Tôi viết bài này đã lâu, cũng chẳng muốn đăng làm
gì vì thiết nghĩ dù sao tôi cũng nghĩ đến cái tình anh em. Nhưng khổ một
nỗi có thể do trình độ tôi có hạn nên tôi không hiểu vì sao Hội Nhà văn lại tán
tụng thứ thơ “lai căng như kiểu người nước ngoài nói tiếng Việt không sõi”, làm
hỏng thẩm mỹ của người đọc thơ, làm băng hoại ngôn ngữ Việt Nam muôn ngàn yêu
quí của chúng ta, nên sau đôi hồi nghĩ ngợi,
tôi quyết định cho Bà Đầm xòe công bố bài viết này. Có thể đúng, có
thể sai về những ý kiến của tôi, rất mong anh em xa gần góp ý, dậy bảo.
Vẫn biết là một hội viên Hội Nhà văn, bài viết này sẽ có thể ít nhiều làm một
số vị lãnh đạo hội không hài lòng. Nhưng vì tồn vong của thi ca, sự trong sáng
của tiếng Việt, tôi quyết định cho đăng. Cám ơn những ai đọc bài này.
LẠM PHÁT THƠ VÀ CỐ TRAO GIẢI THƯỞNG CHO THƠ
Vì sao thơ bung ra đến độ lạm
phát?
Có một mệnh đề trong lí luận kinh điển theo chủ nghĩa
đang bao trùm lên thể chế này mà bất kì một ông cán bộ nào có chút địa vị
của xã hội ta mặc dù chả biết gì về triết học, kinh tế học nhưng rất thích nhắc
đến đó là “hạ tấng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc”- Diễn
nôm ra, tức là cơ sở vật chất tác động quan trọng đến suy nghĩ, tư duy. Chả
biết câu này đúng sai thế nào nhưng nhìn vào sự phát triển thơ đối chiếu với
nền kinh tế nứơc ta thì quả là như vậy. Gần chục năm nay nưóc ta đi vào cơn
khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy biểu hiện qua chỉ số lạm phát kỉ lục. Chưa
đầy một thập kỉ mà giá trị đồng tiền giảm tới hơn mười lần khiến giá cả tăng
vọt, dân tình điêu đứng. Vậy mà trong thời gian này, thơ – một thứ sản phẩm trí
tuệ ra đời từ những bộ óc siêu việt trong thời thịnh trị, dân an quốc vượng thì
trong thời lạm phát mọi mặt của nước ta, thơ bỗng nhiên trở thành sản phẩm gia
tăng vùn vụt của đủ hạng người, trong đó có thứ người no cơm ấm cật đang cần
một cái danh mang tính hào hoa, phong nhã. Vì lẽ đó thơ cũng theo kinh tế mà
rơi vào tình trạng lạm phát ghê gớm.
Ngoài nguyên nhân do ham muốn của số người thích mua
danh ba vạn thì còn thêm hàng loạt nguyên nhân khiến sự lạm phát thơ
ngày càng mạnh mẽ. Thứ ngưòi gọi là “nhà thơ”sinh sôi nhanh hơn cả chuột –
giống động vật đẻ vô tội vạ – đến độ có người đã báo động cầm một hòn sỏi ném
vu vơ ra ngoài đường thì thể nào cũng trúng một nhà thơ. Sự lạm phát này đã làm
thơ, một thể loại cao quí, bị tầm thường hóa đến độ không ít người phát sợ.
Có người khi vui miệng đã đề nghị nên thành lập một
trại “cai nghiện thơ”, và trước cửa nhà người, không muốn
bị làm phiền vì thơ ca, đã để tấm biển “đề nghị để giầy, dép và thơ ở
ngoài”.
Nguyên nhân thứ hai khiến thơ trở thành lạm phát phải
kể đến là đặc trưng ngôn ngữ xứ ta dễ bắt vận, dễ nói thành vần – không phải
ngẫu nhiên những kẻ tâm thần, đầu óc không bình thường hay nói vần, thích đọc
vè là vì vậy.
Một tác động làm thơ tăng như một đại nạn là cơ chế bỏ
tiền ra in thơ. Thời mọi sự còn tử tế để in một tập thơ thì chí ít phải là nhà
thơ đàng hoàng có môn bài, có danh là Hội viên Hội Nhà văn. Nay thì bất kì một
vị nào có tiền khi đã no chán mọi thứ chơi vật chất như chó cảnh, chìm muông
…lại có đôi chút khả năng biết bắt vần viết ra những câu có đôi chút nhịp điệu
là loay hoay thế nào cũng chôm một ít tiền vợ mang đến các nhà xuất bản xin
giấy phép in thơ mình. Ông nào rủng rỉnh tài chính còn thuê một vài cây bút đôi
chút có danh để viết bài giới thiệu. Và, nếu chỉ căn cứ vào những bài tựa các
tập thơ này thì dân An nam ta sẽ hí hửng tưởng xứ ta đang được ông Hoàng Mười
phù hộ nên mới mọc ra nhiều đệ tử của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm , Puskin, Gớt
đến thế.
Trong sự cấp giấy phép in thơ này thì Nhà xuất bản Hội
Nhà văn – một nhà xuất bản có một thời danh giá nay trở thành một tổ hợp thủ
công chuyên cấp giấy phép để in thơ.
Một nguyên nhân nữa để thơ bung ra như mối gặp trời mưa
là hai ông chánh, phó chủ tịch, ông Trưởng ban Tổ chức Hội Nhà văn đều là nhà
thơ.
Ông chủ tịch Hội thì với thơ ai cũng đều có câu khen
rất tài hoa trong ngôn từ, mặc dù hình như ông chẳng đọc thơ của ai bao giờ,
trừ những tập ông được mời viết lời tựa.
Câu bình cửa miệng của ông mỗi khi nói về thơ ai cũng
hao hao như nhau “Nhan sắc lắm, lay động lắm”.
Làm thơ và đựơc gọi là nhà thơ trong thời lạm phát dễ
như thế nên người ta đổ xô làm những thứ gọi là thơ. Viết một truyện ngắn, một
vở kịch và cao hơn cả là một tiểu thuyết thì cực khó, còn để đẻ ra một bài văn
vần gọi là thơ thì quá dễ. Vì vậy thơ bung ra nhan nhản, từ ông thứ trưởng
đương chức đến các sinh hoạt hội người cao tuổi, đều ngày ngày cặm cụi gò lưng
làm thơ để hi vọng đựơc gọi và đựơc tự phong là nhà thơ.
Thơ lạm phát kéo theo sự gia tăng khủng khiếp một thứ,
đó là ngưòi đựơc gọi là nhà thơ. Vì nhà thơ có vai vế trong hội nghề như vậy
nên những đợt kết nạp và những giải thưỏng hàng năm đầu nghiêng về ngưòi làm
thơ và thơ.
Với tình trạng này, danh hiệu và giải thưởng một thời
cao quí là Hội viên , giải thưỏng Hội Nhà văn Việt Nam bỗng bị hạ thấp rất
nhiều, nếu không muốn nói là rẻ rúng khi chỉ cần có trong tay hai ba tập thơ tự
in, chất lượng nhàng nhàng, nhưng được sự chiếu cố của ông trưỏng ban, ông Chủ
tịch hội thì sớm muộn sẽ được vào hội.
Còn giải thưỏng thì thật tuỳ hứng, nếu không muốn nói
là giải thưỏng này đã được chỉ đạo theo kiểu chỉ định thầu trong kinh tế.
Tôi không tin dư luận cho rằng, vì yếu tố kinh tế nên
năm nào Hội Nhà văn cũng kết nạp hàng đống các vị làm thơ chỉ ở trình độ
nghiệp dư vào hội viên.
Nếu đây là sự thật thì nó có khác gì sự mua quan bán
tước đang hoành hành ở nứơc ta.
Và như để chứng minh cho sự đúng đắn trong chiến lược
phát triển hội viên Hội viên Hội Nhà văn Việt Nâm nên trên dưói một thập niên
vừa qua, giải thưởng hàng năm, nhiều tập thơ xoàng xoàng đựơc các vị có chức
quyền trong Hội Nhà văn để mắt tới, đã trúng giải.
Hiện trạng này đến năm 2011 vừa qua đã trở thành điển
hình.
Ngoài hai tác phẩm cũng chẳng lấy gì làm đặc sắc lắm
của hai ông Ủy viên Ban chấp hành thì có không ít các tập thơ của đám viết thơ
trẻ.
Về thơ trẻ tôi xin mượn cách đánh giá của nhạc sĩ Văn
Dung khi nói đến nhạc trẻ “đó là kiểu thơ chỉ để ý đến hình dáng, điệu bộ.
trang phục mà quên đi nội dung, chất giọng”.
Cũng trong động tác để nhấn thêm sự
khẳng định đúng đắn trong sự phát triển hội viên, sự phát triển đáng tự hào của
phong trào thơ nước nhà của các vị lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam, ngưòi ta đã
tổ chức hàng loạt các cuộc hội thảo để tôn vinh một vài nhà thơ, xem như một
biểu tượng, một thứ “đề can” cho hiện trạng thơ phát triển ầm ĩ đến lạm phát
như hiện nay (sự hội thảo này có lẽ chỉ đúng nhất khi nói đến thơ của Đồng Đức Bốn-
một tài năng vượt trội trong thể thể lục bát đặc sản của thi ca Việt Nam).
Thử bàn về cái gọi là hiện tượng thơ Mai Văn
Phấn .
Như trên tôi đã nói, số lượng các tập thơ ra đời hàng
năm, từ khi có cơ chế tự in cùng với sự dễ dãi, mất công bằng trong việc kết
nạp người làm thơ vào Hội Nhà văn thì hàng năm cả nứơc ta không dưới hai, ba
ngìn tập thơ được xuất bản, và mỗi năm có hàng nghìn người tham gia vào đội ngũ
làm thơ (đọc thơ dễ hơn đọc văn (vì nó phù hợp với sự lười đọc đang bao phủ
toàn bộ nền văn hoá đọc của xứ ta). Vì thế, người ta không lấy làm lạ khi Nhà
văn Tuyết Sương TPHồ Chí Minh, tác giả 5 cuốn tiểu thuyết trong đó có cuốn “Cô
y tá nhỏ” khá nổi tiếng, rồi nhà văn Trần Chiến, tác giả cuốn tiểu
thuyết vào hàng xuất sắc bao năm vẫn không được các vị trong Ban chấp hành để
mắt tới).
Không gì dễ hơn khi tự tạo lập cho mình danh hiệu nhà
thơ. Tôi biết có một người không hề có chút thiên bẩm nào trong sáng tác văn
nghệ, nhưng có thể cho ra đời mọi tác phẩm đủ mọi thể loại: cầm kì, thi, họa,
trừ tiểu thuyết.
Thời buổi thưong mại này,l khi người ta có tiền thì
muốn thành nhà gì cũng được, trừ thành một tiểu thuyết gia, huống hồ làm một
nhà thơ.
Trên số lượng về thơ và nhà thơ mà hai ông nhà thơ
chánh phó, chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã cố tạo ra vài cái đỉnh khẳng định
sự thắng lợi của sự bội thu thơ. Sự biểu dương và tôn vinh cố ý thơ Mai Văn
Phấn là một trường hợp như thế.
Phải công nhận về mặt phương pháp luận thì Mai Văn Phấn
tỏ ra khôn ngoan khi chọn một kiểu thơ “không phải là thơ”, một thứ văn xuôi
cắt ngắn, một cách viết giống hệt bản dịch ra tiếng Việt từ tiếng nứơc ngoài
của người đang ở độ tuổi trí tuệ còn chưa lú lẫn. Trong khi hầu hết những người
viết thơ đang sáng tác theokiểu cú pháp, hình thức thơ cũ kĩ, mà trong chiều
sâu của tâm hồn và nhận thức của họ, cũng thấy không mấy hấp dẫn thì Mai Văn
Phấn quả là khôn ngoan đi theo một lối đi tưởng như mới trong làng thơ ta hiện
nay.
Nhưng đọc kĩ một chút thì thơ Mai Văn Phấn là sự lặp
lại hiện tượng giống như thơ của Nguyễn Quang Thiều cách đây trên dưới hai mươi
năm. Hồi đó Nguyễn Quang Thiều đang sung sức, cũng bắt đầu nhàm chán cáí lối
thơ và tư duy thơ cổ lỗ của các bậc đàn anh đi trứơc, lại sẵn có khả năng ngoại
ngữ nên Thiều đã chọn con đưòng mô phỏng thơ nứơc ngoài, chủ yếu là thơ tiếng Anh
mà ít nhiều tôi nhìn thấy tựa tựa cách viết theo những bài thơ lừng lẫy trong
tập lá cỏ của Witman.
Thơ Thiều thủa sung sức giống hệt như những bản dịch từ
thơ nứơc ngoài.
Cũng xin nói thêm khi Nguyễn Quang Thiều làm những bài
thơ này, cũng là lúc nền văn chương nước ta đã bắt đầu đổi mới. Các cây bút đã
chán ngấy một kiểu văn chương minh hoạ, những câu thơ cũ kĩ nặng chất truyền
thông, thì Thiều quả là khôn ngoan khi đem đến cách viết mới mà thực ra là sự
mô phỏng lối nghĩ, lối cấu trúc của thơ nứớc ngoài.
Thời đầu đổi mới đó văn xuôi còn để lại Nguyễn Huy
Thiệp trong sự phá phách lật đổ các thần tượng, giải thiêng những điều húy, kị;
còn trong thơ thì ồn lên sự làm mới của thơ Thiều .
Tôi chỉ hơi lạ, trong văn xuôi, Thiều có những cách
viết có cảm hứng hướng về làng quê thôn giã (tiêu biểu là truyện ngắn “‘mùa
hoa cải bên sông”), thì trong thơ Thiều “sự cách tân” lại hướng ngoại mà
thực chất là sự mô phỏng thơ nước ngoài.
Hơn hai hai mươi năm sau, Mai Văn Phấn lại rập lại cách
đi đó của đàn anh.
Điều này cắt nghĩa, vì sao hai ông nhà thơ chức dịch
của Hội Nhà văn bỗng nhiên lại tán tụng thơ Mai Văn Phấn và kéo theo hàng đống
các vị, một là theo voi ăn bã mía, hai là sợ mình bị đánh giá là ngu dốt khi
không tán dưong thơ Mai Văn Phấn theo kiểu Trạng Quỳnh đã từng diễu “địt mẹ
thằng nào bảo thằng nào”.
Ngôn ngữ, tư duy của ngưòi Việt ta khác hẳn ngôn ngữ,
cách tư duy của người nứơc ngoài. Vậy mà, Nguyễn Quang Thiều và nay Mai Văn
Phấn lại tung ra những đoạn chữ mà ngưòi ta gọi là thơ cùng những suy nghĩ gần
như rập lại cách nói, cách tư duy của ngưòi nước ngoài, cụ thể là tư duy của
dân đất mới châu Mỹ. Trong suy nghĩ người Việt rất kiêng kị khi nói về quạ
(theo quan điểm cổ xưa đó là loài chim chuyên mang điều gở ), nay Mai Văn Phấn
lại mô phỏng cách nghĩ nứơc ngoài, cũng nói về con quạ với những câu gọi là
thơ, giống như thơ dịch, với kiểu tư duy và cách đặt câu xa lạ với ngôn ngữ,
cách tư duy truỳên thống của người đọc xứ ta
“Con cá nhẩy vào đám mây tự vẫn”- Biến
tấu con quạ.
Rồi lảm nhảm, loằng ngoàng nói về mái nhà như một người
ngớ ngẩn đang học nói tiếng Việt:
“Thùng rác quay mắc phải khung ảnh, quạt trần, dây
điện thoại. Chiếc quần lót mặc kẹt giữa tủ bát đĩa và máy tập thể hình. Chổi
cùn, bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh …- Chạy theo mái nhà.
Trời ạ! Thế mà ngưòi ta dám gọi là thơ thì thật là
liều.
Tôi còn nhớ Chế Lan Viên đã từng có ý định cách tân
hình thức thơ bằng kéo dài câu thơ một cách bất thường. Dạo đó ta gọi là thơ
văn xuôi. Đọc lại bài thơ tiêu biểu cho sự cách tân này của ông là bài : những
cành phong lan bể:
“ xanh biếc mùa thu bể như hàng nghìn mùa thu còn
tâm hồn nằm đọng lại/ Sóng như hàng nghìn trưa xanh trời đã tan xanh thôi không
trở lại làm trời/ Nếu núi làm con trai thì bể là mùa thu đã biến thành con gái
, mỗi đêm ngày da thịt sóng sinh sôi”.
Ta vẫn thấy một cách nghĩ Việt Nam, những âm điệu của
ngôn ngữ Việt cực kì thơ ẩn dấu trong hình thức văn xuôi mang đặc trưng mà chỉ
có thơ mới có.
Còn đọc thơ Mai Văn Phấn chỉ thấy những câu văn không
ra văn, thơ không ra thơ, mang đủ thứ suy nghĩ vớ vẩn, theo kiểu bạ đâu nói đó.
Tối nghĩa và hạ thấp rất nhiều, chẳng những thể loại thơ, mà còn làm mất đi vẻ
đẹp, sự trong sáng của tiếng Việt.
Tôi nhớ trong làng thơ xứ ta hiện nay, không ít vị làm
thơ muốn đổi mới sự thể hiện thơ. Điều này là một yêu cầu chính đáng, cần
khuyến khích. Nếu Lê Đạt muốn cách tân bằng sự đảo lộn cú pháp, trật tự ngữ
pháp để tạo ra sắc thái mới của thơ, Lê Huy Quang cũng đi theo hứơng này và
cũng có ít nhiều thành công, hay Nguyễn Đình Chính cách tân bằng đưa ngôn từ
trầm tục vào thơ ..
Nhưng, dù tôi không tán thành việc dung tục hoá trong
thơ Chính, nhưng vẫn phải công nhận NguyễnĐình Chính, ngoài tư cách là một tiểu
thuyết gia ưa tìm tòi, thì ông là một nhà thơ đầy nội lực thi ca. Nội lực này
lại càng đựơc đẩy lên khi chất công dân của ông được thể hiện một cách dữ dội
và bản lĩnh trong những câu thơ muốn phá bung khuôn khổ …
Hoặc ca từ trong những ca khúc tài danh của Trịnh Công
Sơn. Trong những ca từ mang nặng chất thơ của Trịnh Công Sơn, nếu tách ra từng
dòng hay để hiểu trực diện nghĩa thì thật khó, nhưng ở những ca từ đó tràn ngập
sự hư ảo, lung linh, cao siêu của triết ly thiền, nên tạo ra quá nhiều tầng
nghĩa mà ngưòi đọc chỉ cảm chứ không thể diễn thành lời một cách rành mạch.
Trở lại thơ Mai Văn Phấn. Để chứng minh thơ Mai Văn
Phấn là hiện tượng đổi mới thơ ca, Hội Nhà văn không ngần ngại tiến hành một
loạt hoạt động để ghi nhận hiện tượng này. Làm hội thảo, rồi trao giải thưởng
cho Mai Văn Phấn và trao giải cho các cây bút trẻ có lối viết hao hao như Mai
Văn Phấn, là Đỗ Dõan Phương.
Xin đọc mấy câu mà ngưòi ta cố gọi là thơ của cây bút
trẻ này:
“Bây giờ là quãng đường dài nhất/ mọi ngưòi giúp cô
tiền đò, tiền đường/ và bắc những cây cầu bằng vải đỏ / hát những câu an ủi dặn
dò…/ khắc ghi vào đầu khuôn mặt già nua của cô để từ nay nhớ hoặc sợ - Thăm
vườn nhà cũ.
Kì quặc thật. Thế này mà người ta gọi là thơ thì tôi
nghĩ, một là ngưòi đó bị nhiễm sự lai căng dở dang của kẻ quá yêu tiếng nứơc
ngoài chê bai tiếng mẹ đẻ, hai là cái đầu đó có vấn đề về tâm thần.
Tôi có cảm thấy một chu kì đã thành qui luật là mỗi khi
ngưòi ta tôn vinh thứ thơ lai căng này thì cũng là lúc các nhà thơ của ta đang
đi vào bế tắc, cả trong tư tưởng và cách biểu hiện.
Thơ Mai Văn Phấn và một số tập thơ nhận giải thưởng của
Hội Nhà văn năm 2011 không chỉ là những ví dụ cho sự bế tắc mà còn vô tình tạo
ra một thứ sai lầm khi làm hỏng thẩm mỹ về thơ của ngưòi đọc Việt nam, làm rối
ngôn ngữ nước ta, trong khi đáng ra với chức phận nhà thơ phải làm cho ngôn ngữ
này ngày càng đẹp hơn,dân tộc hơn và trong sáng hơn.
Khi viết đến thơ Mai Văn Phấn tự nhiên tôi lại nghĩ đến đề xuất thu phí
phượng tiện giao thông cá nhân của ông Bộ trưởng Bộ GTVT- Đinh La Thăng: vô lý,
cửa quyền, tai hại cho đời sống của ngưòi dân. Nó cũng hao hao giống Hội Nhà
văn cố trao giải cho những tập thơ này, như là sự cưỡng ép thiên hạ phải công
nhận thơ lai căng như thơ của Mai Văn Phấn và một số nhà thơ trẻ như là thành
tựu của nền thơ Việt Nam đưong đại. Buồn thay!
Quỳnh mai 6/4/2012
NGUYỄN HIẾU (ĐT: 091 35 35 270)
Nguồn: Bà Đầm
Xòe