Đồng thời tiếng nói của những cây dầu cổ thụ
ấy nhắc nhở mọi người (không chỉ là trách nhiệm của UBND) về trách nhiệm bảo vệ
môi trường, trách nhiệm với đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân, với những ước mơ và hy vọng. Nói cho cạn nhẽ thì
đó là tiếng nói trách nhiệm của tất cả chúng ta”. (Bùi Công Thuấn)
BÙI CÔNG THUẤN ĐỌC BÀI THƠ “LỜI NHỮNG CÂY DẦU CỔ THỤ
Ở TRỤ SỞ UỶ BAN NHÂN DÂN” CỦA NHÀ THƠ ĐÀM CHU VĂN
Tuổi ta nhiều hơn tuổi các uỷ ban
bao nhiêu lượt mùa xuân
về không nhớ nữa
những toà nhà cao tầng
có thể cao hơn ta nhưng vẫn cần
sự che chở của ta
ta ủ rừng đại
ngàn trong từng thớ cây mạch rễ
ủ thời gian trong xạc xào tiếng lá
ủ niềm vui, nỗi buồn những sớm nắng chiều mưa…(*)
sông Đồng Nai dâng tuần
tự nhịp mùa
trong tầng tầng nước kia
có hàng triệu giấc mơ thao thức
ta nghiêng vào sóng nước
nước tràn lên ta vô tận
thời gian
nghiêng vào mênh mang
mênh mang nói với ta
bằng lời của nắng
thuở nai, mễn đan đàn
ran suối vắng
“tác…tác” gọi bạn tình
náo nức nhịp rừng sôi
lặng như cây cũng muốn
góp lời
có một cánh bướm trắng
đang đậu
trên ngực ta vụng dại
và tin cậy
Một sớm mai thức dậy
hơi phố thị ngạt ứ
lồng ngực
những cánh tay xanh cố
trỗi vượt lên cao…(*)
Ta phải nghe những mặt
nhạt cuộc đời bên ký ức xưa bầu bạn
nơi quản lý và sản sinh
những buồn vui, số phận…
những thánh nhân bên cạnh những tầm
thường
chợt khát thèm một sớm
mù sương
không nhìn rõ mặt người
mơ màng
hi vọng
__________
(*) Có một vài chỗ có
dấu ba chấm (…) và xuống dòng, không rõ đó là chỗ bài thơ bị cắt,
hay chỉ là tác giả còn muốn diễn ý?
Lý thuyết tiếp nhận cho rằng ý nghĩa của tác phẩm là do người
đọc cảm nhận từ tác phẩm, nhiều khi ý nghĩa ấy không đồng nhất với ý nghĩa của
tác giả gửi trong tác phẩm. Đó là đồng sáng tạo. Tuy nhiên, Umberto Eco nói rằng :” tôi chấp nhận ý kiến cho rằng một văn bản
có thể có nhiều ý nghĩa. Tôi không chấp nhận việc một văn bản có thể có
bất kỳ ý nghĩa nào”.
Tác phẩm văn chương là một sinh mệnh hoàn chỉnh.Y
nghĩa của tác phẩm nằm trong hệ thống cấu túc và hình tượng nghệ thuật. Những ý
nghĩa nằm ngoài cấu trúc hình tượng chính là sự áp đặt, với mục đích ngoài văn
chương. Đọc tác phẩm, phải đặt tác phẩm
trong môi trường văn hóa, lịch sử cụ thể của cộng đồng, bởi ý nghĩa của ngôn
ngữ, kiểu tư duy, kiểu tiếp nhận là do văn hóa công đồng chi phối. Tuy nhiên,
tác phẩm là phát ngôn trực tiếp của tác giả, đọc tác phẩm, trước hết phải hiểu đúng thông điệp tác giả gửi trong tác
phẩm, sau đó tìm hiểu những ý nghĩa do hệ thống hình tượng nghệ thuật tạo
ra. Tuyệt đối không xuyên tạc hay bóp
méo ý nghĩa hệ thống hình tượng, tuyệt đối không được gán cho tác phẩm
những ý nghĩa nằm ngoài hệ thống hình tượng.
Điều này đòi hỏi người đọc phải có trình độ, phải
có phương pháp đọc và tâm thế đọc nhất định. Xin thí dụ, học sinh lớp 6 không
thể đọc những bài thơ trong Nhật Ký
Trong Tù bằng chữ Hán nếu không có thầy cô hướng dẫn. Bởi những bài thơ đó
chứa đựng tri thức đông tây kim cổ, chứa đựng vốn sống, tư tưởng, tình cảm và
bản lĩnh lớn của một lĩnh tụ Cách Mạng có tầm vóc quốc tế, một người đã vào
sinh ra tử đối đầu với những kẻ thù lớn nhất của thời đại (Thực dân Pháp, Đế
Quốc Mỹ). Hơn thế, những bài thơ ấy nằm trong thi pháp thơ Đường kết hợp với
quan điểm, cách mạng về thơ ca. Vì thế, không thể giải nghĩa tùy tiện Nhật Ký
trong Tù. Với bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng thế. Cần khám phá thông
điệp nghệ thuật bằng những phương pháp phê bình có cơ sở khoa học, không cảm
tính, không chủ quan áp đặt, không vì
những mục đích ngoài văn chương, có vậy giá trị thật của tác phẩm mới tỏa sáng
1. Những cây dầu cổ thụ nói gì ?
Trong
bài thơ Lời Những Cây dầu Cổ Thụ ở Trụ Sở
Ủy Ban Nhân Dân, cây được nhân hoá như một con người, quan sát, nghĩ
suy, bày tỏ. Ngôn ngữ thơ là kiểu ngôn ngữ giao tiếp đời thường , ý nghĩa
bộ lộ trực tiếp, không phải là hệ thống tín hiệu cấp 1 hay cấp 3
Tuổi ta nhiều hơn tuổi các uỷ ban
bao nhiêu lượt mùa xuân về không nhớ nữa
những toà nhà cao tầng
có thể cao hơn ta nhưng vẫn cần
sự che chở của ta
ta ủ
rừng đại ngàn trong từng thớ cây mạch rễ
ủ
thời gian trong xạc xào tiếng lá
ủ niềm
vui, nỗi buồn những sớm nắng chiều mưa…(*)
Cây
độc thoại với chính mình. Cây không nhớ mình đã bao nhiêu tuổi, hiển nhiên là
nhiều tuổi hơn các ủy ban. Cây cũng là rừng đại ngàn, là sự trường tồn của lịch sử trong thời gian,
cây cũng là thực tại cuộc sống với niềm vui nỗi buồn.
Bên
sông Đồng Nai, cây nghiêng về bến nước, và đã bao mùa, sông Đồng Nai
dâng nước mênh mang. Tác giả tập trung hình ảnh để nói vê cái mênh mông của thời gian mà cây đã sống ở đó.
sông Đồng Nai dâng tuần tự nhịp mùa
trong tầng tầng nước kia có hàng triệu giấc mơ
thao thức
ta nghiêng vào sóng nước
nước tràn lên ta vô
tận thời gian
nghiêng vào mênh
mang
mênh mang nói với ta bằng lời của nắng
Cây hồi tưởng lại quá
khứ hoang dã, thời đại ngàn còn mênh mông là rừng, không khí trong
lành, muôn vật sống hạnh phúc, khác hẳn với cuộc sống thành thị hôm nay, ô
nhiễm, ngột ngạt
thuở nai, mễn
đan đàn ran suối vắng
“tác…tác” gọi bạn tình náo nức nhịp rừng sôi
lặng như cây cũng muốn góp lời
có một cánh
bướm trắng đang đậu
trên ngực ta vụng dại và tin cậy
Một sớm mai thức dậy
hơi phố thị ngạt ứ lồng ngực
những cánh tay xanh cố trỗi vượt lên cao
Trở về hiện tại, cây
ngẫm nghĩ sự đời, như suy nghiệm triết lý, từ đó cháy lên những
mơ ước, hy vọng.
Ta phải nghe những
mặt nhạt cuộc đời bên ký ức xưa bầu bạn
nơi quản lý và sản sinh những buồn vui, số phận…
những thánh nhân
bên cạnh những tầm thường
chợt khát thèm một sớm mù sương
không nhìn rõ mặt người
mơ màng
hi vọng
Hy vọng có một thời như
thời xa xưa hoang dã trong lành và hạnh phúc như hình ảnh đại ngàn năm
xưa
Cụm từ “Những mặn nhạt cuộc đời,… buồn vui số phận” hoàn toàn có
nghĩa chung chỉ chung về cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng viết:
Thế gian biến cải vũng nên đồi
Mặn, nhạt, chua, cay lẫn ngọt bùi…”
Cuộc đời là biến đổi,
và lòng người cũng đổi thay, nhà Phật gọi là lẽ vô thường. Đó là một chân lý lớn (Khổ Đế)
Trước thực tại thành
phố thì ô nhiễm lòng người thì đổi thay, cây cổ thụ mong ước điều
gì?
chợt khát thèm một sớm mù sương
không nhìn rõ mặt người
mơ màng
hi vọng
Thèm một sáng mù sương/ không rõ mặt
người. Hình ảnh này diễn tả thời rừng còn bạt ngàn, mỗi buổi
sáng sương phủ kín rừng, có khi không thấy mặt người. Tại sao lại
thèm khát như vậy, bởi bây giờ rừng đại ngàn không còn nữa, cũng
không còn những sáng mù sương. Chẳng hạn, Đà lạt ngày xưa, 9 giờ sáng
vẫn còn mù sương, trong khoảng 100m không tỏ mặt người. Bây giờ còn
đâu “Đà lạt sương mờ” của thơ và
nhạc ngày xưa.
Như
vậy lớp nghĩa thứ nhất, lời của cây, hoàn toàn chỉ là lời của cây,
không ngụ ý, không ẩn ý, Cây không phải là nhân vật dụ ngôn, vì thế
bài thơ chỉ mượn cây để nói về khát vọng một cuộc sống trong lành,
và nhắc nhở mọi người về chân lý quan trọng là con người phải giữ lấy thiên nhiên, giữ lấy đời
sống hạnh phúc trong hoàn cảnh môi trường đang bị phá huỷ. Sự sống phải vượt lên.
hơi phố thị ngạt ứ lồng ngực
những cánh tay
xanh cố trỗi vượt lên cao
2. Hàm ý của bài thơ là gì?
Hình
tượng chính của bài thơ là Những cây dầu cổ thụ. Hình tượng
này có ý nghĩa gì ?
Trong hệ thống cấu trúc của
bài thơ thì Những cây dầu cổ thụ là
đại ngàn (ta ủ rừng đại ngàn trong từng thớ cây mạch rễ),. Cây là nhân dân, bởi nhân dân là vĩnh cửu, nhân
dân mới đầm mình trong nắng sớm mưa chiều : ” ủ thời gian trong xạc xào tiếng lá/ủ niềm vui, nỗi buồn những sớm nắng chiều mưa…”
Tác
giả mượn cây cổ thụ để chỉ ra điều này:
khi đại ngàn còn mênh mông, loài vật, con người được thiên nhiên che
chở, thì được sống an vui, hạnh phúc.
thuở nai, mễn đan đàn ran suối vắng
“tác…tác” gọi bạn tình náo nức nhịp rừng sôi…
có một cánh bướm trắng đang đậu
trên ngực ta vụng dại và tin cậy
Và
tác giả mơ ước một thời như thế : chợt
khát thèm một sớm mù sương/ không nhìn rõ mặt người/mơ màng/hi vọng.
Câu thơ này nếu không đặt trong tổng thể cấu trúc bài thơ, thì có
thể suy diễn hoàn toàn sai lạc ý nghĩa, nội dung. Rằng tác giả có
cái nhìn bi quan, sao lại thèm một
không gian mù sương không nhìn rõ mặt người? Phải chăng tác giả sợ
lòng người đổi thay, phải chăng
tác giả muốn thoát ly, muốn sống trong mơ màng.
Bài
thơ là lời của cây, kiểu trực ngôn, hình tượng cây không là ẩn dụ. Nếu bảo
rằng cây là ẩn dụ, thì những nai,
mễn, bướm, sông Đồng Nai nước dâng, khói ngạt phố thị là ẩn dụ cho
cái gì? Những hình ảnh ấy là chính nó, là thiên nhiên đơn thuần.
Ngay
cả những thánh nhân, tầm thường, những buồn vui số phận là ám
chỉ ai? Hay chỉ là chỉ chung những con người, trong mọi thời. Bởi
thời nào, ở đâu cũng có thánh nhân và có kẻ xấu xa, ở đâu lại không
có những buồn vui số phận. Kinh Thánh cách nay 2000 năm là một minh
chứng. Đức Giêsu là thánh nhân, bị đóng đinh cùng với 2 kẻ trộm cướp.
Trong 12 môn đồ của Giêsu, Giuda là
kẻ đã bán Chúa lấy 30 đồng bạc. Đó là chân lý của muôn đời. Như vậy
những câu thơ có vẻ như có ám chỉ, cũng chỉ nói cái chân lý đã có
trước đó từ lâu lắm rồi. Xin cứ đọc lại thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, và
quan sát những con người của thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó tìm lui
3. Bài thơ đọng lại điều gì ?
Điều rõ nhất còn lại
ở bài thơ là tấm lòng của tác giả với cuộc sống, với con người hôm
nay.
sông Đồng Nai dâng tuần tự nhịp mùa
trong tầng tầng nước kia có hàng triệu giấc mơ
thao thức
Hình
ảnh sông Đồng Nai trong câu thơ trên vừa là thực (sông Đồng Nai dâng
nước ) vừa chứa đựng một lớp nghĩa rộng hơn nghĩa thực. Nói sông
Đồng Nai thì cũng đồng nghĩa với cuộc sống của những con người trên
sông và hai bên sông, từ thượng nguồn đến cửa biển. Đã có bao lớp
người sống, chiến đấu, hy sinh, và “có
hàng triệu mơ ước”. Xin cứ đọc Miền Đất Ven Sông của cố nhà văn Hoàng Văn Bổn và quan
sát cụ thể sinh hoạt của nhân dân thì sẽ thấy rất rõ những mơ ước
ấy là gì, đã có bao nhiêu số phận, bao nhiêu vui buồn. Tác giả bài
thơ thể hiện tâm tình ấy bằng hình ảnh những nai, mễn, bướm sống vui, sống hạnh phúc trong đại ngàn.
Cuộc sống chúng ta đang hướng đến là “nước
giàu, dân mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Tôi nghĩ bài
thơ nằm trong trường tư tưởng ấy. Cái vị đắng có trong bài thơ chỉ
là để làm tôn cái vị ngọt của tình thơ và làm sáng lên cái nhìn
giàu chất nhân văn mà thôi
Dĩ
nhiên, trong chừng mực nào đó, ngôn ngữ thơ chưa thật giúp cho những tư
tưởng tình cảm giàu chất nhân văn ấy
sáng bừng lên, để soi tỏ cuộc
đời. Tuy vậy bài thơ có nhiều tứ thơ đẹp.
ta ủ rừng đại ngàn trong từng thớ cây
mạch rễ
ủ thời gian trong xạc xào tiếng lá
ủ niềm vui, nỗi buồn những sớm nắng chiều mưa…(*)
sông Đồng Nai dâng tuần tự nhịp mùa
trong tầng tầng nước kia có hàng triệu giấc mơ
thao thức…
4. Cho cạn nhẽ
Tôi
đã dừng bài viết ở những tứ thơ đẹp của bài thơ, nhưng lại thấy cần nói thêm
vài điều về những gì mà người đọc có thể còn lấn cấn. Ấy là nhan đề : Lời
Những Cây Dầu Cổ Thụ Ở Trụ Sở Ủy Ban Nhân Dân. Có hai chi tiết người ta
dùng nó để “làm khó” nhà thơ : Chữ “Ta” và cụm từ “ở trụ sở ủy ban”.
Bài
thơ của Đam Chu Văn lấy nhân vật chính làm nhan đề : Những cây dầu cổ thụ. Vì
thế mọi thông điệp tác giả gửi trong bài thơ nằm ở nhân vật này. Khi phát ngôn,
nhân vật xưng là Ta. Vậy Ta là ai?
Tuổi ta
nhiều hơn tuổi các uỷ ban
bao nhiêu lượt mùa xuân về không nhớ nữa
những toà nhà cao tầng có thể cao hơn ta nhưng vẫn cần sự che chở của ta
ta ủ rừng đại
ngàn trong từng thớ cây mạch rễ
Cần
lưu ý điều này. Bài Lời Những Cây dầu Cổ
Thụ ở Trụ Sở UBND nằm trong thi pháp thơ
kháng chiến. “Cái Ta” trong thơ kháng chiến là
nhân dân, là cộng đồng. “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp/ Giặc kéo lên
ngùn ngụt lửa hung tàn/ Ruộng ta khô
nhà ta cháy”(Bên Kia Sông
Đuống-Hoàng Cầm); “ Khi ta đứng lên cầm khẩu súng/ Ta vì ta ba chục triệu người/ cũng vì ba ngàn triệu trên đời”(Miền
Nam-Tố Hữu). Điều này xuất phát từ cách dùng từ của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong
Tuyên Ngôn Độc Lập :
” Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân
Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta.
hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt
đối không cho nhân dân ta một chút
tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật
pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở trung, nam, bắc để ngăn
cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều
hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu.”
Tôi trích hơi dài là để bạn đọc nhận ra Chủ
Tịch Hồ Chí Minh dùng chữ Ta với ý nghĩa rất phong phú. Chẳng
ai lại hiểu chữ “Ta” ấy là tác giả HCM, mà hiểu Ta là đồng bào, là nhân dân, là
dân tộc. Thơ kháng chiến đã kế thừa cách dùng từ này. Và vì thế chữ
“Ta” trong bài thơ Lời Những Cây dầu Cổ
Thụ ở Trụ Sở UBND cũng mang ý nghĩa ấy.Ta không phải là “cái tôi” cá nhân
tác giả.
Như
tôi đã minh giải ở trên. Những cây dầu cổ thụ được nhân hóa như người, và được
miêu tả bằng kiểu ngôn ngữ thực, không ám chỉ, không ẩn dụ. Đó là những cây dầu
cổ thụ gắn với đại ngàn, gắn với thời gian mênh mang. Đó là rừng đại ngàn với
nai, mễn, với đời sống hoang dã, bình an và hạnh phúc. Đó là đại ngàn gắn với
sông Đồng Nai như là nguồn sống. Hay nói bằng ngôn ngữ thời sự, những cây dầu
cổ thụ và không gian đại ngàn được vẽ ra chính là thiên nhiên, là môi trường thiên nhiên, đồng thời
cũng là những con người sống trong môi trường thiên nhiên ấy, là nhân dân (hàng triệu giấc mơ) trong trường kỳ lịch sử (“bao nhiêu lượt mùa xuân về”). Xin chú
ý chữ “mùa xuân” có hàm nghĩa rất hay, bởi lịch sử VN có những mùa xuân rất hào
hùng (Mùa xuân của Lê Lợi-Nguyễn Trãi thắng quân Minh 1428, Mùa xuân của Quang
Trung chiến thắng quân Thanh 1789, và mùa xuân CM, Đại thắng 1975). Nó cũng gợi
ra cái đẹp của cuộc sống và cái nhìn lạc quan tin yêu của tác giả. Bài thơ vừa
trữ tình, vừa có cảm hứng sử thi.
Cụm
từ “ở
trụ sở Ủy Ban Nhân dân” chỉ được dùng 2 lần, một lần ở nhan đề, một lần
ở câu đầu tiên, còn tuyệt nhiên không được nhắc lại trong bài thơ. Nó cũng
không được khai thác như một hình tượng chính để chuyển tải tư tưởng (hình
tượng chính là những cây dầu). Nói cách khác, đó chỉ là một cụm từ chỉ nơi chốn
phiếm chỉ, bởi tác giả không ghi rõ là Ủy Ban Nhân Dân nào : UBND xã hay UBND
Huyện hay UBND Tỉnh, và cụ thể là địa danh nào, vì thế, nếu có nghĩa thì đó chỉ
là nghĩa chung, không thể áp đặt rằng đó là UBND này hay UBND kia
Bây
giờ xin xác định mối quan hệ giữa những cây dầu với nơi chốn “ở trụ
sở UBND” xem , đó là mối quan hệ gì, và hàm nghĩa gì?
Xin
làm một phép thử. Nếu bỏ chữ “ở trụ sở UBND” đi thì ý nghĩa bài thơ và thông điệp của tác
giả trong bài thơ có thay đổi không?, thưa không, bởi mọi nội dung, tư tưởng,
thông điệp của bài thơ nằm ở nhân vật chính là những cây dầu, không nằm ở chữ “ở trụ sở UBND”. Chữ “ở trụ sở UBND” chỉ là một trạng ngữ chỉ nơi chốn, và vì thế
nhan đề ấy có thể bỏ chữ “ở trụ sở UBND”,
hay thay bằng ở nơi nào đó thì bài thơ vẫn nguyên vẹn nội dung tư tưởng.
Những
cây dầu ấy
là
nhân dân là môi trường thiên nhiên trong lịch sử, thì tất nhiên nó cao
hơn tuổi các ủy ban và cao hơn các tòa nhà cao tầng, nó có sức sống vĩnh cửu.
Đó là một chân lý. Điều thú vị là ở chỗ, những cây dầu “ở trụ sở UBND”, không
phải ở ven đường, ven sông hay ở trong thảo cầm viên. Bởi UBND là chính quyền
của dân, được dân ấp ủ, (điệp từ ủ)
được dân cưu mang và là niềm hy vọng của dân. Lịch sử CM đã đã hiển nhiên chân
lý đó : chính quyền CM là chính quyền của dân, do dân, vì dân . Nếu tác giả để
cho UBND chặt những cây dầu ấy đi, thì vấn đề sẽ rất trầm trọng, tức là chính
quyền lìa dân, chính quyền từ bỏ nhân dân. Cho nên “những
cây dầu cổ thụ ở trụ sở UBND” làm vững chắc hơn tư tưởng về chính quyền
cách mạng với nhân dân là một, được dân thương yêu tin cậy. Mọi cách hiểu tách
rời UBND ra khỏi nhân dân, đặt nhân dân trong thế đối lập với UBND (UBND với
cây dầu cổ thụ) đều là cách hiểu xuyên tạc và không thiện tâm.
Vì
vậy những lời của cây dầu cổ thụ có thể có hai góc độ, đó là lời của nhân dân nói với UBND, cũng là lời của UBND nói với mọi người, bởi cây
dầu ở trụ sở UBND, với tư cách là chủ nhân, thay mặt cho UBND, nếu cây dầu nằm
ngoài trụ sở UBND thì không thể thay mặt cho UBND được. Dù ở vị trí nào và hiểu
theo cách nào, thì thông điệp của bài thơ vẫn rất rõ ràng là tình yêu thiên
nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống sâu nặng của tác giả trong tầm vóc nhân dân
và lịch sử, có cảm hứng sử thi. Đồng thời tiếng nói của những cây dầu cổ thụ ấy
nhắc nhở mọi người (không chỉ là trách nhiệm của UBND) về trách nhiệm bảo vệ
môi trường, trách nhiệm với đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân, với những ước mơ và hy vọng. Nói cho cạn nhẽ thì
đó là tiếng nói trách nhiệm của tất cả chúng ta.
Tháng 7.2012
BÙI CÔNG THUẤN
__________________________________________
Bài này đã gửi cho NS Khánh
Hòa (Chủ tịch Hội VHNT Đồng Nai (15.07.2012), sau đó gửi cho tác giả Đàm Chu
Văn, và vài bạn văn khác. Nay nhân có bản tin của Tuổi Trẻ và Thanh Niên, BCT
công bố bài viết này để cùng bạn đọc xem
bài thơ “có vấn đề “gì. Dù sao góc nhìn của bài viết chỉ là một hướng tiếp cận,
mong được bạn đọc cùng chia sẻ. BCT
No comments:
Post a Comment