Trang

Friday, December 14, 2012

NHÀ THƠ TRẦN MẠNH HẢO: TỪ CÁI ĐẸP ĐẾN LƯƠNG TRI

 “Thơ chúng ta gần đây cũng đang bị căn bệnh ưa tuyên ngôn, ưa nói lớn với những hình thức cách tân bề ngoài ồn ào, nào thơ mô-đẹc, thơ lập thể, thơ siêu thực… Có một thời thơ ta thực quá nên không còn là thực nữa. Có phải vì bao năm thơ chúng ta thiếu cái hư ảo nên gần đây một vài nhà thơ có vẻ tiên phong đang tìm kiếm lối diễn đạt đến mức tối nghĩa, đến bí hiểm như đánh đố người đọc.
Không ai chống lại sự tìm tòi hình thức mới cho thơ, nhưng nếu không khéo, với cách viết của một số nhà thơ cách tân chủ nghĩa, hóa ra lại thành bắt chước thứ thơ tây bí hiểm lập dị. Những nhà thơ Việt Nam tự dịch thơ mình ra tiếng Việt ấy, vô tình đã góp phần làm nghèo đi sự giàu có của tiếng nói ông cha. Ôi, cái phần mềm mại, dịu dàng, ngọt ngào, óng ả, rất dung dị nhưng cũng rất lịch lãm hào hoa của tiếng Việt giờ ở nơi đâu trên trang thơ của những nhà thơ hiện đại chúng ta?” (Trần Mạnh Hảo).
Nhà văn Nguyễn Quang Thiều và nhà thơ Trần Mạnh Hảo
Ngôn ngữ là tài sản quý giá nhất của một quốc gia. Trong hành trình lịch sử dân tộc, tiếng Việt đã phát triển tới đỉnh cao của nó. Nhưng gần đây, nằm trong sự xuống cấp của đời sống tinh thần đạo đức xã hội, tiếng Việt đang đứng trước những thử thách của vẻ đẹp và sự trong sáng vốn có của nó. Cái hồn của tiếng nói ông cha đang bị những tác động tiêu cực xã hội đe dọa tới mức báo động. Phần lớn trẻ em hôm nay không thích học môn văn trong nhà trường. Trong tiếng nói thường nhật của người dân, tiếng Việt nhìn chung đang bị dung tục hóa.
Trong một số tầng lớp cán bộ và trí thức, tiếng Việt phần nào đang có cơ bị chính trị hóa nếu không nói là bị quan liêu hóa. Ngôn ngữ trong đời sống, trong sinh hoạt thật chẳng khác gì ngôn ngữ trong các cuộc họp hay trong các cuộc chỉnh huấn. Tiếng Việt chừng như sắp nghèo đi trong manh nha hình thành một nền văn minh cán bộ. Người ta ưa cao giọng, ưa chỉnh ngay trong những đối thoại riêng tư hàng ngày. Báo chí nhìn chung ưa từ ngữ đao to búa lớn, đầy ắp những khái niệm kinh tế chính trị học, toàn những phạm trù, nguyên lý, luận điểm…
Trong văn học gần đây, nhất là trong tiểu thuyết, nhà văn chỉ cốt đặt vấn đề, cố sức nhồi nhét các ý tưởng với một cốt truyện rắc rối, giật gân mà quên béng đi tính thẩm mỹ của ngôn từ và hình tượng, quên đi trang sách của mình trước hết phải có văn cái đã. Một số nhà phê bình cũng chỉ nhằm phân tích chức năng nhận thức và giáo duc của cuốn sách mà hầu như bỏ qua cái rốt ráo của văn học là chức năng thẩm mỹ. Người ta đã đưa vào dạy cho học sinh nhiều bài văn, bài thơ rất ít nghệ thuật, chỉ cốt nhồi nhét vào đầu các em những ý tưởng chính trị của tác phẩm. Thành ra dạy văn trong nhà trường như vậy, làm sao có thể nâng cao thẩm mỹ của các em, giúp các em thấm cái hồn của tiếng Việt được.
Thơ chúng ta gần đây cũng đang bị căn bệnh ưa tuyên ngôn, ưa nói lớn với những hình thức cách tân bề ngoài ồn ào, nào thơ mô-đẹc, thơ lập thể, thơ siêu thực… Có một thời thơ ta thực quá nên không còn là thực nữa. Có phải vì bao năm thơ chúng ta thiếu cái hư ảo nên gần đây một vài nhà thơ có vẻ tiên phong đang tìm kiếm lối diễn đạt đến mức tối nghĩa, đến bí hiểm như đánh đố người đọc.
Không ai chống lại sự tìm tòi hình thức mới cho thơ, nhưng nếu không khéo, với cách viết của một số nhà thơ cách tân chủ nghĩa, hóa ra lại thành bắt chước thứ thơ tây bí hiểm lập dị. Những nhà thơ Việt Nam tự dịch thơ mình ra tiếng Việt ấy, vô tình đã góp phần làm nghèo đi sự giàu có của tiếng nói ông cha. Ôi, cái phần mềm mại, dịu dàng, ngọt ngào, óng ả, rất dung dị nhưng cũng rất lịch lãm hào hoa của tiếng Việt giờ ở nơi đâu trên trang thơ của những nhà thơ hiện đại chúng ta? Đâu rồi những Trồng Tràng thành lung lay bóng nguyệt, Long lanh đáy nước in trời hay Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo…?
Có thể nói không ngoa rằng, phần nào tiếng Việt trong đời sống và trên sách vở của chúng ta hôm nay đang có cơ bị xơ cứng. Vì vậy, hơn bao giờ hết, nhiệm vụ của văn học nói chung, của thơ nói riêng trong việc trả lại vẻ đẹp thuần phác nhưng rất sang trọng lộng lẫy của cái hồn tiếng Việt, trong chiều sâu văn hiến của nó là cần thiết và cấp bách.
Con người tư duy bằng ngôn ngữ. Mà thơ lại là sự kết tinh của ngôn ngữ và tư tưởng con người. Mỹ học Mác-xít trao vào tay nghệ sĩ nói chung, nhà thơ nói riêng cái thiên chức cao quý là khả năng tiên cảm mở đường. Nhưng thực tế chúng ta có được mấy phần trăm cái quyền được ghi trên giấy trắng mực đen ấy. Maiacốpxki, Bôrít Paxtecnăc đã làm đúng thiên chức của nhà thơ và đã phải trả giá. Trong quá trình đổi mới của đất nước, người làm thơ hơn bao giờ hết cần phải vươn lên cái đẹp của lương tri với cả tấm lòng nhân hậu và dũng cảm.
Qua ba chục năm chiến tranh, thơ phải tự biến thành phương tiện, thành vũ khí đánh giặc giành độc lập thống nhất Tổ quốc. Cái thành tựu của thơ cách mạng chúng ta chính là ở ý nghĩa chiến sĩ, ý nghĩa công dân của nó chứ chưa vươn lên được cái chiều sâu tư tưởng nhân bản lớn lao của con người. Đã đến lúc thơ không còn cần thiết phải biến thành phương tiện, thành sự minh họa cho từng giai đoạn cụ thể. Thơ chúng ta muốn có thành tựu ngang tầm thế giới cần phải trở về với tính mục đích của nó, phải biết tìm ra cái muôn đời trong những việc cần làm ngay.
Thơ chúng ta đang trăn trở đi từ cái đèm đẹp đến cái đẹp, từ sự thờ ơ quay mặt trước nỗi khổ của con người đến với lương tri.
Thơ chính là tuổi thơ của loài người còn sót lại. Nhưng thơ của chúng ta trên sách báo đa phần nghiêm nghị khô khan quá, già nua cằn cỗi quá trong khi nó chưa kịp trẻ, kịp thanh xuân. Từ bỏ sự phù phiếm, thơ trước hết vẫn là sự xúc cảm của tâm hồn, là vẻ đẹp đằm sâu của tiếng Việt. Người làm thơ cần phải tìm thấy dưỡng khí của mình trong hơi thở ông cha trong ca dao, trong Truyện Kiều mới mong hiện đại hóa được vòm khí quyển của nền thơ hôm nay.
TP. HCM., ngày 4/6/1988
TRẦN MẠNH HẢO

No comments:

Post a Comment