.thongtin img{width:24px;height:18px;margin:5px 5px -5px 0} .thongtin li{margin:10px 0 20px}

Saturday, April 27, 2013

VŨ TÚ NAM: TÔI THƯỜNG NGHĨ VỀ BẠN BÈ NHƯ VẬY

Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày Văn nghệ ra mắt bạn đọc, giở lại những trang nhật ký, tôi nhớ lại toàn bộ cán bộ công nhân viên của báo vào thời kỳ cuối năm 1970. Ban phụ trách báo khi đó gồm: đồng chí Hoài Thanh là chủ nhiệm, tôi là thư ký toà soạn, và hai uỷ viên ban biên tập là chị Cẩm Thạnh và anh Đào Vũ.

Những năm 70, báo Văn nghệ đã trải qua chiến tranh phá hoại ác liệt của Mỹ. Đầu cửa vào trụ sở 17 Trần Quốc Toản vốn nhỏ hẹp khi ấy, chúng tôi phải cho xây một hầm trú ẩn nổi cũng bé nhỏ tối tăm, mỗi người được mua một cái ghế gỗ (giá hai mươi đồng, do phòng hành chính trị sự quy định) để ngồi bệt trong hầm khi báo động. Mỗi phóng viên chính của báo được cấp một mũ sắt; bác Nguyễn Tuân là cộng tác viên đặc biệt cũng được cấp mũ sắt, với chiếc mũ này bác Nguyễn đã xông xáo viết những bài ký nổi tiếng Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. 
Lái xe Đinh Xuân Châu đã nhiều lần gan góc trương cờ “báo chí” cho xe commăngca đít vuông vượt cầu phao sông Hồng trong khi máy bay Mỹ gầm rú. Sau này, năm 1973, Châu đã đưa một đoàn gồm tôi, chị Cẩm Thạnh, các anh Bùi Hiển, Ngô Văn Phú vào vùng Quảng Trị mới giải phóng. Nhớ lại ngày đó có đoạn gặp phải đoạn đường nhiều mìn, Châu phải lái chậm, căn theo vết xe đã đi trước, rất căng thẳng. Sau này anh Đinh Xuân Châu đã mất vì bệnh ung thư. Hôm đến nhà thăm khi anh bệnh nặng, bụng trướng to, anh nắm tay tôi trào nước mắt. Tôi không khi nào quên những kỷ niệm đối với anh Châu cũng như các đồng chí lái xe khác ở Hội Nhà văn sau này.
Đấy là kỷ niệm trong chiến tranh. Còn về mặt nghề nghiệp, báo Văn nghệ khi đó đã gặt hái được những thành tựu đáng kể. Mở cuộc thi thơ mà những người được giải cao đều ở chiến trường, gia đình và bạn bè lĩnh giải hộ. Đó là Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm… Nguyễn Duy từ xa đã đọc thơ dự thi qua điện thoại cho Hữu Nhuận chép. Tổ thơ hồi đó gồm nhà thơ Phạm Hổ là tổ trưởng, các biên tập viên khác có anh Vĩnh Mai và chị Xuân Quỳnh... Thời gian nghiệt ngã đã tiễn đưa tất cả các thành viên tổ thơ ngày ấy về với vĩnh hằng. Tổ văn xuôi năm 1970 gồm anh Võ Huy Tâm là tổ trưởng, cùng các anh chị Nguyễn Thị Ngọc Tú, Xuân Trình, Hoài An, Trần Hoài Dương, Văn Ngọc, Ngô Ngọc Bội là các biên tập viên. Cho đến hôm nay chỉ còn lại chị Ngọc Tú yếu đau và anh Ngô Ngọc Bội vẫn khoẻ. Riêng anh Văn Ngọc ở Nam Bộ xa xôi, tôi không có liên lạc, chỉ nhớ hồi đó anh nhiều tuổi, sức yếu, rất hiền lành và tận tuỵ công tác.
Tổ lý luận - phê bình do anh Khái Vinh là tổ trưởng, có chị Thiếu Mai và anh Trang Nghị. Nhiều người làm báo Văn nghệ thời đó hẳn vẫn nhớ tiếng cười hơ hớ của Trang Nghị khi có chút rượu vào... Còn tôi vẫn nhớ tiếng cười của anh vào một đêm trăng năm ấy, khi mấy anh em theo thuyền câu mực ở vịnh Hạ Long. Thuyền ra tít biển xa, chúng tôi vừa câu vừa ăn mực, uống rượu…
Thời gian khắc nghiệt lại đã “xoá sổ” tổ lý luận - phê bình, cắt đứt tiếng cười hả hê của Trang Nghị và những lo toan công việc của Thiếu Mai, Khái Vinh.
Các anh Nguyễn Tuân (mỹ thuật), Nguyễn Thành Đại (sân khấu), Hồng Phi (sân khấu), Trung Sơn (điện ảnh), Phan Thanh Nam (âm nhạc) luân phiên nhau phụ trách tổ nghệ thuật. Công việc rất đều đặn hàng tuần. Hiện nay chỉ còn anh Trung Sơn tóc bạc phơ lủi thủi một mình (vợ anh là chị Đoan ở phòng hành chính trị sự báo, mất đã lâu) và nhạc sĩ Phan Thanh Nam ở tận Sài Gòn. Tổ mỹ thuật trình bày có hoạ sĩ Nguyễn Bích là tổ trưởng, các anh Phạm Hữu Trí, Lê Chính làm mise, và chị Kim Oanh. Anh Phất (khắc gỗ) và anh Nguyệt Diệu (chụp ảnh) ở ngoài biên chế báo. Vài năm gần đây, tôi thường được gặp anh Diệu ở cuộc liên hoan báo đón xuân mới. Anh Nguyễn Bích, chị Kim Oanh… đã mất, còn các anh chị khác không thật rõ tin tức. Tôi vẫn nhớ từng nụ cười của các anh.
Tổ thời sự do nhà thơ trào phúng Nguyễn Đình làm tổ phó. Có thêm các anh Hữu Nhuận và Ngô Sinh Nhựt. Hữu Nhuận cho đến nay vẫn bền bỉ sưu tầm, tìm kiếm tư liệu văn học. Còn anh Nguyễn Đình đã mất vì bệnh ung thư, không kịp chờ đến ngày giải phóng miền Nam. Tôi nhớ mãi hình ảnh anh Nhựt, là thương binh, cụt một tay, rất tận tuỵ công tác.
Nhắc đến phòng hành chính trị sự của báo là nhớ trưởng phòng Phan Thắng, cán bộ tập kết, sống lẻ loi xa gia đình. Anh là người đã lo cơm áo gạo tiền cho anh chị em, lo nhà in và giấy in cho báo. Sau giải phóng, anh đã về miền Nam đoàn tụ gia đình. Phòng hành chính trị sự thời ấy còn có các chị Thịnh, chị Đoan, chị Nhi, chị ả. Các chị đều hiền lành, chăm chỉ làm việc. Anh Địch và anh Quyền đánh máy cho báo; hồi ấy làm gì có máy vi tính! Các anh đánh máy thật giỏi. Người làm công tác liên lạc cho báo là anh Văn Kim Từng, người dân tộc thiểu số. Anh rất thật thà, chăm chỉ. Với chiếc xe đạp tòng tọc, anh đi khắp nơi quanh Hà Nội. Anh thường cười nheo nheo đôi mắt, xưng “mình” với tôi và bác Hoài Thanh. Có lần anh bảo tôi: “Mình vừa ở chỗ Hoài Thanh về”(!) Mỗi lần anh đến nhà, tôi thường mời anh ăn kẹo và uống trà. Anh ăn uống hồn nhiên như trẻ thơ. Thế mà Văn Kim Từng sau này đã có cái chết bi thảm vì bị bệnh trầm cảm. Cơ quan thương tiếc anh, nhận con gái anh vào làm việc sau đó.
Thời gian trôi qua thật nhanh. Ban phụ trách báo Văn nghệ năm 1970, nay chỉ còn tôi và chị Cẩm Thạnh. Bác Hoài Thanh và anh Đào Vũ đã ra đi cả rồi. Mới ngày nào, mùa đông 1972, tôi còn trẻ đội mũ sắt trực chiến cùng anh em báo trong 12 ngày đêm chống B52. Đến nay tôi đã 85 tuổi. Trí nhớ đã kém đi, phải nhờ đến nhật ký mới hình dung lại được những năm 70 ấy. Nhưng với các anh các chị đã cùng làm báo với tôi, dù đã mất hay đang sống, tôi luôn nhớ tới với lòng biết ơn chân thành và sự quý mến của tình đồng nghiệp.
Mỗi đời người có sự đóng góp không ai có thể thay thế. Mỗi con người mang những niềm vui và khổ đau chẳng giống với ai. Tôi thường nghĩ về bạn bè như vậy.
VŨ TÚ NAM 
(Nguồn: Văn nghệ số 16/2013)

No comments:

Post a Comment