Thật khó để khiến một căn phòng đông đúc các nhà văn đồng
thuận về bất cứ điều gì – loại rượu ngon nhất, vở kịch hay nhất của
Shakespeare, thời gian tốt nhất trong ngày để làm việc. Có lẽ, tín niệm duy
nhất mà các nhà văn bây giờ chia sẻ là: để có được những trang viết chất lượng,
bạn cần phải chỉnh sửa.
Nguyên tắc này xuất hiện ở
mọi nơi – trong các lớp học, trong những phòng biên tập tin tức, trong sách
hướng dẫn viết lách, và đặc biệt, trong những bài phỏng vấn các tác giả. “Tôi
đã viết đến 20 hoặc 30 bản thảo của cùng một truyện”, Raymond Carver có lần đã
nói với tờ The Paris Review, “Chưa khi nào ít hơn 10 hay 12 bản thảo.” Joyce
Carol Oates, nhà văn viết rất khỏe, khiến các tác giả khác phải lắc đầu, cũng
từng nói: “Tôi chỉnh sửa mọi lúc, mọi ngày.”. Ngay cả Jim Gaffigan – cây bút
hài kịch, tác giả của cuốn sách mới: Bố thì mập, gần đây đã cố thuyết
phục các thính giả của đài NPR: “hãy cứ quay lại và viết lại mọi thứ để khiến
nó sáng rõ”.
Dễ dàng giả định rằng,
những tác giả vĩ đại nhất trong lịch sử chính là những nhà biên tập vĩ đại
nhất. Nhưng điều ấy không phải bao giờ cũng vậy. Cách đây khoảng một thế kỷ,
theo nhiều nhà viết tiểu sử và phê bình, văn học phát triển với những bản thảo
viết tay, hầu như chỉ trải qua sự chỉnh sửa ở quy mô nhỏ.
Rồi mọi thứ thay đổi. Trong
một cuốn sách mới: Công việc chỉnh sửa, Hannah Sullivan, giáo sư ngôn
ngữ Anh ở Đại học Oxford,
cho rằng: việc chỉnh sửa theo như ta hiểu – ở đó, các tác giả, trước khi công
bố thứ gì, sẽ có vài tuần lược đi rồi lại thêm vào – là một sáng tạo của thế kỷ
20. Chỉ đến các nhà văn hiện đại có nhiều ảnh hưởng như Ezra Pound, T.S. Eliot,
and Virginia Woolf, hoạt động này mới trở nên thật sự cần thiết để tạo nên
những tác phẩm hay. Sullivan viết: Các tác giả ấy là những người đầu tiên
“chỉnh sửa một cách công khai, nhiệt tình, và ở nhiều chỗ trong suốt quá trình
tồn tại các văn bản của họ”.
Điều gì đã khiến những nhà
văn này đặt niềm tin vào việc chỉnh sửa như một bí quyết để có được những tác
phẩm văn học hay. Một phần, là do lý thuyết của Chủ nghĩa hiện đại – cho rằng:
một tiểu thuyết hay bài thơ cần phải thách thức độc giả, đoạn tuyệt với truyền
thống, và, theo từ ngữ của Pound, “làm mới nó”. Nhưng Sullivan, người thuộc
trào lưu các nhà nghiên cứu mới, nỗ lực tìm hiểu văn học thông qua những thực
tại lịch sử và vật chất của quá trình sáng tạo ra nó, nhận thấy rằng: ý nghĩa
việc chỉnh sửa của chúng ta cũng được dẫn dắt bởi những thứ khác : đó là chiếc
máy đánh chữ.
Có thể là kỳ quặc khi nghĩ
rằng, chúng ta có được thứ văn phong cao cấp của Chủ nghĩa hiện đại (với ý
niệm: ngay cái nhan đề cuốn sách Bố thì mập bắt buộc phải điều chỉnh
lại) từ một cái máy đánh chữ. Tuy nhiên, cuốn Công việc chỉnh sửa đã gợi
ra: thứ ta viết thường chuyển thành cách ta viết. Việc chỉnh sửa cẩn thận không
hề có tính máy móc, ngay cả máy móc hữu ích. Và theo cách đó, khi công nghệ
chuyển đổi lần nữa, thì phong cách văn chương ấy có thể sẽ biến đổi sang hình
thức khác.
***
Điều đầu tiên khiến
Sullivan suy nghĩ về vấn đề chỉnh sửa là việc bắt gặp một bản thảo của Ernest
Hemingway, mà trước đó, bà chưa từng thấy. Khi là nghiên cứu sinh năm thứ nhất
ở trường Havard, Sullivan đã ghé Thư viện Tổng thống John F. Kennedy và tiếp
xúc kho lưu trữ về Hemingway ở đấy. Bà kinh ngạc trước những tư liệu của nhà
văn nổi tiếng – những bức thư của ông, những album ảnh gia đình ông, thậm chí,
cả những tấm vải đấu bò. Nhưng một thứ có ý nghĩa đặc biệt đối với bà: bản đánh
máy tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc của nhà văn. Nó cho thấy Hemingway đã thay
đổi đáng kể tác phẩm của mình từ bản đầu tiên đến bản sau này. Những độc thoại
biến mất, tất cả các chi tiết không còn, và ở phần kết, ông đạt tới một hình
thức tiểu thuyết súc tích, khó hiểu, đã trở thành một phần của điển phạm văn
học Mỹ. “Phong cách Hemingway mà ta đã quen thuộc, không có ở bản thảo đầu
tiên,” Sullivan nói, “Nó là một sản phẩm của sự chỉnh sửa”.
Phương pháp của Hemingway
gợi cho Sullivan nhớ đến phương thức mà T.S. Eliot gọt giũa tác phẩm Đất
hoang hết trang này sang trang khác trên bản viết tay, cho đến cuối cùng,
rút xuống còn 434 dòng thơ. Bà nhận thấy, những tác giả như thế có chung một
bổn phận sâu sắc đối với hiệu năng của sự điều chỉnh, và bổn phận này, tự nó,
đáng được nghiên cứu. Trong khi nhiều nhà nghiên cứu văn học tìm hiểu phương
thức các tác giả biên tập tác phẩm của chính họ, họ hiếm khi so sánh các nhà
văn với nhau qua các khám phá của mình, hoặc so sánh thời kỳ này với thời kỳ kế
tiếp. Bằng việc tiến hành những so sánh như thế, Sullivan nhận thấy: Các nhà văn
hiện đại là những người đầu tiên thực hiện những dạng thức chỉnh sửa như hiện
thời. Bà cũng biết được việc chỉnh sửa đóng góp như thế nào vào kỹ thuật viết
đặc biệt của họ. “Chúng ta thường cho rằng: phong cách bắt nguồn từ hư vô.” Bà
nói. “Tuy nhiên, phong cách được hình thành thông qua sự chỉnh sửa, và sự chỉnh
sửa này không phải là điều mà các nhà văn tiến hành một cách tự nhiên”.
Dĩ nhiên, sự điều chỉnh
không phải bắt đầu từ những nhà văn hiện đại, nhưng các vết dấu trên trang giấy
cho thấy: các tác giả đó, từ quá khứ xa hơn, đã làm việc này rất khác so với
cách chúng ta tiến hành ngày nay. Chẳng hạn, vào năm 1637, John Milton – nhà
thơ có lẽ là tinh tế nhất trong lịch sử ngôn ngữ văn học Anh, đã lấy một vài tờ
giấy và viết bản thảo đầu tiên của khúc bi ca nổi tiếng, Lycidas. Nhờ có
những bản viết tay hiếm hoi còn lại ở Cambridge, những chuyên gia về Milton
biết được rằng tác giả đã chỉnh sửa lại, gạch xóa những dòng thơ và các cụm từ,
rồi viết những dòng và cụm từ thay thế ở mép lề hay ở cuối trang giấy. Một bông
hoa “mà nỗi muộn phiền làm héo úa” trở thành một bông hoa “khoác nỗi muộn
phiền”. Nhưng ở phần lớn tác phẩm, Milton
đã lược đi nhiều chỗ, thay vì chỉnh lại thật nhiều tác phẩm của mình.
Phương pháp như vậy cũng áp
dụng với các nhà văn vĩ đại của chúng ta. Ben Jonson, nhà soạn kịch thời Phục
hưng, đã từng một lần nhận xét về Shakespeare là: “bất cứ thứ gì ông viết, ông
chẳng bao giờ xóa đi dòng nào”. Jonson có phần chế giễu sự sùng bái
Shakespeare, và dĩ nhiên, điều Johnson nói có thể đúng, với một cái tủ cũ ở đâu
đó chứa những bản thảo đã hoàn thiện của các vở kịch Shakespeare. Tuy nhiên,
điều ấy có lẽ không thể xảy ra. Trong thời đại của Shakespeare và Milton,
giấy là một thứ xa xỉ phẩm; gạch xóa đi vài dòng là một chuyện, nhưng chép lại
bản thảo từ các bản nháp sẽ là chuyện hoàn toàn khác. Các nhà văn cũng chẳng
chỉnh sửa trong suốt quá trình xuất bản. Việc in ấn diễn ra chậm chạp, lộn xộn,
và hiếm khi một nhà văn được nhìn thấy bản in thử tác phẩm của mình – đó là,
một bản in mẫu văn bản tác phẩm, sắp đặt giống một cuốn sách – và nhà văn phải
đích thân tìm đến nơi xuất bản, chẳng hạn như ở London.
Tất cả các yếu tố đó cho
thấy: việc chỉnh sửa không phải là điều diễn ra trên trang giấy. Chắc chắn,
suốt thế kỷ 19, các nhà văn lãng mạn đã biến việc cưỡng lại sự chỉnh sửa trở
thành một phẩm tính. Họ tin rằng, thứ văn chương tuyệt vời bắt nguồn từ những
hoạt động sáng tạo đầy bản năng và tự phát. “Tôi giống như con hổ (theo nghĩa
thơ ca),” Byron viết trong một bức thư. “Nếu tôi nhớ mùa xuân đầu tiên – Tôi
gầm gừ trở lại khu rừng của mình. Chẳng có lần thứ hai. Tôi chẳng thể thay đổi
được nữa.”.
Nhưng rồi mọi thứ sớm thay
đổi, với những nhà văn như Hemingway và Eliot, họ luôn yêu cầu không phải là cơ
hội lần hai, mà là lần thứ ba, thứ tư, thứ năm. Sullivan biện luận rằng, sự
thay đổi này, phần nào được quy định bởi những lý thuyết mới về một tác phẩm
hay. Các nhà văn hiện đại muốn kiến tạo nền văn học cách tân – văn học giảm
thiểu tính tự phát và đam mê so với tính bất ngờ và mơ hồ. Trong một cuộc phỏng
vấn cho tờ Paris Review, Hemingway mô tả rất hay “nguyên lý tảng băng trôi” của
ông: “Có bảy phần tám của nó chìm dưới nước cho một phần nổi lên. Bất cứ thứ gì
bạn biết, bạn có thể xóa đi và điều đó sẽ làm kiên cố thêm tảng băng của bạn”
Sullivan đề xuất một lý do
nữa của sự thay đổi này, đó là sự chuyển đổi trong công nghệ ấn loát. Vào năm
1850, Vương quốc Anh sản xuất mỗi năm được 100.000 tấn giấy, đến năm 1903, con
số này đã tăng lên 800.000. Các thợ in bắt đầu xếp chữ bằng máy, vốn nhanh gấp
năm lần so với việc xếp chữ bằng tay, và cho phép những bản in thử dễ dàng được
chia sẻ và hiệu chỉnh. Trước đó rất lâu, các tác giả công bố tác phẩm của họ
qua một quá trình phức tạp và lâu dài: mới đầu là bản viết tay, sau đó là bản
đánh máy, rồi có lẽ là loạt bài đăng tạp chí, cuối cùng là các bản in thử tác
phẩm. “ Điều không thuận lợi cho sự chỉnh sửa với bản thảo viết tay là những
thay đổi về cấu trúc ở phạm vi lớn” Sullivan nói, “Một số nhà văn rút gọn tác
phẩm của họ đi rất nhiều, một số lại mở rộng thêm nữa”.
Trong tất cả những điều
này, công nghệ quan trọng nhất có lẽ là chiếc máy đánh chữ. Ngày nay, ta đánh
đồng bàn phím với tốc độ, cách nhanh nhất để gõ chữ, nhưng như Sullivan lưu ý
rằng, không phải lúc nào cũng như thế. Thực ra, những bản thảo đánh máy có khả
năng làm chậm lại. Hầu hết những nhà văn hiện đại, như Hemingway với tác phẩm Mặt
trời vẫn mọc, vẫn viết bằng tay rồi cẩn thận đánh máy lại bản thảo. Việc
này tiêu tốn nhiều thời gian, nhưng việc nhìn thấy tác phẩm của họ trong những
hình thức khác biệt như vậy – viết trong một quyển sổ tay, đánh máy trên giấy,
in thành bản mẫu – thúc giục họ chỉnh sửa nó một cách hăng hái. W.H. Auden
viết, “Dù ghét máy đánh chữ đến đâu, tôi cũng phải thừa nhận rằng nó giúp ích
cho việc tự phê bình. Bản thảo đánh máy có tính phi cá nhân và thật khó chịu để
nhìn vào nó, nếu tôi đánh máy một bài thơ, thì bỗng dưng tôi thấy những khuyết
điểm mà tôi đã bỏ sót khi tôi xem nó qua bản viết tay,”
Những thay đổi này kết hợp
lại để hình thành một cách tiếp cận thú vị và mới mẻ đối với việc hiệu chỉnh
văn chương. Hãy xem xét về Ezra Pound và bài thơ nổi tiếng của ông, Trong ga
tàu điện ngầm. Một ngày vào năm 1912, ông rời khỏi tàu điện ở Paris,
và như ông đã viết trong một tiểu luận sau này, “bỗng dưng thấy một khuôn mặt
đẹp, và rồi những khuôn mặt đẹp khác.”. Pound ngay lập tức viết, giống như một
nhà thơ lãng mạn thường làm, một bài thơ nắm bắt được “cảm xúc bất chợt” ấy.
Tuy nhiên, khi Pound hoàn thành bài thơ 30 dòng, ông cảm thấy không hài lòng.
Sáu tháng sau, ông lại cố gắng, sáng tác bài thơ ngắn đi một nữa so với bài thơ
trước, song cũng không thích nó. Cuối cùng, hơn sáu tháng nữa, ông hoàn thành
bản cuối cùng, một bài thơ hai câu: “Sự xuất hiện những khuôn mặt ấy trong đám
đông;/Những cánh hoa, trên nhành cây đen, ẩm ướt.” Nó thật giàu gợi mở, súc
tích và trữ tình.
Dần dần, văn phong cao cấp
và tham vọng của Chủ nghĩa hiện đại được nâng lên như một quan niệm văn chương
mới mẻ. James Joyce không thể ngừng mở rộng thêm cuốn tiểu thuyết Ulysses,
và sau chót, ông còn gọi điện đến chủ nhà in để chỉnh sửa lần cuối. Khi chỉnh
sửa phần viết nổi tiếng “Thời gian trôi” trong tác phẩm Tới ngọn hải đăng,
Virginia Woolf đã sáng tạo sự đa bội điểm nhìn để thách thức độc giả. Mỗi nhà
văn hiện đại sáng tạo theo những phương cách khác nhau, nhưng họ thống nhất ở
niềm tin: một bản chỉnh sửa cẩn thận và toàn diện, về cơ bản, sẽ tạo nên tác
phẩm văn chương hay nhất.
***
Niềm tin ấy, ngày nay, vẫn
còn tồn tại nơi chúng ta. Có một vài phản ứng theo kiểu lãng mạn, chống lại sự
chỉnh sửa – chẳng hạn, từ nhóm Beat – những người thường sáng tác với tốc độ
nhanh sửng sốt, và cho rằng, theo cách nói của Jack Kerouac, các nhà văn nên
“không bao giờ nghĩ lại để “cải thiện” hay chuyển hoán những cảm giác.” Song,
với đại bộ phận tác phẩm văn hóa văn học, việc chỉnh sửa đã trở nên quan trọng,
cũng như cảm hứng.
Tuy nhiên, trong khoảng 30
năm qua, khoa học kỹ thuật đã lại thay đổi, và quan niệm của chúng ta về sự
viết và chỉnh sửa cũng đang thay đổi theo. Ngày nay, phần đông chúng ta sáng
tác trực tiếp trên máy vi tính. Thay vì tạo ra những trang viết tay, hết trang
này đến trang kia, mà sau đó, ta có thể đọc và sắp xếp lại, giờ đây, ta tạo nên
một tài liệu sinh động, có thể mở rộng thêm, không hề được in ra cho đến khi
trở thành một sản phẩm được ấn hành sau cuối. Trong khi điều này giúp việc tự
biên tập trở nên dễ dàng hơn, Sullivan cho là: thật nghịch lý, nó có thể đưa
đến hàng loạt chỉnh sửa, thứ làm cho việc nghiền ngẫm lại tác phẩm một cách
nghiêm túc thành ra khó khăn hơn. “Môi trường lý tưởng cho sự chỉnh sửa là nơi
bạn có thể lưu lại một số phiên bản khác nhau của cùng một văn bản, Sullivan
nói. Với chỉ một bản thảo đang thực hiện trên máy tính, chúng ta đánh mất những
dấu vết từng khiến các nhà văn hiện đại quay về và chỉnh sửa tác phẩm của mình.
Sullivan nói, “Chính thời khắc đánh máy thứ gì đó đưa đến sự bất ngờ thật sự và
những thay đổi đầy sáng tạo,” “Nhà văn quay trở lại văn bản của họ, tuy nhiên
nó có vẻ thật lạ lẫm.”
Như vậy, tại sao chúng ta
tiếp tục bênh vực cho việc chỉnh sửa? Sullivan cho rằng, phần nào là do những
tính chất và quan niệm văn chương mà ta được thừa hưởng từ các nhà văn hiện
đại. Bà cũng lưu ý đến sự chuyên nghiệp hóa của việc viết lách - điều đã thúc
đẩy những nhà văn như Carver và Oates đến giảng dạy tại các trường đại học.
“Các nhà văn cần được xem như các giáo sư và trao đổi về quá trình lao động cần
mẫn của họ,” Sullivan nói. “Chúng tôi không thể dạy bạn sáng tác như thế nào,
nhưng chúng tôi có thể dạy bạn làm sao để chỉnh sửa. Và đó là một nhiệm vụ quan
trọng.”
Mặc dầu vậy, khi ta mất đi
những sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật, vốn trước hết, giúp ta hình thành nên
hình thức thức chỉnh sửa của mình, có khả năng, bổn phận của ta với điều ấy sẽ
mờ mạt dần. Giờ đây, ta chỉnh sửa trong một thời gian hạn định, làm những điều
giống như Milton
thêm thắt ở lề trang giấy hơn là như Hemingway đánh máy lại tác phẩm của ông.
Có lẽ, điều này đã cổ vũ những hình thức cởi mở và giàu có tính đối thoại hơn
của việc sáng tác văn học.
Dù lịch sử của việc chỉnh
sửa đã cho ta thấy rõ, tuy nhiên, có nhiều phương cách để tạo nên một tác phẩm
văn học xuất sắc, và Sullivan, về phần bà, có lẽ không quá lo lắng trước những
gì sẽ đến. Sullivan nói: “Chúng ta rất hy vọng về những thành tựu của việc
chỉnh sửa,”, “việc làm thế nào nó chuyển một bản thảo xoàng xĩnh ban đầu thành
một kiệt tác.” Bà nói thêm: Tuy vậy, sự chỉnh sửa luôn đi kèm với một cái giá
nào đó. “Nó cũng tiềm ẩn sự phá hoại”, bà cho biết, “và tôi nghĩ, chúng ta đã
đánh mất tầm nhìn về một điều có vẻ hiển nhiên với những thế hệ trước – sự
chỉnh sửa có thể đi quá xa, biến thứ gì đó trở nên tồi tệ, thay vì giúp nó hay
hơn.”
Lê Minh Kha
dịch từ Revising your
writing again? Blame the Modernists; Craig Fehrman, The Boston
Globe, June 29, 2013.
Nguồn: PHONG ĐIỆP/Văn nghệ Trẻ
No comments:
Post a Comment