
cùng, bởi một tác phẩm, mỗi nhà văn không tồn tại hay sáng tác cô lập nên, muốn
biết nó hay, mới thế nào, lớn đến đâu thì cần đặt nó trong dòng chảy của sự
phát triển văn học, so sánh với các tác phẩm hay tác giả vừa lịch đại vừa đồng
đại, trong nước lẫn thế giới.
6. Triển khai một
công nghệ phê bình toàn diện
Phê bình Việt Nam lâu nay quanh quẩn ở phê bình tác
phẩm, tác giả, thời đoạn văn học,... mà chưa dấn lên một bước mới, khác.
Bởi văn học không tách rời khỏi đời sống xã hội, nó
luôn chi phối và chịu tác động của môi trường xung quanh, nên công nghệ phê
bình đòi hỏi cái nhìn xuyên suốt. Nó không dừng lại ở phê bình tác phẩm, tác
giả mà còn bao quát nhiều đối tượng; nó nhấn vào cả việc phê bình đọc, phê bình
viết và cả phê bình chính bản thân phê bình. Hình thức phê bình cũng rất đa
dạng: Phê bình báo chí, phê bình học thuật, phê bình thực hành hay phê bình lí
thuyết. Cạnh đó, nó còn thể hiện qua sự đa diện ở góc nhìn, để đánh giá hay/ dở
của tác phẩm, các diễn dịch văn bản khác nhau hay sự phát hiện cái đẹp, cái mới
khác nhau của tác phẩm…(9) Như thế, phê bình không chỉ phụ thuộc
vào tác phẩm, nghĩa là cứ chịu phận lọt tọt đi sau sáng tác, mà còn có thể dũng
mãnh đi trước sáng tác, một dạng phê bình khả năng dẫn đạo sáng
tác.
Phê bình khám phá cái đẹp rồi quy phạm hóa cái đẹp để
lập thuyết và phê bình mang ý hướng khai mở cho cái đẹp mới xuất hiện là hai
loại phê bình song hành tồn tại ở một nền văn học lớn của đất nước nào bất kì.
Công nghệ phê bình lập biên bản có mặt như một thể cách dọn đường phát quang;
và do đặc tính của nó, nó minh nhiên đòi hỏi tư thế tự do toàn triệt ở nhà phê
bình, sẵn sàng tạo lực đẩy và trao cơ hội cho mọi khả tính của mọi hình thức và
ý hướng phê bình.
Cộng đồng văn học có nhiều bộ phận: Người sáng tác, nhà
phê bình và độc giả; ở mỗi bộ phận tồn tại nhiều “loại” khác nhau. Có thể phân
“nhà” phê bình làm ba loại: nhà phê bình đại diện cho thị hiếu chung của xã
hội, nhà phê bình phát hiện cái mới khác trong sáng tác đương thời, và nhà phê
bình lí thuyết mở hướng đi mới cho khai phá sáng tạo.
Mỗi loại phê bình hiện hữu có lí do chính đáng của nó.
Và cần thiết. Bởi tất cả đều có ích cho cộng đồng và cho sự phát triển của văn
học, miễn là nhà phê bình thức nhận và biết đặt nó vào đúng vị trí và vai trò
của nó.
Sài
Gòn,
8-5-2010
INRASARA
_______________
Chú
thích
(*) Tiểu luận này,
“Đặt nền tảng cho phê bình văn học Việt Nam đương đại”, có nội dung khác với tiểu
luận “Đặt nền tảng cho phê bình thơ Việt đương đại” đăng trên tạp chí Hợp
Lưu, số 110, 2010, đúng ra là "Nhận diện các trào lưu thơ Việt đương đại".
(1) Xem thêm:
Inrasara, “Gọi tên căn bệnh của phê bình hôm nay”, báo Văn nghệ,
30-8-2008.
(2) Bàn tròn Văn
chương là chương trình văn chương của Ban Sáng tác trẻ do Inrasara - thay mặt
nhà văn Phan Thị Vàng Anh - chủ trì, sinh hoạt ngoại biên của Hội Nhà văn Việt
Nam. 7 kì Bàn tròn Văn chương: Kì 1: Ngô Thị Hạnh làm thơ và nghĩ về
thơ; Kì 2: Lê Vĩnh Tài và Thơ; Kì 3: Hậu hiện đại trong văn học
Việt Nam đương đại; Kì 4: Cát Du làm thơ trong cơn mê ngủ; Kì 5: Lửa
sâu cõi đá của Vương Huy: Cuộc lữ hành về một thiên đường đã mất; Kì 6:
Nhật Chiêu - Thử thay đổi cách nhìn vào thực tại; Kì
7: Văn chương mạng & Website Vanchuongviet.
Sau BTVC kì 7,
“xảy ra” hai cuộc nữa: Kì 8: Nắng đêm của Lê Hải, nhưng kì này, Ban chủ
trì không nhận được Văn bản lẫn Biên bản BTVC là bản văn cuối
cùng làm chứng từ cho một kì BTVC; Kì 9: Cơn ngạt thở tình cờ của Trần
Lê Sơn Ý, Ban chủ trì có nhận được Văn bản gồm ba tham luận ngắn, bởi
tổ chức bất thành và dĩ nhiên không có Biên bản, nên cả hai cuộc này
không được kể vào sinh hoạt của BTVC. Cả kì 10: Phong trào thơ Tân hình thức
cũng thế.
(3) Sau Bàn tròn
Văn chương kì 4: Cát Du làm thơ trong cơn mê ngủ, có độc giả thắc mắc" Thơ Cát Du có gì
hay mà Hội Nhà văn Việt Nam phải làm "hội thảo". Đây là câu hỏi đặt
đúng, nhưng chỉ đúng với tinh thần cũ, đã lỗi thời. Tinh thần BTVC hoàn
toàn khác. Nó không đóng vai người lăng xê tác giả hay quảng bá cho tác phẩm
nào bất kì, mà là nhìn nhận thời sự văn học Việt Nam như nó đang là.
(4) Biên bản lập
chậm nhằm phục vụ cho nghiên cứu riêng của tác giả, nên chúng ít “kiêng nể”
hơn cả. Ngoài vài bạn văn thân thiết, hầu hết BBLC chưa được đưa ra
thông tin đại chúng. "Cà phê Văn học của Hội đồng Anh" là biên bản duy nhất đăng trên Tienve.org.
Vài Biên bản lập chậm tiêu biểu:
- Ra mắt sách Thời
hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lí
của Nguyễn Thúy
Hằng tại Viện Goethe, Hà Nội, tối 31-3-2006
- Cà phê Văn học của Hội đồng Anh: ‘Phê bình văn học trên báo chí
- Lý tính và cảm tính?’, TPHCM, tối
6-7-2007.
- Hội
thảo Các xu hướng mới của thơ Việt Nam đương đại, Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân văn TPHCM, 19-2-2008
- Hội thảo Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
(5) Chưa tiếp cận đủ
đầy nó - vì chưa cơ hội đọc hết - có vị vội kêu lên đó là loại phê bình
"hành động như khoa học thực vật", nghĩa là vô cảm (Phạm Quang Trung,
tạp chí Văn hóa Dân tộc, số 8, 2008), người khác lại
cho đó là loại "phê bình nước đôi". Tôi nói "không có cơ hội đọc", bởi 1. Theo quy ước,
Biên bản BTVC thuộc bản quyền của tập thể BTVC, nên dù đang giữ đầy
đủ, tôi không được quyền phổ biến chúng. Có lẽ chúng vĩnh viễn nằm lại ở đó, bởi
thực tế BTVC đã rã đám khó tập hợp lại. 2. Còn hầu hết Biên bản lập
chậm các loại vẫn còn nằm trong bóng tối.
Như vậy, hai
trong ba phần PBLBB chưa được đưa ra thông tin đại chúng. Một phần còn lại
- Phê bình lập biên bản, các bài nghiên cứu-phê bình của tôi bộc lộ rõ ý
định và tinh thần phê bình lập biên bản hơn cả. Tạm nêu ba ví dụ:
- "Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn" (Tienve.org,
17-3-2005) là tham luận cho Đại hội Hội Nhà văn Thành phố, nhưng nó bị từ chối
đọc tại hội trường.
- "Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi suffix
'nữ'" lập biên bản thơ nữ quyền luận, cả trong lẫn ngoài nước. Bài tiểu
luận đăng lần đầu trên Talawas, 18-4-2006; một năm sau - tháng 3-2007,
tạp chí Nhà văn mới đăng.
- Sự kiện Biển Đông tác động mạnh, lớn, nhiều chiều
vào xã hội Việt Nam và tâm thức Việt trên khắp thế giới, trong đó có văn
chương. Kì nhất - năm 2007, hàng loạt sáng tác về/ từ sự kiện này xuất hiện
trên khắp website tiếng Việt hải ngoại. Chưa thấy nhà phê bình Việt nào tổng kết nó,
ngoài hai bài khá sơ lược, nên tôi mới tiến hành lập biên bản. "Cảm thức thơ
Việt qua hai kì sự kiện Trường Sa - Hoàng Sa", bản tóm tắt đăng trên BBC
tiếng Việt, 9-7-2011. Bản đầy đủ hơn đăng trên Tienve.org vài ngày sau
đó. Riêng tôi vẫn giữ riêng cho mình toàn bộ "biên bản" cùng hầu hết
bài thơ tôi sưu tầm được.
(6) Ví như bài thơ
“Khóc Tây Tạng” của Inrasara vừa đăng trên Tienve.org sáng ngày
28-7-2009, thì ngay sau đó đã có mười bốn bài bình luận được post lên tương
tác. Có bài dài đến bốn trang A4 dẫn ra bao nhiêu đường link đưa độc giả tiếp cận
với vấn đề. Rồi có tác giả làm cuộc sưu tầm các bài viết và sáng tác xung quanh
sự kiện Tây Tạng. Đặc biệt hơn nữa là có đến bốn bài thơ “họa” lại bài thơ khởi
đầu. Rất lí thú.
(7)
Xem
“Đặt nền tảng cho phê bình thơ Việt đương đại”, tạp chí Hợp Lưu, số 110,
2010.
(8) Xem thêm:
Inrasara, “Hòa giải và hóa giải ba loại nhà thơ hôm nay”, tạp chí Sông Hương,
số 6, 6-2010.
(9) Xem Nguyễn Hưng Quốc, Mấy vấn đề phê bình và lí
thuyết văn học, NXB Văn Mới, Hoa Kì, 2007, tr. 89-92.
No comments:
Post a Comment