Trang

Tuesday, July 16, 2013

BÀI HỌC NÀO QUA CÁI CHẾT CỦA TỪ HẢI?

Trong cuộc đời của con người, ta có thể mắc nhiều sai lầm nhưng "Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình" (Lời dạy thứ 5 của Đức Phật). Từ Hải đã "đánh mất mình", nghĩa là đã "tự chuyển hóa" từ người anh hùng "Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" thành một kẻ đớn hèn, đầu hàng kẻ thù. Sự đầu hàng diễn ra quá nhanh "Chỉnh nghi, tiếp sứ vội vàng/ Hẹn ngày thúc giáp, quyết đường giải binh" và "Việc binh bỏ chẳng giữ giàng" nên Hồ Tôn Hiến biết vậy mới lập kế mai phục giết chết Từ Hải.
Đọc "Truyện Kiều" của cụ Nguyễn Du, tùy theo góc độ nhìn nhận mà có người cho rằng cái chết của nhân vật Từ Hải là do sự xảo quyệt của Hồ Tôn Hiến gây ra: Kêu gọi "chiêu an" nhưng khi họ Từ đầu hàng về với triều đình thì cho quân mai phục giết hại. Có người lại cho rằng Từ Hải chết là do quá tin Thúy Kiều - người vợ yêu của mình. Có người lại căn cứ vào lời than của Thúy Kiều trước khi nhảy xuống sông Tiền Đường: "Rằng Từ công hậu đãi ta/ Chút vì việc nước mà ra phụ lòng/ Giết chồng mà lại lấy chồng/ Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời"; họ còn viện ngay hồn Đạm Tiên nói với Kiều "Một niềm vì nước vì dân" (câu 2719) để kết tội Thúy Kiều "vì việc nước" mà gây ra cái chết cho Từ Hải. Nêu ra ba cách đánh giá kể trên về một sự việc đều có cái lý của nó và nếu tìm nguyên nhân sẽ có bài học khác nhau.
Ở đây ta không bàn đến những nguyên nhân phụ mà cần tìm ra nguyên nhân chính, trên cơ sở đó rút ra được bài học chính cần thiết. Trước hết nói đến nàng Kiều, ta hãy nghe lại lời than của nàng và cả lời Đạm Tiên xem có đúng sự thật không? Lời than có hai vế: Vế 1 là "Từ công hậu đãi", vế 2 là "Chút vì việc nước" và chính "vì việc nước" mà đẩy Từ Hải vào bi kịch. Có lẽ vế 1 không cần phải chứng minh nhiều vì ai cũng rõ Từ Hải hậu đãi nàng Kiều ra sao. Còn vế 2 thì thế nào? Có người cho rằng cũng không cần phải chứng minh vì nàng Kiều là người trong cuộc, lại chính nàng nói ra, tự nhận mình "vì việc nước" mà vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Ta đang xem xét, kiểu xem xét một "vụ án", mà trong "vụ án" bao giờ cũng trọng "chứng" (chứng cứ, bằng cớ) hơn trọng "cung" (lời khai ra, lời tự nhận…). Nhiều vụ án, người tự thú, người nhận tội lại là người vô tội. Họ nhận tội thay hung thủ vì những lẽ riêng của họ. Các cơ quan pháp luật phải dựa vào "chứng" để tìm ra sự thật. Ở đây có khác một chút: Nàng Kiều không nhận tội thay ai mà là nói không đúng sự thật. Nàng có "vì việc nước" không? Hoàn toàn không! Này nhé: Nàng Kiều về với Từ Hải trong ánh hào quang rực rỡ "Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà", hoặc "Trước cờ ai dám tranh cường/ Năm năm hùng cứ một phương hải tần". Ở giai đoạn này ta thấy nàng Kiều chẳng có biểu hiện gì "vì việc nước" cả. Khi Hồ Tôn Hiến làm chước "chiêu an", kèm theo là thuyết hàng và "Lại thêm một lễ với nàng/ Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân" thì "nàng.. thật dạ tin người" và quan trọng đối với nàng là "Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu". Để cho chính xác, ta xem nàng "xiêu lòng" vì những tính toán gì? "Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân", "Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương", nàng nghĩ đến "Cũng ngôi mệnh phụ đường đường/ Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha"… v.v… Chẳng lẽ những "chứng" này là "vì việc nước"? Chẳng lẽ những "chứng" này là "vì nước vì dân" (lời Đạm Tiên)? Sự thật thế là rõ! Có người nhắc lại lời Hồ Tôn Hiến "Đã hay thành toán miếu đường/ Giúp công cũng có lời nàng mới nên" để nói rằng nàng cũng "vì việc nước" đấy chứ! Vâng, chi tiết nhỏ này xin để phần sau nói một thể. 
Còn bây giờ, từ những chứng cứ rõ ràng, một lần nữa ta khẳng định: Lời than ở vế 2 của nàng Kiều là không đúng sự thật. Vậy tại sao nàng lại nhận về mình cái không phải của mình? Đáng lẽ nàng phải than đúng sự thật: "Rằng Từ công hậu đãi ta/ Chút vì lễ vật, vì vinh hoa phú quý… mà ra phụ lòng" (xin lỗi cụ Nguyễn Du cho tôi được cải biên một chút). Nhưng nàng đã không dám làm thế vì làm thế thì khác nào tự xỉ vả mình, tự bộc lộ cái tính cá nhân của mình trước cộng đồng. Vì vậy nàng phải nhận "vơ" mà than "chút vì việc nước" cho "đẹp mặt" hơn, cho người đời dễ cảm thông hơn là "vì lễ vật, vì muốn vinh hoa phú quý" mà làm cho chồng chết. Nàng đã không dám nói sự thật. Từ Hải chết là ngoài ý muốn của nàng, nàng chỉ muốn "phú quý phụ vinh/ Ai ngờ một phút tan tành thịt xương". Cái chết bất ngờ của chồng đã làm cho nàng xúc động ghê gớm và nàng lại nhận "vơ" luôn là "giết chồng". Ta dễ thông cảm cho sự nhận "vơ" này và dễ thông cảm nỗi xót xa của tâm lý con người trong hoàn cảnh mà màng Kiều gặp phải. Tóm lại, qua phân tích, chứng minh trên, ta thấy nàng Kiều không "vì việc nước" và cũng không đẩy Từ Hải vào chỗ chết.
Thế thì ai đã đẩy Từ Hải vào bi kịch thảm thương? Ai? Để tránh kết luận hồ đồ, ta đành lần theo diễn biến của sự việc vậy. Trước hết cần xem Từ Hải đã bị tác động thế nào trước kế "chiêu an", thuyết hàng và lễ vật hậu hĩnh của Hồ Tôn Hiến? Người anh hùng vẫn rất tự hào: "Một tay gây dựng cơ đồ/ Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành". Từ Hải cũng nghĩ đến nỗi nhục nhã, sự bỡ ngỡ và lạc lõng khi "Bó thân về với triều đình/ Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu". Từ Hải đã khẳng định "Sao bằng riêng một biên thùy/ Sức này đã dễ làm gì được nhau". Chàng tỏ rõ ý chí không chịu khuất phục "Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!". Tóm lại: Từ Hải không hề mắc mưu Hồ Tôn Hiến, vẫn giữ được phẩm chất anh hùng chống bất công, ưa tự do. Ta cảm thấy một con người vững vàng như thế, khó có điều gì lay chuyển được. Nàng Kiều cũng biết vậy nên không hề nói đến vật chất, không hề khuyên Từ Hải về với triều đình. Nàng "đánh" vào điều cơ bản của người anh hùng là sự công bằng (triều đình bất công nên phải nổi dậy) và danh tiếng của một con người. Nàng nói đến công ơn của nhà vua thật sâu rộng: "Rằng trong Thánh trạch dồi dào/ Tưới ra dã khắp, thấm vào đã sâu/ Bình thành công đức bấy lâu/ Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao". "Ai ai" là số đông, là mọi người. Mọi người cung kính nhớ đến ơn vua. Điều đó nói lên sự công bằng mà triều đình đem lại cho họ, thế mà có người lại nổi dậy chống lại nhà vua, đem đến bao chết chóc cho người dân: "Ngẫm từ dấy việc binh đao/ Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu". Nàng đã gián tiếp lên án cuộc nổi dậy của Từ Hải và nhắc khéo cái gương nổi dậy của Hoàng Sào chống nhà Đường "Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào" làm cho Từ Hải phải nghĩ đến danh tiếng chẳng hay ho gì để lại cho đời sau mà chọn con đường về với triều đình, vừa đúng lẽ công bằng, vừa không gây chết chóc, lại được "lộc trọng quyền cao"… Kiều đã đánh trúng tâm lý người anh hùng nên phút chốc đang "Thế công, Từ mới trở ra thế hàng". Hãy khoan lên án nàng Kiều! 
Đến đoạn này xin nhắc lại "chi tiết nhỏ" đã nêu ở phần trên để giải quyết luôn. Để khẳng định sự vững vàng, sự không thay đổi, sự không chuyển hóa, sự không đánh mất mình, ca dao có câu "Dù ai nói ngả nói nghiêng/ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân". Như vậy, người nói cứ nói, còn người nghe và làm theo hay không lại là chuyện khác. Một chàng trai tán tỉnh, tỏ tình với một cô gái. Cô gái đó nghe lời hay không là quyền quyết định của cô gái. Hồ Tôn Hiền cũng đã từng thuyết hàng Từ Hải. Mặc sự thuyết hàng, Từ Hải vẫn không hề lay chuyển, vẫn giữ vững phẩm chất anh hùng của mình. Khi nghe "nửa yêu thương" nói, Từ Hải đã bị lay chuyển, nhanh chóng từ "Thế công" "trở ra thế hàng".
Trong cuộc đời của con người, ta có thể mắc nhiều sai lầm nhưng "Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình" (Lời dạy thứ 5 của Đức Phật). Từ Hải đã "đánh mất mình", nghĩa là đã "tự chuyển hóa" từ người anh hùng "Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" thành một kẻ đớn hèn, đầu hàng kẻ thù. Sự đầu hàng diễn ra quá nhanh "Chỉnh nghi, tiếp sứ vội vàng/ Hẹn ngày thúc giáp, quyết đường giải binh" và "Việc binh bỏ chẳng giữ giàng" nên Hồ Tôn Hiến biết vậy mới lập kế mai phục giết chết Từ Hải. Có người cho rằng phải kết tội Hồ Tôn Hiến lật lọng, "chiêu an", thuyết hàng rồi mật phục giết người ta! Vâng, xem ra có lý đấy nhưng xin thưa: Binh pháp có câu "binh bất yếm trá" nghĩa là việc quân sự tha hồ dối trá. Như vậy cái chết của Từ Hải do ai gây ra? Do chính Từ Hải "đánh mất mình" đưa mình vào chỗ chết. Nếu không chết trên chiến trường (như đã xảy ra) thì cũng "chết" trong nhục nhã "Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?". Ngồi trong triều đình đấy, sống nhăn răng ra đấy, vẫn hít thở khí trời đấy nhưng còn đâu ánh hào quang lấp lánh của người anh hùng chống bất công, ưa tự do. Tóm lại khi đã "đánh mất mình", đã đớn hèn đầu hàng kẻ thù thì tất yếu cái chết sẽ đến theo đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Đấy là tấm gương mờ do "đánh mất mình" mà dẫn đến bi bịch thảm thương! Đối lập với tấm gương mờ đó, có tấm gương sáng nào không?Nhiều đấy! Ở thế kỷ XIII, quân Nguyên Mông bắt được một tướng của nhà Trần. Chúng thuyết hàng nhưng vị tướng của nước Đại Việt đó vẫn vững vàng thét lên: "Tao thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc".
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ngụy, biết bao người con ưu tú của dân tộc lọt vào tay giặc, mặc chúng tra trấn, đầy ải kêu gọi "chiêu hồi" nhưng những người con ưu tú đó vẫn giữ vững khí tiết, vẫn không hề "đánh mất mình", vẫn một lòng một dạ chiến đấu đến phút cuối cùng. Ngày nay trong cuộc sống hòa bình xây dựng đất nước, mọi người, nhất là các "đấng", các "bậc" có cần cảnh giác với sự "tự chuyển hóa" không? Càng cần và cần hơn bao giờ hết.
Người ta biết tham nhũng là xấu xa, người ta biết "ăn đất", "ăn" dự án, ăn… ăn… và "chạy" … chạy… là xấu xa, là đáng nguyền rủa nhưng thử hỏi mấy người nhớ đến chuyện xưa: Con Hồ Ly (con cáo) tu nghìn năm trở thành người, một cô gái đẹp nhưng vì tính dục cao độ nên bị lấy mất viên ngọc, lại trở về là con Hồ ly, phí cả nghìn năm tu luyện!
Nguyễn Duy Hiển
VNCA

No comments:

Post a Comment