Trang

Monday, February 4, 2013

NHÀ PBVH NGUYỄN HOÀNG ĐỨC ĐỌC ĐỖ HOÀNG DỊCH CHINH PHỤ NGÂM


ĐỌC CHINH PHỤ NGÂM
(Bản dịch thơ mới của Đỗ Hoàng)
Nguyễn Hoàng Đức
Đọc Chinh phụ ngâm, bản dịch thơ mới của Đỗ Hoàng thấy rằng: - Đỗ Hoàng là một con người can đảm bậc nhất! Ngay cả câu Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt, một câu hay thế mà Đỗ Hoàng vẫn dịch lại. Nhưng cũng phải thấy Đỗ Hoàng đã làm một công việc đầu tiên của loài người là “ Phải đạp đổ người thầy đầu tiên cho dù là vỹ đại!”. Ngoài ra hai dịch giả là năm mươi năm mơi ( 50%-  50%)
Về Đỗ Hoàng, tôi nhận xét thế này:
Thơ cổ hiểu biết hàng đầu!
Thơ hiện đại cũng hàng đầu (Ở mức hiều biết chứ không phải sáng tạo). Nhưng hiểu biết, yêu thơ chìm đắm hàng đầu!
Nhiều nhà thơ Việt Nam hàng đầu chỉ ở sang tạo, chứ không phải hiểu biết.
Tôi nể Đỗ Hoàng về hiểu biết và làm thơ. Chỉ còn thứ ngoài ra là đối thoại.
Đỗ Hoàng ơi ! Xin dấn thân…. Có trèo vần không… (đoạn này có mấy chữ luận không ra) hay ngủ yên?. Ngủ yên là vô tích sự
Hà Nội  1 – 2013
N – H - Đ
   
Trích Đỗ Hoàng dịch Chinh phụ ngâm:

ĐỖ HOÀNG DỊCH CHINH PHỤ NGÂM
Tôi dịch Chinh phụ ngâm xong từ tháng 10 – 2011, định không công bố bản dịch của mình, vì bản dịch của Đoàn Thị Điểm hoặc Phan Huy Ích là bản dịch quá tuyệt vời. Bản dịch vừa sát nghĩa, vừa tài hoa, đã Việt hoá một cách tài tình mà có thế khó có bản dịch nào vượt được.
Nhưng rồi nghĩ lại mình dịch để mình hiểu thêm vẻ đẹp của tiếng Việt, rèn luyện vần điệu khi sáng tác thơ, cung cấp thêm thông tin cho bạn đọc. Điều này tôi nghĩ cũng chẳng có gì qua mặt tiền nhân. Vậy nên xin post lên để mọi người xem!
Hà Nội ngày 18 – 2 – 2012
Đỗ Hoàng
              
CHINH PHỤ NGÂM

(KHÚC NGÂM VỢ LÍNH)
(Bản dịch Đỗ Hoàng)


I
1- Cõi đất trời quay cuồng bụi gió, (1)
Phận má hường thương khó bao phiên! (2)
Cao xanh thăm thẳm giăng miền (3)
Ai làm nên nỗi đảo điên đất bằng? (4)
5- Trống Trường Thành ánh trăng náo động, (5)
Lửa Cam Tuyền cháy bỏng mây xanh (6)
Tuốt gươm việc lớn chín lần, (7)
Nửa đêm nhận lệnh tướng quân lên đường.
II
Ba trăm năm dân thường êm ấm, (8)
10- Áo lính này vật phẩm võ quan  (9)
Sứ thần cấp tốc truyền ban, (10)
Việc quân là lớn sá màng chuyện riêng.
Thân dũng sỹ cung tên mang vác, (11)
Buổi lên đường phó thác vợ con, (12)
15- Bóng cờ giục giã héo hon
Tiếng tiêu ngoài ải, nỗi hờn trong song. (13)
Chàng trai trẻ, con dòng tướng lĩnh, (14)
Bỏ sách đèn mưu tính việc binh. (15)
Một lòng dâng hiến anh minh,
20- Thước gươm quyết rửa tội hình Hung Nô (16)
Trai anh hùng nấm mồ da ngựa, (17)
Coi chết chóc nhẹ tựa tơ hồng! (18)
Theo quân xa biệt khuê phòng,
Vung roi cầu Vị, bềnh bồng gió Tây.(19)
25- Hói đầu cầu nước đầy xanh mướt,
Lối bên cầu cỏ mượt như tơ
Tiễn chàng lòng thiếp ngẫn ngơ,
Ngựa thuyền, thuỷ bộ bên bờ biệt ly! (20)
Dòng nước xanh sầu bi chẳng vợi,
30- Cỏ thơm tươi lại nối thêm buồn.
Dặn lời tay nắm lệ tuôn,
Bước đi mỗi bước sầu vương mấy lần.
Tình thiếp gửi trong ngần trăng sáng,
Dõi lòng chàng ngoài áng Thiên Sơn. (21)
35- Múa gươm tiễn chén rượu buồn  (22)
Cung tên nhằm thẳng vào đồn sói lang. (23)
Bắt Lâu Lan theo chàng Giới Tử (24)
Hàng Man Khê học cụ Phục Ba. (25)
Áo chàng ráng đỏ chói loà, (26)
40- Ngựa chàng cất bước như là tuyết bay. (27)
Tiếng nhạc ngựa chuyển lay tiếng trống (28)
Nước mắt rơi ướt bỏng bờ mi,
Buồn tênh cái lúc chia ly,
Chiến tranh kẻ ở người đi sao đành!... (29)

III

45- Hà Lương rẽ đường xanh mấy nẻo, (30)
Nhìn mặt nhau dạ héo như dưa,
Bên đường cờ xí phất phơ,
Càng trông, càng thấu thẩn thờ hồn mai.
Đạo quân trước chiếm đài trại Liễu, (31)
50- Ngựa chiến sau tuần tiễu Hà Dương (32)
Kỵ binh tiếp ứng lên đường,
Thuỳ dương biết thiếp đoạn trường này không? (33)
Bông mai rụng nảo lòng xa ngái,
Lính giết nhau máu tái lênh lang,
55- Trông mây, thiếp biết xa chàng,
Đoái sông, ngoảnh núi mơ màng phu quân!
Chàng mất dấu, mấy phần mưa gió,
Thiếp quay về vò võ phòng loan. (34)
Ngoái nhìn kỷ vật bàn hoàn, (35)
60- Non xanh mây lạnh, đa đoan não nề.
Chốn Hàm Dương trăm bề chàng nhớ,(36)
Nơi Tiêu Tương, thiếp cố vời theo. (37)
Hàm Dương cây cỏ vắng teo, (38)
Tiêu Tương mây khói, suối đèo buồn bơ! (39)
65- Cây Hàm Dương ngẩn ngơ nguồn cội,
Sóng Tiêu Tương vời vợi nghìn trùng.
Càng trông thăm thẳm mông lung,
Lưng trời ngăn ngắt, một vùng dâu xanh.
Dâu xanh trải như thành, như luỹ. (40)
70- Ai sầu hơn thiếp ý, lòng chàng.
Ai gây ra cuộc hỗn mang? (41)
Biệt ly đôi ngả, muôn vàn tang thương!

IV

Từ thuở chàng theo đường gió bụi,
Biết thân chàng lầm lủi nơi mô?
75- Xưa nay chinh chiến trận đồ, (42)
Tấm thân muôn dặm, nấm mồ táng đâu? (43)
Gió thổi rát thêm sầu mặt lạnh,
Dòng nước sâu, ngựa tránh chân xiêu.
Kê yên, gối trống sớm chiều, (44)
80- Màn trời, chiếu đất, trải nhiều đắng cay!
Bên Thành Luỹ, Hán nay chiếm đóng (45)
Thanh Hải đồn chật bóng Hồ Lang (46)
Một miền Thanh Hải thương tang. (47)
Núi cao máu rớt, suối ngàn lệ phơi!
85- Trên non xanh, tưyết rơi từng phiến,
Dưới lòng khe ẩn hiện hình ma,
Thương người áo giáp xông pha,
Nhớ về sầu nỗi quê nhà lạnh tăm!
Gấm vua ban tình thâm một thuở,
90- Gian nan càng rạng rỡ tài trai,
Bao miền viễn xứ ruổi dài,
Hết Hàm Dương lại ngược đài Tiêu Quan. (48)
Sương rơi lạnh cây ngàn điểm chốt,
Gió bụi khô mai một hình dong,
95- Lên cao trông sắc vân mòng,
Nỗi buồn này tự trong lòng buồn ra!

V

Chốn Đông Nam, chàng xa biền biệt. (49)
Chỗ giao tranh, thiếp biết nơi nao?
Đời trai gắn manh chiến bào, (50)
100- Chết chóc coi nhẹ bồng mao ngoài ngàn! (51)
Ân nghĩa chúa đã ban từ trước, (52)
Trải khổ nghèo, ao ước vinh thăng.
Non Kỳ lạnh lẽo treo trăng (53)
Bến Phì gió lửa mắc giăng lưới trời. (54)
105- Hồn lính chết tơi bời gió đánh, (55)
Mặt lính nhàu trắng lạnh trăng soi, (56)
Lính hèn phận cỏ, tôi đòi,
Có ai nào bỏ sức hơi gọi hồn! (57)
Bao cuộc chiến đầu non, cuối bãi,
110- Có ai qua van vái tình thương?
Chiến trường mấy kẻ hồi hương, (58)
Tướng Siêu tóc bạc như sương mới về! (59)
Nghĩ chàng trải sơn khê cách trở,
Ba thước gươm ngựa đỡ nhung yên. (60)
115 Sầu trong cỏ rả triền miên,
Lạnh lùng trăng tái tận miền quan san. (61)
Tiếng kêu vọng, thét vang đầu ngựa,
Trên thành cao dao rựa tên bay, (62)
Công danh cám dỗ nhường này, (63)
120- Nhọc nhằn vất vả chẳng ngày nghỉ ngơi.
Nỗi nhọc nhằn không lời ca thán,
Việc quân cơ năm tháng nào yên.
Biết ai gửi nỗi niềm riêng,
Thiếp trong rèm lạnh, chàng miền khói sương! (64)


VI

125- Trong rèm lạnh, thảm thương phận thiếp,
Ngoài cõi xa khốn kiếp thân chàng.
Tưởng là cá nước một đàn,
Biết đâu cách trở đôi đàng nước mây.
Thiếp nghĩ thân mình đây phận gái,
130- Chàng đã từng là phái Vường Tôn. (65)
Nam Bắc cách trở sóng cồn, (66)
Để người thức sớm trải hôm dãi dầu.
Khách phong lưu đứng đầu tuổi trẻ, (67)
Nét hào hoa suôn sẻ tình duyên.
135- Thương thay đôi lứa thuyền quyên,
Dặm nghìn xa ngái, hàn huyên được nào. (68)
Nhớ chàng xưa biết bao hào phóng, (69)
Bên thuỳ dương rợp bóng chim về.
Ngày nào chàng sẽ hồi quê? (70)
140- Cuốc kêu giục giã ngày về cố hương!
Cuốc than sầu, thảm thương oanh hót.
Trước lầu kêu, thảng thốt én bay, (71)
Nhớ chàng trung liệt lòng này.
Tuyết mai đã thấm những ngày gió giông.
145- Hỏi chàng thư ngày mong trở lại, (72)
Chàng hẹn hò khi hái đào hoa,
Giờ đào níu gió đông qua. (73)
Phù dung toá hoá sông xa hao gầy. (74)
Lại hẹn núi Lũng Tây năm ấy (75)
150- Suốt ngày dài, nào thấy tăm hơi.
Bướm tàn, thiếp búi trâm lơi, (76)
Để người đứng khóc, lệ rơi mưa dàn.
Chỗ thôn vắng, tiếng đàn réo rắc
Như là lời thầm nhắc đến chàng
155- Hán Dương cầu nọ hẹn sang, (77)
Ngày tàn, người vẫn mơ màng khói sương,
Gió hoang thổi tang thương vạt áo,
Giữa tầng không ảo nảo tấm thân.
Khóc than lệ rỏ trăm lần,
160- Hàn Giang dậy sóng chìm dần chiều hong! (78)

VII

Nhớ năm trước, thư mong chàng lại,
Năm này đây tin mãi chàng về, (79)
Tin đi, người chẳng hồi quê,
Hoa dương rụng rã, nảo nề rêu xanh. (80)
165- Rêu xanh rải chung quanh lớp lớp,
Mối bước đi trăm bước sầu tuôn.
Chuyện xưa nhắc lại thêm buồn.
Năm nay thư đến, tình suông nối lời.
Thư đã tới mà người chưa tới,
170- Trước rèm thưa mưa dội, nắng xiên,
Nắng xiên vàng võ mái hiên,
Hẹn mười lỡ chín mới nên nỗi này! (81)
Bấm đốt tay tính ngày cách trở,
Tiền sen này đã nở thành ba, (82)
175- Xót chàng ngoài cửa ải xa,
Thương sao lính thú Hoàng Hoa dặm dài. (83)
Người biên ải không ai thăm hỏi, (84)
Lính Hoàng Hoa trống trải khuê phòng,
Thân này tan nát nỗi lòng,
180- Thiếp này có phận như không có rồi! (85)
Lão thân chàng da mồi, tóc bạc, (86)
Con thơ chàng sửa khát đêm đêm,
Lão thân tựa cửa ưu phiền,
Con thơ mong bố vẫn biền biệt xa. (87)
185- Phụng cung thân như là trai giỏi (88)
Việc sách đèn, lời nói thay cha. (89)
Thiếp thân lo trẻ, chăm già
Nhớ chàng mấy độ cửa nhà vắng tăm!
Nhớ chàng hẹn trước năm đà quá,
190- Đến năm này cũng đã trôi xa,
Hai, ba, tới bốn năm qua.
Trăm nghìn vạn nỗi cho ra nỗi này.
Ước thiên lý tầm tay gần lại, (90)
Kể khổ đau, thiếp giải nỗi lòng.
195- Thoa cung Hán, thuở má hồng (91)
Gương Tần, lầu ngọc loan phòng thường soi. (92)
Ước gửi đến tận nơi chàng ở,
Cùng nhau bàn cho tỏ nguồn cơn,
Để chàng thấu nổi cô dơn
200- Linh thiên kỷ vật sớm hôm thiếp cầm! (93)
Nhẫn đeo tay tình thâm thuở bé, (94)
Ngọc cài đầu tuổi trẻ vui chơi.
Nhờ ai mà gửi tới nơi, (95)
Để chàng quý trọng tình người khi xa! (96)

VIII

205- Nhớ lúc này năm qua tin tới,
Nhưng năm này chờ đợi vắng tin.
Cánh nhàn ngỡ bức thư tình.
Sương rơi áo ấm một mình đệt may.
Chim hồng thư, gió tây cản lối, (97)
210- Thương chốn ngoài, mưa dội tuyết bay.
Tuyết bay lạnh lẽo nhường này.
Mưa đầu núi dội nỗi này ai cam?
Lạnh lẽo quá thêm càng gian khó,
Xót ngoài trời kiếp cỏ thân rơm,
215- Thư kia mấy chữ bờm khơm, (98)
Mấy câu bói toán cũng lờm lợp lay. (99)
Hoàng hôn đó mèm say cũng thể
Lui cui mò nào kể mà chi.
Mấy lần trăng khuyết, đêm đi. (100)
220- Lược gương, tóc lệch, tiếc gì hồng trang!
Từng dạo bước mơ màng trầm lắng,
Chốn khuê phòng im ắng buông rèm.
Ngoài rèm thước đã tin đem, (101)
Trong rèm đã có bóng đèn biết cho.
225- Đèn có biết, lý do nào biết.
Tự lòng này chỉ thiếp mới hay.
Lặng im càng nẫu nùng thay.
Nhìn đèn thấy ảnh hình này thêm thương!
Năm cánh trống đêm trường gà gáy. (102)
230- Tám chín lần liễu nảy cành tơ.
Sầu như biển thẳm vô bờ,
Một khắc bằng cả năm chờ đợi trông. (103)
Hồn phiêu dạt hương nồng gượng đốt,
Lệ rơi hoà thân một gương soi.
235- Căng tơ, lựa phím, nối lời, (104)
Cầm sắt loan phượng dám lơi ngón đàn!
Gió đóng hỡi, ý đang gửi đến, (105)
Tấm lòng vàng hiển hiện non Yên (106)
Non Yên dù chẳng tới miền,
240- Nhớ chàng dằng dặc muốn lên lối trời. (107)...

2 comments:

  1. Lực bất tòng tâm! Trong văn chương, không nên cưỡng cầu! Ráng dịch vài bài cổ thi ngăn ngắn cho "tới" cũng là bất hủ, hà tất...Cỡ Bùi Giáng mà còn "khóc ròng" trước bản dịch Trường hận ca của Tản Đà, cỡ Bùi Văn Nam Sơn còn biết ngã mũ trước Zarathoustra đã nói như thế của Trần Xuân Kiêm thì mới là những tấm gương đẹp trong duyên văn tự..,hà hà

    ReplyDelete
  2. HA..HA...HA...!
    MÈO MƯỚP KHEN MÈO KHOANG THÔI MÀ!

    ReplyDelete