Nếu chúng ta chỉ nghe đọc hay viết các chữ đẹp hay mỹ (mỹ nhân - người đẹp, mỹ cảnh - cảnh đẹp) theo mẫu tự La Tinh thì không thấy vết tích hay nhận ra phái nữ hay phái nam; tuy nhiên khi viết chữ Hán liên hệ ra thì tình hình lại khác hẳn: các chữ Hán trên ngàn năm nay đã mang trong đó một thành kiến xem thường phái nữ (thành kiến hoá thạch - fossilised prejudice). Tiếng Việt có tiếng cái, một dạng chữ Nôm dùng cái 丐 cho gái và cái, chỉ giống cái và sự lớn hơn hết (đường cái).
Khuynh
hướng chỉ vật thể lớn nhất (cửa cái, ngón cái) trong tiếng Việt cùng với
phái nữ (con dại cái mang, cọp cái) rất khác với khuynh hướng chỉ sự đẹp
trong tiếng Hán dựa vào bộ nữ 女 . Ít người biết rằng các
từ như nô (lệ), tham lam, ganh ghét, đố kỵ, hiềm nghi, dâm (dật), gian (tà),
dấu (diếm), lười (biếng), nịnh (hót) … đã từng được ‘liên kết’ đến phụ nữ
qua các chữ Hán truyền thống. Bài viết này sẽ đưa ra một số dữ kiện ngôn ngữ
cho thấy ‘thiên kiến’ về phái nữ đã hoá thạch trong tiếng Hán. Giọng Bắc
Kinh/BK sẽ được ghi bằng hệ thống pinyin thông dụng hiện nay, không nên lầm số
ghi thanh điệu với số ghi phụ chú - như số 1 - đặt sau một âm hay chữ như
jian1/ jiān so với ngày1 . Vấn đề kỳ thị giới tính thật ra không đơn
giản: một trường hợp đáng ghi nhận ở đây là bà Hillary Rodham (một luật sư
tranh đấu cho nữ quyền), sau khi lấy Bill Clinton (cựu Tổng Thống Mỹ thứ 42,
1993-2001) không theo truyền thống đổi tên thành Hillary Rodham Clinton và sau
đó cũng trở thành Hillary Clinton (đương kiêm Ngoại Trưởng Mỹ/2012).
1.
Giới thiệu tổng quát
Tiếng
nói con người phản ánh phần nào văn hoá cộng đồng, do đó trong một ngôn ngữ hầu
như ta luôn tìm thấy phần nào ảnh hưởng của giới tính cũng như các vết tích của
xã hội truyền thống. Tiếng Anh có các cách dùng manpower (nhân lực), mankind
(con người, nhân loại), postman/mailman (người đưa thư, nhưng lại
dùng man là đàn ông), chairman (tổng giám đốc, cũng dùng danh từ man)
hay the man in the street (người ngoài đường/người dân bình thường, cũng
dùng danh từ giống đực man), policeman (cảnh sát), Congressman
(dân biểu quốc hội), statesman (chính khách, nhà chính trị/chính trị
gia) ... đều cho thấy sự phân biệt giới tính trong ngôn ngữ hàng ngày1;
nói cách khác là có khuynh hướng đặt phái nam trên hết. Tiếng Pháp cũng có các
từ (le) docteur (bác sĩ, giống đực/masculin), (le)
professeur (giáo sư, cũng là giống đực) ... như vậy có phải các ngành nghề
này chỉ dành cho đàn ông hay đàn bà không làm được hay sao? Còn nếu muốn chỉ
đàn bà thì có thể đổi docteur thành (la) docteuse, và (la) professeuse ... So
với cách thành lập từ chỉ phụ nữ trong tiếng Anh như
Prince
(hoàng tử)
princess (công chúa)
Author
(tác giả)
authoress (nữ tác giả)
Actor
(nam diễn viên) actress (nữ diễn viên)
Poet
(nam/thi sĩ)
poetess (nữ thi sĩ)
Hero
(nam/anh hùng) heroine (nữ anh hùng)
Host
(nam/chủ nhà/chủ sự) hostess (nữ chủ sự)
Heir
(người thừa kế)
heiress (người phụ nữ thừa kế)
...v.v...
Thành
ra cần phải có những hình vị (morpheme) đặc biệt để chỉ phụ nữ hay từ kép
(ghép, compound) như trong tiếng Việt - để ý là chủ nhà, chủ sự, thi sĩ ...
thường hàm ý đàn ông thay vì đàn bà. Đây chính là ‘hiện tượng không cân xứng’
(asymmetry) trong các từ dùng chỉ đàn ông so với đàn bà vì chữ chỉ đàn ông phải
thêm vào hay thay đổi để chỉ đàn bà (đi sau, hàm ý phụ thuộc hay không là thành
phần chính quy). Thí dụ như các cụm danh từ nữ anh hùng 女英雄, nữ thi sĩ 女詩人 (nữ thi nhân), nữ diễn viên 女演員 ... thì tiếng Việt và tiếng Hán phải
ghép chữ nữ vào trước các danh từ chính (hàm ý phái nam có trước). Đây là một
trong những lý do mà một số vị ủng hộ thuyết nam nữ bình quyền (feminist) không
hài lòng cho lắm về hiện tượng dùng ngôn ngữ nói trên (không cân xứng, xem
trọng phái nam so với phái nữ ...). Sự mất cân xứng còn thể hiện khi nhìn rộng
ra xem các cách nói chuyện thường ngày như Bà Trọng (gọi theo tên
chồng), Cô (vì chồng dạy học, là Thầy), Bà Đạt (Đạt là tên con
trai lớn) ... Tương ứng với cách xưng hô Mrs. Brown (Bà Brown, Brown là
tên chồng) trong tiếng Anh, không những thế họ của người phụ nữ khi lấy chồng
cũng phải đổi theo họ chồng
Con
gái là con người ta
Con
dâu mới thật mẹ cha mua về
(ca dao Việt Nam)
Thứ
tự chữ (word order) cũng thường đặt phái nam trước như
Phụ
mẫu
父 母
cha mẹ2
Nam
nữ
男女
trai gái
Phu
thê
夫 妻
chồng vợ
...v.v...
Còn
nhiều vấn đề liên hệ như tư tưởng của Khổng học và mức độ thâm nhập của các
truyền thống phong kiến như tam tòng tứ đức 三从四德 ... xác định ‘nhiệm vụ’ của phái nữ trong xã
hội. Thành ngữ (Hán Việt) trong dân gian cũng nói lên phần nào vai trò truyền
thống của phái nữ như nam canh nữ chức (đàn ông thì làm việc ngoài đồng
ruộng, đàn bà thì thêu thùa may vá) hay nam ngoại nữ nội ... Câu nói gả
con cho ai (tự điển Việt Bồ La/1651) thì thường chỉ con gái ‘theo về’ nhà
chồng ... Ngay cả những nhận định khắc nghiệt về giá trị xã hội như nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô (một trai thì nói có, mười gái thì nói không) ...
Tuy nhiên bài này chỉ giới hạn vào cấu trúc của một số chữ Hán đáng chú ý mà
thôi.
2.
Các chữ Hán dùng bộ nữ
2.1 Chữ/bộ nữ 女
Nữ
là con gái, cũng là một bộ thủ (bộ 38) trong 214 bộ thủ chữ Hán. Đây là trường
hợp đáng xem xét kỹ hơn vì trong các bộ thủ ngày trước chỉ có bộ nữ chứ không
có3 bộ nam 男, thêm một dữ kiện về ‘hiện
tượng không cân xứng’ trong ngôn ngữ. Giáp cốt văn cho thấy chữ nữ tượng hình,
hình của người đàn bà ngồi quỳ (kiểu ngồi xưa) với hai tay để trước ngực:
CharacterEtymology.aspx?submitButton1=
Etymology&characterInput=%E5%A5%B3
các
chữ Hán cổ sau trích từ tự điển trên mạng
http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE5ZdicA5ZdicB3.htm
Nếu
hai chữ nữ 女 hợp với nhau (ngang nhau)
奻 thì thành một chữ
mới là noạn (nuán hay nuan2 BK) nghĩa là cãi nhau (tranh tụng), đây là
chữ hiếm với tần số dùng là 16 trên 171894734 - các tần số dùng/tần suất trích
dẫn trong bài này là từ thống kê trang
dictionaries/?pageID=CharDict/Query:Pinyin.
Nếu
ba chữ nữ hợp lại thì thành chữ gian 姦
(ác tà, jiān/jian1 BK) với tần số dùng là 2173 trên 175203003; một chữ dùng
tương đương là 奸 dễ nhận ra hơn với thành
phần hài thanh là *gan/kan 干 - chữ này rất thông dụng
với tần số dùng là 25547 trên 434717750 .
Chữ
gian 姦 có lâu đời hơn chữ gian 奸(giản thể), tuy nhiên hàm ý (tà, gian ác) của
chữ này khá rõ nét khi ba người nữ họp (ngồi) với nhau!
thì lại có nghĩa là đẹp hay yêu 妖
(quái lạ/TV). Để diễn tả hình dáng đẹp, khuynh hướng dùng bộ nữ (phái đẹp)4
để tạo ra chữ mới rất rõ nét trong vốn từ Hán - như tự điển Khang Hy có
khoảng 90 chữ khác nhau cùng nghĩa là đẹp như 嫵 (vũ, cũng như 娬) 嫣
(yên) 媚 (mị) 姣 (giảo) 姚
(diêu) 妖 (yêu) 姱 (khoa) 娥
(nga) 婉 (uyển) 媛 (viện) 嬋
(thiền) 妍 (nghiên, cũng như 姸) 嬿 (yến) 嬈
(nhiêu) 娟 (quyên) ...v.v... Đây là
các chữ lấy từ Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, có khoảng 15 chữ nghĩa là đẹp
(xinh) so với 148 chữ trong bộ nữ, hay là khoảng trên 10% rất phù hợp với số
phần trăm số chữ với nghĩa là đẹp trong tự điển Khang Hy (tổng số chữ trong bộ
nữ là 866, do đó 90/866 = 10.4%). Tiếng Việt phân biệt các trường hợp đẹp trai,
đẹp gái và khi có tuổi thì là đẹp lão.
2.2 Tham 㜗
Chữ
hiếm tham 㜗 (Unicode 3717) đọc là 倉含切 thương hàm thiết, âm tham (theo Tập Vận/TV),
giọng BK là căn - thành phần hài thanh/HT là 參 (tham, xam, sâm). Tham là ham muốn, theo
Thuyết Văn Giải Tự/TVGT là cùng nghĩa với lam 婪, cũng thường dùng chung là tham lam.
Chữ tham 貪 bộ bối thường dùng hơn so
với tham bộ nữ.
2.3 Lam 婪
Lam
nghĩa là ham muốn, lam hàm 婪酣 là
tham ăn. Thành phần HT là lâm 林.
2.4 Lạm 㜮
Lạm
㜮 là chữ hiếm (Unicode
372E), hàm ý quá độ, quá mức (một cách sai trái) như lạm dụng, lạm quyền,
lạm phát ... chữ lạm 濫 bộ thuỷ thường dùng hơn,
thành phần HT là giam/giám 監. Theo Quảng Vận/QV, Tập
Vận thì hai chữ lạm 㜮 濫 dùng tương đương.
2.5 Dâm 婬
Dùng
như dâm bộ thuỷ 淫, như trong các cách dùng gian
dâm, tà dâm, dâm dật, dâm dục, dâm nhạc, dâm thư ... Thành phần HT là 㸒 : dâm, chữ hiếm, ta thấy
âm nhâm/dâm 壬 hài thanh ngay trong chữ
này rồi. Kinh điển xưa thường dùng dâm 婬
như dâm 淫
朱骏声曰:“小尔雅广义:‘上淫曰婬,下淫曰报,旁淫曰通。
Chu
Tuấn Thanh viết: “Tiểu Nhĩ Nhã Quảng Nghĩa:‘thượng dâm viết dâm,hạ dâm viết
báo,bàng dâm viết thông
2.6 Lãn 嬾
Lãn
là lười biếng, như trong cách dùng lãn công... Lãn bộ nữ là chữ hiếm có tần số
dùng là 21 trên 171894734, bộ nữ còn có thể thay bằng bộ tâm 懶 thông dụng hơn với tần số dùng là 16583 trên
175865108. Thành phần HT là lại 賴 (lời).
Tiếng Việt còn duy trì âm cổ hơn của lãn là lười. Một dạng tương đương
của lãn 嬾 là 孄 (TV).
2.7 Đố 妒
Đố
kị 妒忌 (ghen ghét) - đố còn viết
là 妬. Thành phần HT thạch 石 : tiếng Việt còn duy trì một dạng âm cổ là đá
so với âm đố (當故切 đương cố thiết/QV). Có
nhiều chữ Hán dùng bộ nữ để chỉ sự ghen ghét, ganh tị ... Xem thêm các chữ liệt
kê bên dưới.
【詩註】以色曰妒,以行曰忌
[Thi
- Chú] dĩ sắc viết đố, dĩ hành viết kị
2.8 Tật 嫉
Tật
là ghen ghét, đố kị, giận ... Thành phần hài thanh là chữ tật 疾 (ốm, bệnh).
2.9 Mạo 媢
Mạo
là ghen ghét. Thành phần HT là mạo 冒,
Vương Sung trong Luận Hành viết
妒夫媢婦 đố phu mạo phụ
2.10 Áo 㜩
Chữ
hiếm áo (Unicode 3729) là ghen ghét, đố kị ... Thành phần HT là áo - âm áo 音奧 (TV). Chữ này hiện diện từ thời Tập Vận (năm
1037/1067), phản ánh phần nào tâm lí của đầu thiên niên kỷ II (và còn có thể
cho đến ngày hôm nay) ỏ Trung Quốc, hay thành kiến về phái nữ, thêm bộ nữ vào
chữ áo/úc 奧 để tạo ra chữ mới hàm
nghĩa không tốt là ghen tị .
2.11 Thứ 㜘
Thứ
(Unicode 3718) cùng nghĩa với đố 妒
(Bác Nhã/BN). Thứ còn có nghĩa là kiêu (ngạo) 驕 theo học giả Đoạn Ngọc Tài: 驕俗本作嬌 kiêu tục bản tác kiều.
2.12 Súc 㜅
Súc
(Unicode 3705) có nghĩa là đẹp, nịnh và ghen ghét ... Thành phần HT là súc 畜. Súc 畜 là
nuôi (dưỡng), thú vật trong nhà (lục súc 六 畜) hay còn có nghĩa là tốt đẹp (好 hảo), nhưng khi thêm bộ nữ vào thì bắt đầu
có những nghĩa không tốt như nịnh, ghen ghét ...
2.13 Giới 妎
Giới
là đố kị (theo TVGT), phản phúc (Nhĩ Nhã/NN) - thành phần HT là giới 介. Nhĩ Nhã (Thích cổ) cũng ghi 苛,妎也 hà, giới dã - hà là ghen ghét, trách
phạt, quấy nhiễu ...
2.14 Hiềm 嫌
Hiềm
là ngờ vực, nghi ngờ ... thường dùng chung với nghi 嫌疑 (hiềm nghi). Hiềm cũng là khiểm 慊 (TV). Thành phần HT là kiêm 兼 (gồm, gom, gôm). Một số chữ Hán diễn tả tình
cảm, trạng thái, thái độ ... có thể thay bộ nữ bằng bộ tâm như chữ lãn, hiềm
chẳng hạn. Có tác giả cho rằng phái nữ thường bộc lộ tình cảm nhiều hơn phái
nam nên mới có khả năng hoán chuyển bộ nữ và tâm như vậy (xem thêm các chữ lãn,
mạn, tiều ...); để ý mạo bộ nữ 媢 là ghen ghét (kị, giận),
còn mạo bộ tâm 𢝌 (hay 𢛡) là tham lam.
2.15 Vọng hay vong 妄
Vọng
là xằng, càn, không đúng sự thật - vọng ngữ (nói bậy) ... Còn dùng như vô 無 (TV). Thuyết Văn ghi vọng là 亂也 loạn dã. Thành phần HT là vong 亡
2.16 Nô 奴
Xưa
chỉ người phạm tội (tội nhân) bị bắt làm tạp dịch không phân biệt giới tính;
các cách dùng thường gặp là gia nô, hung nô, nô lệ ... Nữ nô 女奴 là con gái làm nô lệ (slave girl). Đầy tớ,
người làm (phụ việc, nô tì) ‘thường’ chỉ phụ nữ. Theo TVGT:
奴、婢,皆古之辠人也 Nô, tì, giai cổ
chi tội nhân dã
2.17 Tì 婢
Tì
là con đòi, người hầu gái - cách xưng khiêm nhượng của phụ nữ ngày xưa: 婢子 tì tử, thường dùng trong Kinh Lễ và
Tả Truyện. Thành phần HT của tì là ti 卑,
nghĩa là thấp hèn, đê tiện, khinh thường ... Ti nhân 卑人, tiện nhân 賤人 (kẻ hèn này) là những cách xưng hô nhún
nhường.
2.18 Mị 媚
Mị
là nịnh bợ, chìu theo như mị nhân (làm người ta xiêu lòng), mị dân
... Mị còn có nghĩa là đẹp, dễ thương, hấp dẫn - đây là nghĩa nguyên thuỷ (theo
Từ Nguyên5) - sau này mới thêm vào nghĩa nịnh hót (châm biếm). Thành
phần HT là my 眉 (lông mi, mày).
2.19 Hạm 𡣊
Hạm
là chữ hiếm (Unicode 218CA, hàn BK), hàm ý tính nết ác độc (QV) - còn viết là 𡣔 (Unicode 218D4). Chữ hiếm
hạm xuất hiện từ thời Long Kham Thủ Giám (năm 997) và Quảng Vận (năm 1008) phản
ánh phần nào tâm lí ở Trung (Quốc) vào đầu thiên niên kỷ II.
2.20 Tiết 媟
Tiết
là ô uế, dơ bẩn, nham nhở (tính từ) hay khinh thường (động từ, TVGT). Thành
phần HT là chữ hiếm 枼 (diệp, tiệp) nghĩa theo
TVGT là bạc 薄 (mỏng, nhạt, coi khinh).
2.21 Phanh 姘
Phanh,
pīn BK, là ăn ở (trai gái) vụn trộm ... Phanh cư 姘居 ăn ở với nhau như vợ chồng
(không cưới hỏi chính thức). Thành phần HT là tinh/tịnh 并 (滂丁切
bàng đinh thiết/TV - bìng BK)
男女私合曰姘 -《苍颉篇》
Nam
nữ tư hợp viết phanh -
<Thương Hiệt Thiên>
2.22 Yển 匽
Yển
(yăn BK) là dấu diếm, trốn tránh - 匿也
nặc dã (TVGT), âm (đọc như) yển 偃
(nép, nằm xuống). Thành phần HT là yến 妟,
chữ này cũng dùng như yến 晏
cũng như an (yên).
2.23 Xướng 娼
Xướng
là con hát (kĩ nữ) - cũng như xướng bộ nhân 倡;
thành phần HT là xương 昌 (sáng sủa, thịnh vượng) -
xem thêm mục 2.24, 2.25. Một điểm đáng chú ý là chữ xướng bộ nữ 娼 có mặt sau chữ xướng bộ nhân 倡, như có trong Ngọc Thiên (năm 543 SCN), Tập
Vận ...
2.24 Kĩ 妓
Thành
phần HT là 支 chi, kĩ là nữ nhạc
sĩ (女樂), sau này cũng có nghĩa là
đĩ6, gái mại dâm - cùng nghĩa với xướng 娼 hay 倡.
Để ý chữ hàng 䘕 (Unicode 4615, hiện diện
trong Tự Vị/1615, Khang Hy/1716 ...) cũng vừa chỉ nhạc sĩ và kĩ nữ (gái
mại dâm).
2.25 Biểu 婊
Biểu
婊 chỉ tên đàn bà, biểu tử
婊子 hay 表子 nghĩa là kĩ nữ (gái điếm). Thành phần HT là
biểu 表 (mặt ngoài, bên ngoài, áo
ngoài ...); biểu tử hàm ý ở ngoài (ngoại thất 外室) so với trường hợp của vợ chính thức - xem
thêm chữ an 2.36
2.26 Phương 妨
Phương
là gây trở ngại, làm hại - 害也 hại dã (TVGT) ... Như
trong cách dùng phường hại (phương hại). Thành phần HT là phương 方, cũng có nghĩa là thương 傷 (thương đau).
2.27 Ban 媻
Ban
hay bạn 媻 là chữ hiếm (Unicode
5ABB), có các nghĩa là xa (xa xỉ - 奢也 xa
dã/TVGT), quá đáng, bà, vợ lẽ … Thành phần HT là ban/bát 般
2.28 Ngu 娛
Ngu
là niềm vui, thú vị ... Theo TVGT là 樂也
lạc dã. Chữ này có hàm ý phụ nữ là nguồn vui sướng (trò chơi) của người khác
(phái nam)? Thành phần HT là ngô 吳 (hay 吴).
2.29 Nịnh 佞
Nịnh
là tâng bốc, nói khéo để người ta thích ... Chữ này theo TVGT là gồm chữ nữ và
chữ tín viết tắt (从女信省) - thí dụ như nịnh
nhân, nịnh thần ...
2.30 Mạn 嫚
Mạn
bộ nữ (Unicode 6162) là khinh nhờn, coi thường (td. ngạo mạn) - dùng như
mạn bộ tâm 慢. Thành phần HT là man/mạn 曼.
2.31 Tiều 嫶
Tiều
là chữ hiếm (Unicode 5AF6) nghĩa là hốc hác, tiều tuỵ 憔悴, dùng như tiều bộ tâm 憔. Thành phần HT là tiều/tiêu 焦 (lo buồn, cháy sém ...). Chữ tiều bộ nữ có
mặt thời Tập Vận (năm 1037/1067) và dùng như chữ tiều bộ tâm (hiện diện trước
đó rất lâu, như thời Thuyết Văn Giải Tự đã có ghi lại) cho thấy khoảng đầu
Thiên Niên Kỷ II có sự thay đổi về tư tưởng (Tống Nho) đối với nữ giới; xem
thêm chữ Hạm.
2.32 Hộ 𡤬 hay 嬳
Các
chữ hiếm hộ 𡤬 (Unicode 2192C) hay 嬳 (Unicode 5B33)có nghĩa là
tiếc như trong các cách dùng thương tiếc, tiếc của, tiếc công ... Thành phần HT
là quắc 矍 (sợ). Tiếc tiếng Việt là
một dạng biến âm của tích 惜, chữ này thông dụng hơn.
2.33 Yêu 妖
Yêu
là đẹp (lẳng lơ), hay còn chỉ loài ma quái có phép mê hoặc và hại người (yêu
quái 妖怪). Thành phần HT là yêu 夭 (xinh đẹp, tai vạ, chết non/yểu), theo TVGT,
yêu còn có dạng là 𡝩,巧也 (yêu, xảo dã). Nghĩa cổ nhất của yêu
là diễm lệ 豔麗, vũ mi 嫵媚 - theo Từ Nguyên5 sau này mới
thêm nghĩa quái dị (tiêu cực).
2.34 Niễu 嬲
Niễu/điểu/niểu
là trên ghẹo, quấy rầy (theo tự điển Hán Việt của Thiều Chửu/1942, và của
Nguyễn Văn Khôn/1960). Tuy nhiên theo Quảng Vận 嬲 đọc là 奴鳥切, 音嬈 nô điểu thiết, âm nhiêu (ngạc hoá).
2.35 Vô/mưu 毋
Vô
là chớ, đừng, không, chẳng (cũng như vô 無).
Tiếng Việt còn duy trì một âm cổ là mựa7 (như mựa nói dối
- tự điển Việt Bồ La/1651). Theo TVGT chữ 毋
cho thấy hình người đàn bà bị xiềng (xích) vì làm điều sai trái (gian) - nên
hàm ý là chớ/đừng phạm tội lần nữa! Ngoài nghĩa phủ định, vô/mưu còn là bộ thủ
thứ 80 trong 214 bộ thủ.
Tiểu
triện - chữ vô
2.36 An 安
2.36 An 安
An
là yên (ổn), bình an ... Đây là loại chữ tượng hình, từ giáp cốt văn có thể
thấy hình của một người phụ nữ đang ngồi (quỳ) trong phòng. Có thể hiểu là
người phụ nữ bình an trong phòng, hay một nghĩa thông thường hơn là tình trạng
yên ổn là kết quả khi người phụ nữ ở trong nhà!
Qua
các hình khắc/vẽ cổ đại của chữ an trên, ta không ngạc nhiên khi vợ (thê 妻) còn gọi là Nội Tử 内子, Nội Nhân 内人 , Nội Trợ 内助, Hiền Nội Trợ 賢內助, Chuyết Nội 拙內, Chuyết Kinh8 拙荊, Kinh Thất 荊室, Kinh Phụ 荊婦, Tiện nội 賤內, Tao Khang 糟糠...v.v... Và người vợ cũng có thể lên chức
tướng, nhưng cũng chỉ là nội tướng9 内相 mà thôi.
Phần
này không ghi nhận các chữ Hán có dùng chữ nữ trong thành phần HT với nghĩa
tiêu cực như nộ 怒 (giận dữ), nỗi 餒 (đói), nao 呶 (ồn ào), thê 悽 (đau buồn), hảo 恏 (Unicode 604F, bộ tâm hợp
với chữ hảo 好, nghĩa là ham muốn/dục 慾) ...v.v...
3.
Kết luận tạm thời
Truyền
thống lâu đời của chữ Hán đã cho ta nhiều thông tin thú vị về văn hoá tư tưởng
của người xưa. Tuy đa phần liên hệ trực tiếp đến xã hội Trung Quốc cổ đại nhưng
vẫn hàm chứa những giao lưu văn hoá ngôn ngữ với các dân tộc chung quanh (như
tên gọi 12 con giáp). Phân tách cấu tạo và quá trình biến đổi chữ Hán qua thư
tịch cổ như bộ thủ ‘nữ’ cho thấy những thành kiến tiêu cực - như cho rằng phụ
nữ có khả năng kém hơn hay chỉ phụ thuộc vào phái nam, mang những tính hay tật
xấu của con người - mà vẫn còn vết tích cho đến ngày nay. Hiện tượng kỳ thị
giới tính qua ngôn ngữ cũng hiện diện khi xem qua các ngôn ngữ khác (không liên
hệ họ hàng với tiếng Hán) trên thế giới. Quán tính của chữ viết (td. chữ Hán)
là một khía cạnh đặc biệt cho ta thấy rõ hơn văn hoá tư tưởng của những thời kỳ
trước. Hi vọng bài viết nhỏ này là một động lực khuyến khích các bạn quan tâm
đến tiếng Việt, tra cứu và tìm tòi thêm để thấy các tính chất phong phú của
ngôn ngữ chúng ta, so với các ngôn ngữ láng giềng trong quá trình giao lưu và
hình thành tiếng Việt hiện đại. Hiểu rõ các thành kiến (đặc biệt là kỳ thị phái
nữ) đã có từ ngàn xưa - nhiều khi chính chúng ta cũng không ý thức được10
qua quá trình xử lý ngôn ngữ (trong tiềm thức) - thì ta có thể tạo cơ hội cho
mọi giới tính đóng góp vào phát triển của Việt Nam trong thế giới hiện đại, một
công việc cần nhiều nỗ lực đến từ mọi phía.
4.
Phụ chú và phê bình thêm
Phần
này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA
vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể
tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Bạn đọc nào thấy thích thú về chủ đề này
nên tham khảo một số bài viết liên hệ đến khuynh hướng phân biệt giới tính
trong tiếng Trung (Quốc) sau đây - để ý mục tham khảo tài liệu (References) của
các bài viết này ghi nhận nhiều bài và sách rất đáng tra cứu thêm để thêm phần
chính xác và phong phú:
"Covert
Sexism in Mandarin Chinese" (tạm dịch: Sự kỳ thị ngấm ngầm trong
tiếng Quan Thoại) - tác giả David Moser đăng trong Sino-Platonic Papers -
Number 74 - January 1997. Có thể đọc trên mạng như trang này
"Gender
and Sexism in Chinese language and literature" - tác giả Angela
Jung-Palandri
đăng trong Sino-Platonic Papers, Number 27 August 1991. Có thể đọc trên mạng
như trang này
"Language
and Woman's Place" - sách soạn bởi tác giả Robin Lakoff, tiên phong trong
các khảo cứu về các vấn đề kỳ thị phụ nữ trong ngôn ngữ, NXB Harper & Row
(New York, 1975). Sau các khảo cứu này, hàng loạt các khảo cứu khác đã xuất
hiện bao gồm phân tách ngôn ngữ khác biệt giữa phái nam và phái nữ, cách dùng
chữ, phương ngữ ... và so sánh với các ngôn ngữ khác trên thế giới.
"Gender-specific
Asymmetries in Chinese Language" - tác giả Yan XiaoPing (1/2008) - bài viết
cho thấy các mức độ kỳ thị giới tính (phụ nữ) rất ‘thâm trầm’ và rất khó phát
hiện trong tiếng Trung (Quốc) hiện đại. Các cách dùng (ngôn ngữ) này có ảnh
hưởng tiêu cực đến đóng góp thực sự của phái nữ trong xã hội. Có thể đọc toàn
bài trên mạng
"Sexism
in Language" -
tác giả XiaoLan Lei (Northwest Polytechnic University, Xi’an, China), Journal
of Language and Linguistics - Volume 5 Number 1 (2006)ISSN 1475 – 8989. Trong
phần kết luận, tác giả ghi lại nhận xét của Rosalie Maggio (1989, tạm dịch từ
tiếng Anh): '... Điều cần phải nhận biết là không thể có giải pháp về kỳ thị
giới tính chỉ qua phương tiện ngôn ngữ: như nếu thay đổi chữ secretary/thư ký
thì cũng chẳng thay đổi được sự kiện là 1.6 phần trăm thư ký ở Mỹ là phái nam,
đổi director (ông tổng giám đốc) thành directress (bà tổng giám đốc) không có
nghĩa là phái nữ có nhiều cơ hội hơn phái nam ngày nay ...'. Có thể đọc
toàn bài trên mạng http://www.jllonline.co.uk/journal/5_1/5LingLei.pdf
Trong
bài viết "Sexist Chinese Characters Discriminate Against Women"
(tạm dịch: chữ Hán kỳ thị phụ nữ), được Zoe đăng lên mạng (một nhà báo
đang ở Bắc Kinh) cho rằng nếu đổi cách viết chữ gian 姦 hay 奸
(hiếp dâm/rape, hay 強姦 cưỡng gian) thành ra 犭行 (bộ khuyển thay vì bộ nữ và chữ hành - ám
chỉ hiếp dâm là một hành vi đê tiện của các loài súc vật), thì có thể giảm số
tội phạm hiếp dâm xuống được 20 phần trăm: xem toàn bài viết (28/2/2010) và các
trao đổi trang này
http://www.chinasmack.com/2010/stories/sexist-chinese-characters-discriminate-against-women.html
Bạn
đọc có thể xem thêm các bài viết của GS Nguyễn Văn Khang về hiện tượng kỳ thị
giới tính như trang
xa-hoi-hoc-ngon-ngu-ve-gioi-
su-ki-thi-va-su-chong-ki-thi-doi-voi-nu-gioi-trong-su-dung-ngon
hay
cuốn "Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ", tác giả Trần Xuân
Điệp (NXB Đại Học Sư Phạm, 2005).
1)
vì thế mà bây giờ tiếng Anh thường dùng postal worker thay vì mailman
(người phát thơ), chairperson thay vì chairman (tổng giám
đốc) để tránh phân biệt giới tính: person là người (đàn ông hay đàn bà)
so với man chỉ đàn ông.
2)
tiếng Việt cũng có thể dùng thứ tự ngược lại: mẹ cha, vợ chồng, gái trai ...
Tiếng Chăm cũng còn các cách dùng amak amu (mẹ cha), kamei likei
(gái trai) ... phản ánh chế độ mẫu hệ truyền thống - xem thêm chi tiết bài viết
của GS Lê Khắc Cường trang http://business9x.blogspot.com.au/2012/04/
van-e-gioi-trong-tieng-viet.html
3)
thật ra, Thuyết Văn Giải Tự liệt kê 540 bộ thủ và có bộ nam 男 và bộ nữ
4)
đương nhiên cũng có các chữ Hán dùng bộ nữ nghĩa là xấu (hình dáng) như chữ xuy
媸, khi 娸 (xấu, ác tính), mô 嫫 (嫫母 Mô Mẫu, thứ phi của Hoàng
Đế nổi tiếng là xấu)... Tuy nhiên số chữ (hàm ý xấu tướng) này khá ít so với số
chữ Hán dùng bộ nữ nghĩa đẹp/xinh.
5)
"Từ Nguyên" Thương Vụ Ấn Thư Quán - 2004 (Bắc Kinh)
6)
Đĩ chữ Nôm viết bằng kĩ 妓 như trong Dương Từ Hà Mậu
(Nguyễn Đình Chiểu), Vị Thành Giai Cú Tập Biên (Trần Tế Xương), Đại Nam Quấc Âm
Tự Vị (Paulus Của) ... Hay bằng thanh phù để 底 hợp với bộ nữ (tự điển Taberd/Pigneau de
Béhaine), hay bằng thanh phù địa 地
hợp với bộ nữ (Nguyễn Khuyến) ... Đây có thể là cách đọc của đa 多 (âm Mân Việt/Triều Châu) như đa 爹 là tía, và một dạng của kĩ là *đi/ti (âm Mân
Việt) 姼, so với chữ Nôm đi viết
bằng đa 多, đi so với di 移 (hay chữ hiếm 迻...). Đây là một chủ đề rất thú vị, không nằm
trong phạm vi bài viết nhỏ này, phản ánh giao lưu ngôn ngữ của các giọng địa
phương thời cổ đại và giải thích tại sao một số âm đọc trong tiếng Việt (vẫn
bảo lưu âm cổ) rất khác với âm Hán Việt (chính thống).
7)
so sánh múa vũ, mùa vụ, mù vụ (sương), Mùi Vị (chi thứ 8), mùi vị, mong vọng,
muôn/man vạn, muộn vãn ... mựa vô ...v.v...
8)
điển tích: thời Đông Hán có vợ thư sinh Lương Hồng nhà nghèo nên lấy cành cây
kinh đeo làm hoa/trâm, do đó người sau gọi vợ là Kinh (Chuyết Kinh, Kinh
Thất, Kinh Phụ ...)
9) Nội
Tướng 内相 từng là một chức quan
trong triều đình (nhà Đường), cũng như chỉ các thái giám, so với tiếng Việt nhà
tôi có thể dùng cho vợ hay chồng. Tiếng Trung (Quốc) lại có khuynh hướng
dùng gia 家 (nhà) chỉ người vợ (so với
chồng); cũng như các chữ thất 室
(nhà, phòng), phòng 房 (buồng, nhà) đều ám chỉ
người vợ.
10)
thí dụ một như bài viết "Doanh nhân Việt - anh là ai?" - xem
trang này
http://vietbao.vn/Kinh-te/Doanh-nhan-Viet-anh-la-ai/40050916/87/
(2004). Trường hợp này có thể đổi đầu đề thành "Doanh nhân Việt - bạn
là ai?" thì không phân biệt giới tính (PBGT) và thành kiến về phái nữ
(gián tiếp) cũng không thể hiện. Cách đây 1 năm, trên báo Giáo Dục Việt Nam có
đăng bài viết "Doanh nhân số 1 Việt Nam, anh là ai?"
(17/5/2011) - xem chi tiết trang này http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/
giaoduc.net.vn/Doanh-nhan-so-1-
Viet-Nam-anh-la-ai/6268189.epi.
Năm
nay (2012), ta vẫn thấy các bài viết tương tự như "Giám đốc kinh doanh
giỏi: Anh là ai?" (9/2/2012) - xem chi tiết trang này
http://vneconomy.vn/20120206094743633P5C9938/giam-doc-kinh-doanh-gioi-anh-la-ai.htm
; điều này cho thấy hiện tượng PBGT đã nằm sâu trong tiềm thức và một sự thay
đổi (thành kiến) đòi hỏi nhiều nỗ lực từ nhà trường đến công sở, báo chí…
NGUYỄN CUNG THÔNG
No comments:
Post a Comment