Trang

Monday, August 27, 2012

NHÀ VĂN NGUYỄN HÒA ĐÃ LIẾC BÚA PHÊ BÌNH XẺO CÁI LƯỠI HUẾNH HOÁNG CỦA “NỰC SĨ VĂN ĐÀN” NGUYỄN HIẾU NHƯ THẾ NÀO?

Tôi đoán chắc, do không được trang bị các tri thức tối thiểu về lịch sử văn học và lịch sử phê bình văn học nên Nguyễn Hiếu đã viết "văng mạng", song lại tỏ ra khệnh khạng, uyên thâm bằng cách khoác cho sự "văng mạng" cái lốt "nói cho có vẻ lý luận một chút". Than ôi, trong khoa học làm gì có cái món "lý luận" như ông đã viết. Rất mong Nguyễn Hiếu giới thiệu cho người đọc được biết phê bình văn học ở "thời cổ Hila" vuông tròn như thế nào, thành tựu của nó ra sao, ngõ hầu bổ sung vào vốn liếng "tri thức què quặt, sự yếu kém về hiểu biết" của các nhà phê bình như ông đã nhận xét (!). Nói vậy thôi, tôi tin đây là một yêu cầu quá cao, nói cách khác, là một thách thức mà Nguyễn Hiếu không thể vượt qua!”

Phê bình “Sự phê bình có tính văng mạng”!
Lý luận - phê bình văn chương ở Việt Nam đang lâm vào khủng hoảng, nhận xét ấy không phải là xa lạ với các tác giả quan tâm tới vấn đề và cố gắng đi tìm giải pháp. Về phần mình, tôi luôn ủng hộ các ý kiến sâu sắc, có tính phát hiện, có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và thiện chí, đồng thời sẵn sàng bác bỏ những ý kiến mà không rõ từ động cơ nào đã đề cập tới lý luận - phê bình từ sự thiếu vắng tri thức, từ thái độ thiếu khách quan và thiếu công bằng (?). Nguyễn Hiếu đã công bố một văn bản như vậy trên báo Người Hà Nội, và không có cách nào khác, trong khi các nhà lý luận - phê bình tỏ ra không quan tâm thì tôi nghĩ mình có trách nhiệm phải trả lời, với mục đích không để các ý kiến “văng mạng” làm nhiễu loạn sự tiếp nhận của những ai đã đọc bài viết của Nguyễn Hiếu.
Vào lúc phê bình văn học nước nhà lâm vào "cơn bĩ cực", xem ra không chỉ có người trong nghề mới quan tâm, trăn trở, mà "cơn bĩ cực" ấy cũng trở thành miếng "mồi ngon" cho một số người đay nghiến, xỉ vả. Dường như lâu nay xu hướng "xã hội hóa phê bình" đã tạo ra tiền đề cho một số quan niệm thô thiển về phê bình có điều kiện hoành hành, bởi đọc trên báo chí, dễ nhận thấy có hai xu hướng khác biệt: nếu các nhà lý luận - nghiên cứu - phê bình văn học yêu nghề, tỉnh táo và cầu thị đang cố gắng hợp sức cùng nhau đi tìm nguồn cơn của tình trạng, đặng tháo gỡ và vượt thoát khỏi sự trì trệ; thì vài ba cây bút vốn xưa nay chưa viết nổi một bài phê bình nào cho "ra hồn", thậm chí không biết phê bình văn chương là "cái món" gì, cũng liều mình xông ra làm nhiễu loạn văn đàn bằng cách công bố những "bài phê bình cà cộ", rồi cao giọng dạy bảo các nhà phê bình phải như thế này, phải như thế kia qua những lời lẽ "đao to búa lớn" nhưng hỗng huễnh về tri thức và cách thức tư duy.
Năm ngoái, trên báo Sức khỏe & Đời sống, sau khi phát huy trí tưởng tượng để hình dung ra mối quan hệ giữa các nhà phê bình với loài khủng long - động vật thời tiền sử, Lâm Quang Ngọc công bố bài viết mang tiêu đề rất hoành tráng Câu chuyện về loài khủng long và các nhà phê bình (Sức khỏe & Đời sống số 1406, ra ngày 12.7.2003) và ông lập tức nhận được những góp ý, mà nếu tôi là Lâm Quang Ngọc, thì sẽ "cạch" đến già, không bao giờ còn ngó nghiêng tới phê bình. Vậy nhưng "bài học nhỡn tiền" đó vẫn chưa làm những cây bút cùng trường phái với Lâm Quang Ngọc tự thấy e ngại, họ tiếp tục lao ra "trận tiền", mà điển hình và gần đây nhất là tiểu luận Phê bình sự phê bình có tính phê bình đăng trên Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (số 24, ngày 23-12-2004) và được eVan đăng lại ngày 28-12-2004.
1. Về nguyên tắc, "phê bình" là quyền của mọi xã hội, của mọi con người lành mạnh và có ý thức nghiêm túc đối với phát triển. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, để "phê bình" thật sự hiệu quả thì về tri thức, vấn đề quan thiết hàng đầu là người tiến hành phê bình phải thấu triệt những tri thức tối thiểu, cơ bản về đối tượng muốn phê bình, còn về phương pháp luận, người đó phải lựa chọn góc nhìn khách quan và toàn diện, không để bị chi phối bởi thói chủ quan, cảm tính... Đấy là mới nói đến sự "phê bình", còn một khi đã cầm bút để "phê bình sự phê bình" thì tầm mức các yêu cầu còn cao hơn nhiều. Nghĩa là về chuyên môn học thuật, không phải bất cứ người nào cũng có thể "phê bình sự phê bình". Từ cách đặt vấn đề ấy, xem ra Phê bình sự phê bình có tính phê bình của Nguyễn Hiếu chỉ là sản phẩm của lối "phê bình văng mạng" mà một cây bút ý thức được giới hạn nghề nghiệp của mình sẽ không bao giờ nghĩ tới việc "chiềng làng".
Nhưng tiếc thay, ý thức được giới hạn nghề nghiệp của mình vốn là điều không dễ thực hiện với những người mà thói tự thị đã lấn át sự tỉnh táo. Để đi tới một nhận xét hết sức tự tin rằng: "Trong sự có học của đa số các nhà phê bình của ta đã ẩn chứa nhiều sự khập khiễng... Tri thức què quặt, sự yếu kém về hiểu biết, sự ngại đọc đã tước bỏ khá nhiều vũ khí của các nhà phê bình văn học hiện nay ở ta...", Nguyễn Hiếu đã "trình diễn" sự am hiểu về phê bình văn chương và lịch sử phê bình văn chương của ông như sau: "Từ thời thượng cổ cho đến nay, hay nói cho có vẻ lý luận một chút thì từ thời cổ Hila cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI này và có lẽ mãi mãi mai sau bất kỳ một nền văn học nào cũng gắn liền với một nền phê bình...". Chỉ qua một câu văn xác quyết trên đây, có thể nhận ra sự tùy tiện, liều lĩnh đến kinh ngạc của Nguyễn Hiếu. Bởi:
- Thứ nhất: Dẫu có mò mẫm đến rách nát các cuốn sách lịch sử của nhân loại từ xưa đến nay, người ta cũng không thể tìm ra một giai đoạn lịch sử nào có tên gọi là "thời cổ Hila". Trong lịch sử văn hóa - văn minh nhân loại, có một thời kỳ được định danh là "văn minh Hy Lạp - La Mã" (được nhiều người viết tắt là "văn minh Hy - La" - NH) mà nội dung của nó bao hàm ý nghĩa về tính liên tục của một nền văn minh phát triển rực rỡ ở phương Tây cổ đại. Như vậy, "thời cổ Hila" theo lối viết của Nguyễn Hiếu là rất tùy tiện.
- Thứ hai: Nếu "thời cổ Hila" được Nguyễn Hiếu sử dụng để chỉ Hy Lạp - La Mã cổ đại, thì xét về thời gian lịch sử, "thời thượng cổ" không tương ứng với sự hiện diện của hai quốc gia Hy Lạp và La Mã. Và sự không tương ứng này đã cho thấy vốn liếng "tri thức" lịch sử còn rất lơ mơ của Nguyễn Hiếu.
- Thứ ba: Có thể nói Nguyễn Hiếu là người đầu tiên có gan "qua mặt" giới nghiên cứu lịch sử văn học để khẳng định từ "thời thượng cổ" nhân loại đã có văn học và văn học đó luôn gắn liền với một nền phê bình. Tôi đoán chắc, do không được trang bị các tri thức tối thiểu về lịch sử văn học và lịch sử phê bình văn học nên Nguyễn Hiếu đã viết "văng mạng", song lại tỏ ra khệnh khạng, uyên thâm bằng cách khoác cho sự "văng mạng" cái lốt "nói cho có vẻ lý luận một chút". Than ôi, trong khoa học làm gì có cái món "lý luận" như ông đã viết. Rất mong Nguyễn Hiếu giới thiệu cho người đọc được biết phê bình văn học ở "thời cổ Hila" vuông tròn như thế nào, thành tựu của nó ra sao, ngõ hầu bổ sung vào vốn liếng "tri thức què quặt, sự yếu kém về hiểu biết" của các nhà phê bình như ông đã nhận xét (!). Nói vậy thôi, tôi tin đây là một yêu cầu quá cao, nói cách khác, là một thách thức mà Nguyễn Hiếu không thể vượt qua!
2. Từ ý kiến "văng mạng" về lịch sử, Nguyễn Hiếu tiến tới trình bày sự "văng mạng" về mối quan hệ giữa văn chương và lý luận - phê bình. Ông viết tiếp: "Chính sự đa dạng, phong phú của sáng tác đã tạo ra lý luận, phê bình và ngược lại, lý luận, phê bình khi được đúc kết từ thực tế của sáng tác đã có tác động định hướng, hướng dẫn lại sáng tác và một chức năng không kém phần quan trọng nữa là chỉ đường và xác định thẩm mỹ cho độc giả trước mỗi tác phẩm".
Ý kiến của Nguyễn Hiếu, xét đến cùng chính là hệ quả của sự thiếu hụt tri thức về lịch sử lý luận - phê bình văn học nói riêng, lịch sử khoa học nói chung. Sự ra đời của lý luận - phê bình là kết quả tổng hòa của một quá trình nhận thức - tư duy hết sức quan trọng của con người đối với thực tiễn văn chương. Vì phải tới một thời kỳ lịch sử nhất định, với một trình độ tư duy nhất định, với những phương tiện vật chất của xã hội nhất định (như sự xuất hiện của ngành in và sau đó là báo chí...) thì lý luận - phê bình với tư cách là một kiểu loại hoạt động khoa học mới ra đời. Theo ý nghĩa đó, lý luận - phê bình, như quan niệm của chúng ta hôm nay, chỉ có thể xuất hiện sớm nhất từ thế kỷ XVII. Còn về mặt triết học, từ quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn, thì lý luận - phê bình có nguồn gốc từ thực tiễn văn chương, nhưng chính trình độ nhận thức, khả năng tư duy của con người đã xây dựng nên và quyết định phẩm chất của lý luận - phê bình chứ không phải "chính sự đa dạng, phong phú của sáng tác đã tạo ra lý luận, phê bình".
Còn mệnh đề: "lý luận, phê bình khi được đúc kết từ thực tế của sáng tác đã có tác động định hướng, hướng dẫn lại sáng tác và một chức năng không kém phần quan trọng nữa là chỉ đường và xác định thẩm mỹ cho độc giả trước mỗi tác phẩm" của Nguyễn Hiếu, có lẽ cũng đã đến lúc cần hiểu và diễn đạt cho chính xác hơn. Bởi thực tế cho thấy lý luận - phê bình chỉ có thể "góp phần" (xin nhấn mạnh - NH) định hướng và hướng dẫn đối với sáng tác, chỉ có thể "góp phần" (xin nhấn mạnh - NH) hướng dẫn người đọc chứ không "chỉ đường và xác định thẩm mỹ" như Nguyễn Hiếu quan niệm (xin nói thêm, cụm từ "xác định thẩm mỹ" là cụm tù cực kỳ tối nghĩa trong văn cảnh này!). Hiểu theo Nguyễn Hiếu, người ta sẽ dễ dàng thủ tiêu cá tính sáng tạo của nhà văn và thủ tiêu luôn cả tính độc lập tương đối trong sự cảm thụ của mỗi người đọc.
3. Nguyễn Hiếu cho rằng phê bình văn học là lĩnh vực "không cho phép một kẻ tay ngang có đôi chút ham thích và muốn lấy văn chương tô điểm cho tên tuổi của mình có thể múa may được", và từ vị trí của một "kẻ tay dọc", ông đánh giá khái quát về các thế hệ các nhà phê bình văn học Việt Nam đương đại mà càng đọc ông, càng nhận rõ sản phẩm "văng mạng" của một vị phê bình "tay dọc" có phẩm chất ra sao. Ông nhận xét: "Hầu như các vị Aristote, Kim Thánh Thán, Hoài Thanh, Trần Thanh Mại (? - NH) bây giờ ở Việt Nam tuy vẫn mang danh và giữ ghế trên lĩnh địa phê bình nhưng thực tế đều buông vũ khí của mình chạy sang các lĩnh địa khác như một sự tất yếu và cũng để phù hợp với môi trường của thời buổi thương mại".
Theo nghĩa đen của đoạn văn trên, té ra Aristote, Kim Thánh Thán đều là công dân của nước Nam ta, và Hoài Thanh, Trần Thanh Mại hiện vẫn đang "mang danh và giữ ghế trên lĩnh địa phê bình nhưng thực tế đều buông vũ khí của mình chạy sang các lĩnh địa khác như một sự tất yếu và cũng để phù hợp với môi trường của thời buổi thương mại" hay sao? Hình dung ra khung cảnh Nguyễn Hiếu giao tiếp với Aristote và Kim Thánh Thán, cùng Hoài Thanh và Trần Thanh Mại ở chốn "hoàng tuyền" mà tôi hơi bị kinh hoàng (!). Thiển nghĩ, không cần tới "sự tất yếu và cũng để phù hợp với môi trường của thời buổi thương mại", các vị ấy cũng "buông vũ khí" từ đời nào đời nào, chứ đâu cần phải đến Nguyễn Hiếu thì mới phát hiện ra!
Với ánh mắt "mục hạ vô nhân", Nguyễn Hiếu liếc xéo vào thực trạng phê bình để kẻ cả đánh giá các "lớp" nhà phê bình văn học ở Việt Nam: "Lớp cỡ thầy tác giả bài viết này thì nhà phê bình tài hoa Hà Minh Đức xoay ra làm thơ và viết văn xuôi, thầy Phan Cự Đệ thì mãi quản lý một mảng văn hóa có liên quan đến nước ngoài, thầy Lê Đình Kỵ, cụ Phong Lê, Hoàng Trinh có lẽ do tuổi tác nên gần như vắng bóng... thảng hoặc các vị này có trở lại với phê bình thì một là bài viết của họ lại xoay quanh những đề tài mà các vị đã từng giảng dạy trước đây với sự kinh viện cũ kỹ của Timôfêép hoặc của nhà kinh điển Angels, Sepnưsepxki nào đó trong đấy chật cứng những câu chữ nặng chất giáo khoa đã được xếp trong bảo tàng của phê bình văn học đại loại "tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình", hay "biện chứng pháp của tâm hồn...". "Còn các nhà phê bình thế hệ thứ hai thì một là lao vào sự vụ rồi thỉnh thoảng lộ ra sự nước đôi khi dồn sức lực của mình vào các buổi hội họp của giới phê bình, rồi cho ra những bài viết nặng tính mặt trận về các vấn đề đáng ra cần sự rõ ràng, quyết liệt...". "Lớp phê bình thứ ba mới nổi tuy tuổi trẻ tài cao, học hành đầy đủ trong và ngoài nước thì đã sớm ăn phải bã dĩ hòa vi quý của lớp đàn anh cũng xếp bút đợi dịp kỷ niệm danh nhân nọ, danh nhân kia để viết những chuyên luận dài thậm thượt với sự khoe chữ, khoe kiến thức".
Các đoạn trích trên cho thấy Nguyễn Hiếu vừa thiếu khả năng xác định thế nào phê bình văn học, vừa liệt kê theo lối cảm tính chứ không tiến hành một khảo sát mang tính khoa học, và xem chừng không có nhà phê bình đương đại nào ở Việt Nam lại xứng đáng "lọt vào mắt xanh" của ông. Do thấy Nguyễn Hiếu coi Hà Minh Đức là một "nhà phê bình tài hoa", tôi lục tìm trong sách vở của Hà Minh Đức mà tuyệt nhiên không thấy chút ít "tài hoa" phê bình nào, nên đành tự hỏi liệu tiêu chí xác định sự "tài hoa" của Nguyễn Hiếu có khác người không, hay sự "tài hoa" ấy có được do Hà Minh Đức là "cỡ thầy" của ông?
Theo nhận xét của tôi, các vị như "nhà phê bình tài hoa Hà Minh Đức", "thầy Phan Cự Đệ... thầy Lê Đình Kỵ, cụ Phong Lê, Hoàng Trinh..." của Nguyễn Hiếu đã có đóng góp, đã "thành danh" trong văn học với tư cách là nhà nghiên cứu chứ không phải nhà phê bình. Cho dù các vị này có viết dăm ba bài phê bình thì tư cách "nhà phê bình" của họ cũng chưa hoàn bị. Chưa nói trong số ít ỏi các bài phê bình của họ, lại có bài chất lượng cũng không nhỉnh hơn tác phẩm của một số người viết nghiệp dư, cũng "văng mạng" ngang ngửa với Nguyễn Hiếu, như "cụ Hoàng Trinh" viết bài ca ngợi cuốn Văn luận của Tiến sĩ Đoàn Hương trên Tạp chí Văn học (số 5-2001) và kẻ viết bài này đã quyết liệt phê bình mà sau mấy năm vẫn chưa thấy "cụ" trả lời(1).
Mặt khác, ý kiến về "sự kinh viện cũ kỹ của Timôfêép hoặc của nhà kinh điển Angels, Sepnưsepxki nào đó trong đấy chật cứng những câu chữ nặng chất giáo khoa đã được xếp trong bảo tàng của phê bình văn học đại loại "tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình", hay "biện chứng pháp của tâm hồn" của Nguyễn Hiếu là không thể chấp nhận. Nó không bộc lộ tinh thần "khai phóng" mà bộc lộ thái độ phủ nhận bừa bãi, vì những vấn đề ông cho là "cũ kỹ", "đã được xếp trong bảo tàng của phê bình văn học" vẫn có giá trị của chúng, điều đáng nói là hiểu và vận dụng chúng như thế nào cho đúng đắn và thích hợp.
4. Do không nắm bắt được thế nào là phê bình văn học, song lại muốn lý giải tại sao mấy năm nay một số người sáng tác lại nhảy vào viết phê bình, Nguyễn Hiếu viết: "Không phải bỗng nhiên từ khi các nhà phê bình tự đánh mất thiên chức của mình thì không ít nhà sáng tác lại nhảy vào lĩnh địa này với sự hăng hái, bồng bột, nhiệt huyết của người nghệ sĩ và quả thật, ít nhiều họ làm khuấy trộn sự tĩnh lặng của văn học Việt Nam. Những Trần Mạnh Hảo, Thanh Thảo, ít nhiều của Trúc Thông, Nguyễn Hoàng Sơn, Phan Cung Việt, Phạm Tiến Duật...".
Xin thưa với Nguyễn Hiếu, trong thực tế, số nhà phê bình đã đánh mất "thiên chức" của họ không nhiều, và nếu ông không mắc phải căn bệnh tương tự với những người bị ông chê bai là "không chịu đọc, không chịu quán xuyến với tư chất của người quản gia, nội trợ của văn học nên các nhà phê bình của ta không nắm được chút nào các tác phẩm đương đại" thì chắc chắn ông sẽ rút lại lời chê bai đó. Tôi không dẫn ra những tác giả, những bài viết, những công trình phê bình văn học có giá trị được công bố trong hàng chục năm trở lại đây với Nguyễn Hiếu, vì tôi tin ông cũng chẳng đọc bao giờ, vì một lẽ đơn giản: nếu đã đọc, ông sẽ không hùng dũng sổ toẹt mấy thế hệ nhà phê bình như phần trên tôi đã đề cập.
Lại nữa, danh sách các nhà thơ được Nguyễn Hiếu liệt kê và cho rằng họ đã "nhảy vào" và "ít nhiều làm khuấy trộn sự tĩnh lặng của văn học Việt Nam" cũng chỉ là một danh sách "tùm lum", qua đó thể hiện ông không có khả năng phân biệt sự khác nhau giữa "phê bình văn học" với các phái sinh khác. Vâng, nếu như có thể coi Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Hoàng Sơn lâu nay có "nhảy vào" lĩnh vực phê bình, thì theo tôi, các nhà thơ Thanh Thảo, Trúc Thông, Phạm Tiến Duật, Phan Cung Việt chưa bao giờ viết phê bình. Là người theo dõi khá kỹ lưỡng và cập nhật đời sống văn chương nói chung, phê bình văn học nói riêng, tôi nhận thấy Phạm Tiến Duật chủ yếu "vừa làm vừa nghĩ" (như nhan đề cuốn sách của Phạm Tiến Duật xuất bản năm 2003 - NH) về kinh nghiệm làm thơ; Trúc Thông chủ yếu bình thơ, nhiều khi bình tán "vô thưởng vô phạt" và sinh hoạt văn học cũng không mất đi phần sinh động nếu thiếu những bài bình thơ như thế; còn coi Thanh Thảo, Phan Cung Việt cũng "ít nhiều" viết phê bình, ít nhiều tham gia "khuấy trộn sự tĩnh lặng của văn học Việt Nam" thì không khác gì coi phê bình văn học như chiếc "điếu cày của ủy ban", ai cũng có thể... hút!
5. Sau khi trình diễn các hiểu biết sơ sài và sự ấu trĩ của mình, Nguyễn Hiếu đại quát "luận tội": "Các tác phẩm văn chương tự nó vẫn sống và các nhà sáng tác tự sức mạnh nội lực của mình vẫn đi con đường của họ và chẳng cần một thứ bố hờ mẹ hão nào làm cảnh. Cái cần báo động là người đọc nước ta đang bị rơi vào hồng hoang, loạn xạ của nhũng nhiễu các tác phẩm nội và ngoại kéo theo sự băng hoại ít nhiều trong sự thưởng thức văn nghệ. Đấy là tội lớn nhất đối với những người hướng dẫn, chỉ đường cho sự thưởng thức. Các nhà phê bình khi tự rời bỏ ngòi bút mình đã chứng tỏ họ thiếu hẳn vai trò công dân và tinh thần trách nhiệm đối với đông đảo bạn đọc trước sự phong phú, đa dạng và không thiếu sự bề bộn, loạn xạ các tác phẩm văn học đương thời. Đó chính là sự phê phán lớn nhất đối với các nhà phê bình khi họ từ bỏ thiên chức cao quý của mình đối với nền văn học nước ta".
Như vậy, Nguyễn Hiếu đã tìm ra nguyên nhân của tình trạng "hồng hoang, loạn xạ... sự băng hoại ít nhiều trong sự thưởng thức văn học nghệ thuật Việt Nam hôm nay là do các nhà phê bình đã từ bỏ "thiên chức", "thiếu hẳn vai trò công dân và tinh thần trách nhiệm đối với đông đảo bạn đọc", còn các nhà sáng tác thì vô can, vì họ "vẫn đi con đường của họ"! Vô cớ gán cho các nhà phê bình vai trò "bố hờ mẹ hão làm cảnh" cũng tức là Nguyễn Hiếu cũng tự chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về vai trò của phê bình.
Phê bình có mặt trong đời sống văn học không nhằm "làm cha" hay "làm mẹ" của ai, nó là "sự phán đoán, bình phẩm, đánh giá và giải thích tác phẩm văn học, đồng thời kèm theo việc phán đoán, bình luận, giải thích, đánh giá những hiện tượng đời sống mà tác phẩm nói tới. Phê bình văn học được coi như một hoạt động tác động trong đời sống văn học và quá trình văn học (xin nhấn mạnh - NH), như một loại sáng tác văn học, đồng thời còn được coi như một bộ môn thuộc nghiên cứu văn học" (150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân biên soạn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, bản in lần thứ hai, H. 2003, tr. 259).
Vì vậy với tư cách nhà văn, Nguyễn Hiếu hãy cố gắng xứng đáng là "người cha chân chính" cho những "đứa con tinh thần" của ông, và nếu sau khi những đứa con đó ra đời, lỡ có "ốm đau sài đẹn" góp phần làm phức tạp thêm sự nhiễu loạn của văn học, thì nên trách chính ông chứ không nên "văng mạng" trách cứ các nhà phê bình.
Cuối cùng, tôi muốn gửi tới ông một lời khuyên chân thành rằng tình trạng hiện tại của phê bình quả là có nhiều điều đáng để phê bình, nhưng phê bình như thế nào lại cần phải đáp ứng những yêu cầu không thể bỏ qua.
Nếu có thiện tâm với tương lai của phê bình văn học, thì chỉ nên công bố những gì thật sự hiểu biết và được luận chứng một cách cẩn trọng. Còn nếu không, sẽ chỉ góp phần đẩy phê bình văn học vào tình trạng ngày càng thêm khủng hoảng mà thôi!
NGUYỄN HÒA
(Nguồn: Bàn phím và … “cây búa”. Tiểu luận, phê bình của Nguyễn Hòa)

No comments:

Post a Comment