Trang

Sunday, December 16, 2012

NHÀ THƠ NGUYỄN HUY HOÀNG VÀ CÔ CON GÁI BÉ BỎNG, HỌC XUẤT SẮC NHẤT TRƯỜNG PHỔ THÔNG 222 CỦA MATXCƠVA, ĐẸP NHƯ THIÊN THẦN BỖNG NHIÊN LƯU LẠC

Chính vào những năm định mệnh đó, tai họa ập đến. Cháu được gửi đi cùng với một gia đình người bạn đến nghỉ mát ở bãi biển Sochi, miền Nam nước Nga, rồi mất tích ở đấy. Cả hai vợ chồng anh bỏ hết cả công việc, sự nghiệp để bủa đi tìm con.Và bằng một niềm tin thiêng liêng, mãnh liệt, Nguyễn Huy Hoàng tin rằng cháu vẫn đang còn sống, hiện cháu đang ở đâu đó và sẽ có ngày hội ngộ. Không trừ một tỉnh nào trên đất Nga mà anh không có mặt. Anh còn nhờ bạn bè người Việt người ngoại quốc tìm manh mối trên khắp các nước thuộc Liên bang hoặc các nước Âu, Á lân cận.

NGUYỄN HUY HOÀNG – TÌM CON, CHĂM BẠN, LÀM THƠ
Cái tên Nguyễn Huy Hoàng đi vào đời sống văn chương đất nước theo cách “Vua biết mặt chúa biết tên” hơi muộn, mặc dù gần hai chục năm trước, anh đã ra đời tập thơ đầu tay và nhận giải nhất ký của Báo Văn nghệ trẻ.
Còn câu chuyện Nguyễn Huy Hoàng, bố của đứa con gái 12 tuổi, bị mất tích ở Nga từ những năm 90 của thế kỷ trước thì hầu như ai cũng biết, khắp thế giới bao người biết đến. Biết để rồi thương đứa bé, thương vợ chồng anh. Một đứa bé gái bé bỏng, học xuất sắc nhất trường phổ thông 222 của Matxcơva, đẹp như thiên thần lại bỗng nhiên lưu lạc. 
Sau khi cháu lạc được ít ngày, tóc Nguyễn Huy Hoàng bạc trắng xóa; còn vợ anh  thì lâm bệnh, nằm liệt suốt ba năm. Anh chối bỏ bao nhiêu lời mời với những cương vị công tác hấp dẫn từ trong nước để ở lại nước Nga đau đáu chờ con.
Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng
Ôi, chẳng máu mủ ruột rà gì, mỗi lần nghĩ đến Nguyễn Huy Hoàng, lại nghĩ đến chuyện này, cứ thấy buốt trong ngực…

1.Bơ phờ vì bạn thân sơ
Nhìn đám bạn văn chương trong nước, có một số giao du bạn bè tơi bời trong Nam ngoài Bắc, trong nước ngoài nước, người ta lẫn người tây, thấy đã khiếp. Sang Mát, gặp Nguyễn Huy Hoàng, lại càng khiếp hơn. Hoá ra, có lắm bạn bè cũng khổ. Trăm nghe không bằng một thấy, chỉ nội chục ngày tôi ở Mát mà đã chứng kiến nguyễn Huy Hoàng phải ra sân bay bốn năm lượt. Ra đón, lo tìm chỗ ở, dẫn đi tham quan, mua đồ lưu niệm, tiễn đưa, và rồi lại đón. Cứ thế, người không phát ốm cũng là may.
Mà xin mở ngoặc, những việc đó hoàn toàn không hề có công xá, bổng lộc gì. Đấy là chỉ vì mỗi cái tình thôi. Sang Nga được gặp Nguyễn Huy Hoàng là một cơ may. Anh chu đáo lạ thường. Ngay từ những bức thư đầu tiên trước khi rời Hà Nội, anh căn dặn từ việc chuẩn bị, đường đi lối lại, ghi các số điện thoại cần thiết và bao giờ cũng sắm sim điện thoại và nộp tiền cho đủ dùng liên lạc.
Hôm tôi đang được Nguyễn Huy Hoàng tháp tùng đi thăm thú loanh quanh một số địa chỉ văn hóa - lịch sử tại Mát, Châu Hồng Thủy, người bạn của tôi vừa rời Mát đi tư tác ở một tỉnh xa, gọi điện về dặn dò: “Chú đi với Nguyễn Huy Hoàng, chuyện mua vé, ăn uống thì chủ động lo, đừng để Hoàng trả tiền nhé. Ông ấy không có tiền đâu. Mỗi năm ông ấy đưa đón hàng chục đoàn, tiền nong làm ra chả được là bao, đem đi đãi đằng không đủ, toàn sống nhờ tiền bà vợ đi phiên dịch”.
Vâng, tôi có biết điều này và ý định đi đâu sẽ chủ động trả, không để Nguyễn Huy Hoàng phải lăn tăn. Nhưng Nguyễn Huy Hoàng “hách dịch” lắm. Hôm đó đi chơi cùng, ăn trưa xong thấy tôi rút tiền trả, Hoàng thẳng thừng gạt tay ra :‘Hôm nay là ngày của chú em đưa đi, để chú nó lo”. Chú em ấy chính là một ông chủ doanh nghiệp trẻ thành đạt ở Mát, có trong tay hàng chục nhân công, vợ con chưa có, rất nể trọng Nguyễn Huy Hoàng.
Càng về sau, tôi càng mới biết: ông Hoàng chả bao giờ có tiền, nhưng ông ấy có cái uy của người trí thức, của một nhà thơ, nên được anh em người Việt quý nể. Mỗi lần phải tiếp khách khứa Việt Nam sang, Hoàng thường “điều” các chú - những chú em chủ doanh nghiệp giỏi giang đứng ra đón tiếp. Vâng, anh tạo điều kiện cho các chú cái vinh dự được đón tiếp, nhân đấy các chú được tiếp xúc với những tao nhân, mặc khách coi như là một sự khai trí, giao du kết bạn, như thế chả nhất cử lưỡng tiện ư?
Thấy Châu Hồng Thủy bảo: nhà Hoàng chất đống túi to túi nhỏ những quà là quà từ khách khứa Việt Nam mang sang cho. Mà nào quà có to tát gì, toàn những là bánh đậu xanh, mứt sen, chè Thái, café Trung Nguyên... Lặt vặt vậy thôi. Ăn uống làm sao được. Nhà chỉ có hai vợ chồng với đứa con gái út, bản thân thì bệnh gút phải kiêng khem. Thế là anh cứ chất trên xe ô tô (anh gọi vui là chuồng gà di động), gặp ai cho nấy, tiện đâu cho đấy.
Tôi lại lẩn thẩn nghĩ: thế ngộ nhỡ có thằng bạn nào nó làm ăn khấm khá, nó thương, nó nhờ việc đưa việc đón, nó lại quẳng cho anh vài nghìn đô tiêu vặt thì cũng tốt chứ sao. Đem ý nghĩ đó hỏi Hoàng, anh cười: “Bạn mình toàn nghèo thôi, những đứa giầu, họ có trang lứa của họ. Kình nghê vui thú kình nghê/Tép tôm thì lại vui bề tép tôm".

Nhưng mà vẫn có người sẵn lòng cho anh thật. Tháng 7 này Hội Doanh nghiệp ở Nga có đoàn đi Mỹ, nghe đâu mỗi suất nộp tới 7000 USD. Có một doanh nghiệp gọi điện mời Hoàng đi và sẵn lòng bao cho một suất. Hoàng cảm ơn từ chối ngay, với lý do là xét thấy bản thân mình không ăn nhập gì với công việc của doanh nghiệp! Cứ thế đấy, đã là người tự trọng  thì cũng đành phải chấp nhận...thiệt thòi.
Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng và bạn bè
2.Ông đồ xứ Nghệ giữa Mạc tư khoa
Cái trí nhớ của Hoàng thật đáng nể. Trước khi đi đến đâu, di tích, danh lam thắng cảnh nào, anh nói vanh vách về từng chỗ. Trên đường, nhìn thấy nhà thờ nào, bức tượng nào (mà ở Mát thì lắm tượng lắm, toàn tượng danh nhân, nho nhỏ thôi, không hoành tráng như ở Việt Nam ta, nhưng mà đẹp và sống động vô cùng), công trình kiến trúc nào, nhà hàng nào… anh cứ thuyết minh làu làu. Nó được xây dựng từ bao giờ, do ai thiết kế, đến năm nào thì bị phá đổ, năm nào xây lại, năm nào trùng tu, tiếng Nga của nó nghĩa là gì, nó có cái gì đặc biệt…Nghĩa là như một từ điển sống di dộng. Tôi thầm nghĩ: lão này chẳng qua phải dẫn khách đi nhiều, người ta hỏi buộc phải đọc, phải tìm hiểu, nói nhiều lần thì phải nhớ, vậy thì có hơn gì một tay guide chính hiệu…
Nhưng sau mấy lần gặp, tôi biết mình nhầm. Có thể những tri thức vụn vặt thì cái anh hướng dẫn viên nào cũng ít nhiều nhớ được, chứ về cái khả năng phân tích, cắt nghĩa đâu ra đấy và sắc sảo như Hoàng thì phải có cái đầu thật thông tuệ. Anh có thể đọc thuộc lòng Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, cả tập Tục ngữ, Ca dao, dân ca Việt Nam, thậm chí thuộc Nhật ký trong tù bằng chữ Hán...Tôi hỏi sao anh biết lắm thứ thế, anh bảo: “Thì cũng do đọc và nghĩ mà ra cả". Anh khoe tôi, anh đang cùng với Giáo sư A. Xôcôlov viết một Amanach "Nước Nga trong lòng bàn tay" sẽ xuất bản ở Hà Nội cuối năm nay.
Nguyễn Huy Hoàng được đào tạo học hành căn bản từ trường Chuyên Văn từ nhỏ, lại sinh ra trong một gia dòng tộc có truyền thống khoa cử, văn chương, có tới ba nhà thơ của dân tộc trong một nhà: Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ.
Sau khi được giữ lại khoa Văn học – ĐH Tổng hợp chừng hơn chục năm, vào quãng năm 90, anh đi làm nghiên cứu sinh về văn học Nga tại một ngôi trường danh tiếng – ĐH tổng hợp mang tên Lomonoxov (gọi tắt là trường MGU). Cả hai vợ chồng cùng làm nghiên cứu sinh ở cùng một Khoa, một Trường. Luận án của anh đã được bảo vệ hạng xuất sắc. Cứ đường đường chính chính ra, anh sẽ trở về nước, sẽ có một vị trí trong xã hội, sẽ đào tạo các thế hệ học trò, sẽ hướng dẫn thạc sĩ, tiến sĩ, sẽ được phong Giáo sư, nghĩa là mũ mãng cân đai đủ cả. Cho đến nay , anh đã là tác giả của 7 tập thơ, hai tập truyện ngắn, hai tập Giáo trình giảng dạy, một tập chuyên luận về Gogol dày hơn hai trăm trang và hàng trăm bài báo.
Chính vào những năm định mệnh đó, tai họa ập đến. Cháu được gửi đi cùng với một gia đình người bạn đến nghỉ mát ở bãi biển Sochi, miền Nam nước Nga, rồi mất tích ở đấy. Cả hai vợ chồng anh bỏ hết cả công việc, sự nghiệp để bủa đi tìm con.Và bằng một niềm tin thiêng liêng, mãnh liệt, Nguyễn Huy Hoàng tin rằng cháu vẫn đang còn sống, hiện cháu đang ở đâu đó và sẽ có ngày hội ngộ. Không trừ một tỉnh nào trên đất Nga mà anh không có mặt. Anh còn nhờ bạn bè người Việt người ngoại quốc tìm manh mối trên khắp các nước thuộc Liên bang hoặc các nước Âu, Á lân cận.
Anh đành ở lại nước Nga, nơi gắn bó với cuộc đời anh, cũng là nơi anh gánh chiụ bao nhiêu cay đắng. Anh chị ở lại cốt để tìm con, để hy vọng có một manh mối nào đó, để mong một phép nhiệm màu.
Ở lại thì phải đối mặt với mưu sinh. Nguyễn Huy Hoàng không biết làm ăn kinh tế, chỉ có mỗi khả năng viết lách và đối ngoại. Cũng có một lần anh vào làm chân văn phòng cho công ty người Việt, nhưng thu nhập chẳng đáng là bao. Rồi đành trở về nghiệp bút sách. Làm chức cộng tác viên khoa học trước đây còn có tiêu chuẩn nhà cửa, nhưng sau này, thì các thứ gọi là chế độ xa xưa, cũng không còn nữa.
Tôi biết anh khó khăn, ở nhà thuê, mà nhà bên Mát thì kinh lắm. Mỗi tháng không có hơn nghìn đô trả tiền cho căn hộ thì coi như bị đẩy ra đường.
Tôi chưa được gặp người vợ, đầu tàu kéo cả gia đình Hoàng. Biết chị cũng là Tiến sĩ Ngữ văn, gầy yếu, chịu bao nhiêu thử thách của cuộc sống, hàng ngày đi làm từ mờ sáng đến 9 giờ tối mới về để lo cho cuộc mưu sinh. Trong khi đó một ông chồng vô tích sự ngồi đọc mỗi ngày hơn chục tiếng, vác tù và cho hàng tổng, không làm ra một xu nào. Bằng vào tất cả những gì cảm nhận, tôi hình dung chị ấy là người đàn bà can trường lắm, và can trường nhất là đã chịu đựng được Nguyễn Huy Hoàng một cách…phi thường.
Cứ thế, bao nông nỗi u buồn khốn khổ anh đều trút vào những trang thơ. Với ai không biết, nhưng với Nguyễn Huy Hoàng, anh thực là một hiện thân tiêu biểu của câu thơ Phùng Quán: “Có những phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”. Anh đã vịn vào thơ để đi qua bao đêm đông trắng tuyết, đi qua bao cô độc, nhọc nhằn, khốn khó xứ người…
Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng ra mắt tập thơ Một thời tôi từng có
3.Cháu Quỳnh Nga rồi sẽ  trở về
Cháu mất tích vào mùa hè năm 1993. Ngắm cái ảnh bé mặc váy trắng, áo  thêu, đứng giữa vườn hoa, trông ra dáng thiếu nữ, xinh ơi là xinh, càng ngắm càng nhói buốt...
Thì ra anh đi khắp đó khắp đây, có cơ hội là đi, anh đi các nước châu Âu, châu Á, anh còn sang cả Mỹ cũng là hy vọng lần ra manh mối đứa con yêu. Toàn bạn bè thân quý, thương anh nên tạo điều kiện cho anh đi. Đi công việc thì ít, mà đi vì con gái thì nhiều. Nghe kể: có lần nhận được thông tin, có người hẹn Nguyễn Huy Hoàng vào giờ ấy, ngày ấy, điểm hẹn ấy, phải nộp một số tiền lớn để chuộc con gái về. Anh chị vô cùng khấp khởi. Loan tin bạn bè trong và ngoài nước Nga, chỉ sau vài ba ngày, bạn bè đã lo cho anh đủ số tiền lớn ấy. Nhưng rồi đó chỉ là một tin bịa! Thật ác độc. Họ chơi trò đó để làm gì?...
Thơ anh đều chủ yếu do bạn bè tài trợ in ra. In xong rồi đem tặng cho hết bạn bè các nước, cho khắp cộng đồng người Việt ở Nga, ở các nước Á Âu khác. Tặng càng nhiều càng tốt. Không biết bao nhiêu cho đủ. Dường như đó là một thông điệp để anh nói to với nhân thế rằng: “Có ai biết con gái Quỳnh Nga của tôi ở đâu không thì mách giùm?”, rằng biết đâu tập thơ lại rơi vào tay Quỳnh Nga thì nó còn biết cha mẹ đang thương đang mong nó lắm, rồi biết đường mà về…Thơ anh từng viết:
Đạo nhà ăn ở hiền lương
Gió sương sẽ tạnh, đoạn trường sẽ qua
Rồi điều rủi hạn phôi pha
Phúc đâu, phận đấy, con xa lại về…
Nhiều câu thơ anh dành cho con đau buồn hơn thế nữa tràn lan khắp các tập thơ mà anh đã từng xuất bản.
Người ta thuộc thơ Hoàng rất nhiều. Một hôm, anh bạn khác của tôi dẫn tôi vào Rư-Bắc, một Ký túc xá của người Việt có đến gần nghìn con người sinh sống. Thấy dăm bảy người đang tụ bạ uống bia. Biết tôi là nhà văn, họ mời tôi nhập bọn cùng. Trong lúc phê phê, câu chuyện văn chương dần mặn lên, họ đọc thơ Hoàng. Có một anh trông rất bặm trợn, đầu cạo trọc, nói giọng Huế, làm ăn từ tỉnh khác về chơi, kể cho tôi nghe vừa hôm mới đây anh tổ chức giỗ bố, tự nhiên anh nhớ tới hai câu thơ của Hoàng: “Chiều giỗ bố bày mâm lên cánh tủ/ Chiếc cốc con đổ gạo cắm hương thờ”. Tôi thấy giọng đọc anh run run, gương mặt thật xúc động, tự nhiên tôi thấy quý nể anh biết bao nhiêu. Tôi được biết, trong cộng đồng người Việt ở nước Nga và ở nhiều nước khác, có nhiều người thuộc thơ Hoàng. Họ tìm thấy ở thơ anh điều họ hằng cảm nghĩ, những vui buồn mà họ nếm trải xứ người. Thơ Hoàng, về căn bản, chính là sự lên tiếng của những tâm hồn xa xứ...Lạ lắm, có những người thuộc làu hàng trăm bài thơ của Hoàng. Tôi nói với anh, trong tư cách nhà thơ, anh đã là người hạnh phúc.
Tôi là người làm nghề phê bình văn học, cảm thấy thật chẳng đành lòng nếu lấy cái tư cách phê bình để viết về thơ Nguyễn Huy Hoàng, dù chỉ một dòng. Thơ đối với anh, từng bài thơ, từng câu thơ là nước mắt, là tiếng khóc, và cũng là chỗ vịn giúp anh trụ lại với đời.
           Đã chớm lạnh cơn mưa đầu tháng chín
           Gió thay chiều, đổi hướng những hàng cây
           Rồi băng giá sẽ phủ đầy sông vắng
           Con ở đâu trên cõi nước Nga này?
Tình cha con trong Nguyễn Huy Hoàng thật thống khổ và vĩ đại!
Nhà văn Văn Giá

No comments:

Post a Comment