Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về
Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành
ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, trầm hùng vô uý khi biết mình đang giáp mặt với
thập tử nhất sinh. Một mình lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường
dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Tô Đông Pha Những Phương Trời
Viễn Mộng* hỡi Giấc Mơ Trường Sơn** rờn máu lệ ngậm ngùi ?
Cuộc lữ khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe
đồng vọng những trận gió phong trần tận chốn miền thiên thu vạn đại vi vu thổi
tới :
Nghìn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Đan sa rã mộng phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh
Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói
tới trong lời tựa Vô Môn Quan*** : “ Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư
ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng
của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt
đất một cách trầm trọng đau thương, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy
hồn :
Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Nghe tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại
chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường giữa cuộc vô
thường dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách, khiến cho nhà thơ phát
tâm đại nguyện yêu thương nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ âm thầm :
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao
1
Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không
bao giờ nói mình yêu thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực
nhất. Phải chăng chỉ có những tấm lòng Bồ Tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện,
vô phân biệt như vậy ? Một tình yêu rộng rãi Đại Bi Tâm nhập diệu, kết tinh
thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút núi sông, rừng biển,
đất trời :
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông phương
Bản tình ca ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt
trên những dặm dài long đong lữ thứ giữa những chuỗi ngày lênh đênh bên ghềnh
suối truông ngàn Vạn Giã hoang vắng tịch liêu, tiều tụy nỗi u hoài :
Anh chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy
Ôi hạnh phúc anh thấy mình nhỏ bé
Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
Em ở đây là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời vốn dĩ lao đao khổ
lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ
bày cách đây gần ba nghìn năm rồi. Giống như đại văn hào Hermann Hesse phát
biểu : “ Dù bị đau đớn quằn quại tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này.”
Nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng thương yêu con người, dù kiếp
người có tàn xiêu hiu hắt :
Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn lửa tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh
Một hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh
rờn, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà
cảm thương một nỗi u sầu xót xa vô hạn :
Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa ?
Người không đi sông núi có buồn đi ?
Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa
Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
Sầu khúc thê lương kéo dài suốt mười lăm năm trường đọa đày
viễn mộng như lời thơ tiên tri thấu thị trước cuồng phong bão tố phủ trùm xuống
mịt mù u tối :
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai như ánh chớp mây chiều
“ Như sương mai như ánh chớp mây chiều ” Một câu thơ làm
bay dậy âm vang sấm sét, mặc như lôi trong kinh Kim Cang làm phấn chấn bất khả
tư nghì :
2
Tất cả pháp hữu vi
Như huyễn mộng bọt nước
Như ánh chớp sương mai
Thường quán tưởng như thị.
Khi thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, thấy tất cả vạn
pháp như mộng huyễn thì hoát nhiên hiển lộ một phương trời Tự Tánh thanh tịnh
nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên
đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc
thê lương trở thành “ Bản tình ca vô tận của Đông phương ” hay biến thành Những
Điệp Khúc Cho Dương Cầm**** thâm thúy dưới ngàn trăng :
Ồ ! Nguyệt quế trắng mờ đôi mắt
Ồ ! Sao Em sao ấn mãi cung đàn ?
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất
Xưa yêu Em xao động trăng ngàn
Từ xưa đến nay vẫn cung cầm Đại Bi Tâm trầm lặng ngân rung
trên cung bậc thượng thừa Bất Nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung
Trên ngõ về cố quận, bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm
Công Thiện, một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ : “ Anh không thể cảm
thơ người ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca
ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có
những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai
cả.”
Bắt chước Phạm Công Thiện, người viết cũng muốn ca ngợi tán
thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy
nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung
chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa diệu thường ra khắp vũ trụ mười phương
rồi.
Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước
Cố quên mình là thân phận thần tiên
TÂM NHIÊN
* Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng. Tái bản
lần thứ ba. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn. 2008
** Tuệ Sỹ. Giấc Mơ Trường Sơn. An Tiêm xuất bản. Paris 2002
*** Vô Môn. Vô Môn Quan. Trần Tuấn Mẫn dịch. An Tiêm xuất
bản. Sài Gòn 1972
**** Tuệ Sỹ. Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm. Nhà xuất bản
Phương Đông. Sài Gòn 2009
No comments:
Post a Comment