Nguyễn Hoàng Văn
Nhà văn Chu Giang – Nguyễn Văn Lưu và những kẻ a tòng trong vụ đấu tố luận văn của Nhã Thuyên – Đỗ Thị Thoan nên tìm đọc công trình nghiên cứu History of Shit của Dominique Laporte [i].
Họ cần đọc để may ra ngộ
thêm, sáng thêm một vài điều. Họ cần đọc để hiểu rằng bất cứ thứ gì liên quan
đến con người và cuộc sống, dù vĩ đại hay bé tí, dù thanh cao hay ghê tởm như
là shit, sản phẩm của quá trình bài tiết, cũng đều đáng để nghiên cứu
cả. Và họ cần đọc để hiểu rằng, chính họ, như những quân binh chỉ điểm
và đấu tố, cũng rất đáng trở thành đối tượng nghiên cứu trong một công trình
hàn lâm tương tự.
Trong cuốn sách trên
Laporte đã nhìn lại lịch sử văn minh qua cách thức mà nhân loại ứng xử trách
nhiệm với cặn bã bài tiết mà mình thải ra: theo từng thời kỳ, những thế cách ấy
đã tăng tiến một cách phù hợp với những tiến trình văn minh khác, trong đó có
tiến trình hình thành ý thức cái Tôi, ý thức về con người cá nhân, đặc biệt là
cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng. Nói cho gọn thì đây là sự phát triển
của “văn hoá bài tiết”: càng ý thức về những tác động từ sự “bài tiết” của
mình, nhân loại càng đường hoàng và chính trực hơn trong việc thể hiện trách
nhiệm trước những đống bài tiết mình thải ra.
Từ chuyện bài tiết sinh học
này, hãy nhìn đến sự bài tiết ý thức – tư tưởng của những hệ thống cầm quyền.
Sự sống là một tiến trình
trao đổi chất, ở đó từng hệ thống hấp thụ chất dinh dưỡng bên ngoài và thải hồi
những cặn bã sau một tiến trình xử lý. Để sống thì hệ thống sinh học của từng cá
nhân phải trao đổi chất qua tiến trình hô hấp, tiêu hoá và bài tiết. Và để
sống, từng hệ thống cầm quyền phải tiến hành công việc tương tự về mặt ý thức
và tư tưởng: “hô hấp” và “tiêu hoá” để hấp thụ những tư tưởng mới của thời đại
và thải hồi cái đã lỗi thời.
Vấn đề cần nêu ra ở đây
cũng là “văn hoá bài tiết” và nói theo ngôn ngữ tuyên giáo của hệ thống toàn
trị là phải “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”. Nếu cá nhân không
được phép vô trách nhiệm trước những thứ mà cơ thể mình bài tiết thì hệ thống chính
trị cũng không được dửng dưng trước những cặn bã nó thải ra. “Không được phép
vô trách nhiệm” hay “dửng dưng” chỉ là một cách nói. Một cách bình dân, nôm na,
có thể nói thẳng là “ỉa bậy” hay “ỉa vất”: cá nhân không đuợc ỉa vất, chế độ
cầm quyền không được ỉa vất.
Thế nhưng những bằng chứng
lịch sử hiển nhiên lại cho thấy rằng cái hệ thống toàn trị hô hào “dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm” là một hệ thống chuyên ỉa vất, chuyên ứng xử vô trách
nhiệm, luôn phủi tay trước những đống cặn bã mà nó thải ra. Nó ỉa bậy trên
phương diện ý thức – tư tưởng đến độ, cho đến nay, sau gần ba phần tư thế kỷ,
vẫn chưa chịu xây cho mình một cái hố xí hai ngăn.
Một thời, hệ thống toàn trị
xây dựng sự sống còn của mình trên tư tưởng đấu tranh giai cấp cứng nhắc theo
mô hình Stalinist hay Maoist mà hai thí dụ đau đớn nhất là phong trào đấu tố
địa chủ trong Cải cách Ruộng đất vào thập niên 50, là phong trào đấu tố văn
nghệ trong vụ Nhân văn – Giai phẩm vào thập niên 60. Nhưng để tiếp tục sống còn
thì phải thải hồi những tư tưởng cứng nhắc ấy và, theo góc độ “văn minh bài
tiết” mà Laporte đã chỉ ra, hệ thống trị vẫn chưa đủ trưởng thành để bài tiết
một cách đàng hoàng và tử tế trong tinh thần “dám chịu trách nhiệm”.
Nó không bao giờ “sai lầm”
hay “ấu trĩ”, chỉ có “một thời sai lầm và ấu trĩ”. Nó không có lỗi, chỉ “lịch
sử” và “thời đại” là có lỗi. Nó thải, nhưng không nhận đó là chất thải. Nó bài tiết,
nhưng không dám vứt thẳng vào hầm tiêu. Không thừa nhận là chất thải, cũng
không dám vứt vào hầm cầu, nó đã hiện nguyên hình là một hệ thống ỉa bậy.
Trở lại với câu chuyện Nhã
Thuyên và công trình nghiên cứu về nhóm Mở Miệng. Lịch sử chắc chắn sẽ lặp lại
và một mai, khi quyền “Mở Miệng” được công nhận hay, ít ra, được đối xử công
bằng và tử tế, cái chu kỳ ỉa bậy và “từng một thời ấu trĩ” kia cũng sẽ lặp lại.
Nó lặp lại để những kẻ đang hăng hái lập công bằng cách chỉ điểm hay đấu tố sẽ
kết thúc sinh mệnh văn nghệ hay “nghiên cứu” của mình tương tự sự nghiệp chỉ
điểm và đấu tố của những bậc quân binh đi trước trong thập niên 50 và 60, những
tên tuổi hiên đang trôi nổi trong đống chất thải vô thừa nhận của hệ thống toàn
trị.
Có người gọi đoàn quân chỉ
điểm và đấu tố ấy là những nhà “phê bình kiểm dịch” nhưng gọi vậy e không chính
xác [ii]. “Kiểm dịch” là để ngăn
ngừa bệnh dịch. Còn những cây bút ấy, khi đã tự nguyện nhảy vào hàng ngũ của
đống chất thải vô thừa nhận, đã là hiện thân của một thứ mầm dịch, thứ dịch đã
và đang phá hoại sự phát triển bình thường của nền văn học nói riêng và của đất
nước nói chung [iii].
Như thế, nếu có một dự án
nghiên cứu toàn diện về hệ thống toàn trị, cần có một chương trình nghiên cứu
đặc biệt, chuyên sâu về quá trình ỉa bậy của hệ thống, cái quá trình “không dám
chịu trách nhiệm” với những cặn bã gây dịch mà nó liên tiếp thải ra. Nhìn lại
lịch sử nhân loại qua lăng kính bài tiết, Laporte đã có công trình đặc sắc History
of Shit và chúng ta, nếu nhìn lại một chặng đường của đất nước trong phối
cảnh riêng về chất thải mà hệ thống toàn trị đã bài tiết, chúng ta sẽ có gì?
Một History of Plague,
Lịch sử của bệnh dịch chăng?
Từ History of Shit
đến History of Plague: đáng gọi như thế lắm vì cái ổ dịch một thời của
đất nước đang ngo ngoe sống lại, đang âm thầm truyền nhiễm và đang cố gây không
khí khủng bố qua những hành động chỉ điểm và đấu tố một luận văn cao học.
30.7.2013
© 2013 Nguyễn Hoàng Văn
& pro&contra
[i] Dominique Laporte, (2001), History
of Shit. Cambridge: The Massachusetts Institutes of Technology
Press. [Nguyên tác: Histoire de la Merde, bản Anh ngữ của Nadia Benabid và
Rodolphe el-Khoury .]
[ii] Trần Đình Sử, “Phê bình kiểm dịch”, 17-7-2013
[iii] Về phong trào đấu tố luận
văn cao học “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn
văn hoá” (Bảo vệ năm 2010 tại khoa Ngữ Văn, ĐH Sư phạm Hà Nội) của Nhã Thuyên,
có thể đọc các bài viết: Phạm Thị Hoài. “Cú giãy
cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn” (10.7.2013) và: Trần Đình Sử.
“Cuộc phê phán luận văn của Đõ Thị Thoan hay là sự xung
đột về khung tri thức và thế hệ” (26.7.2013).
No comments:
Post a Comment