Nghe nói ông thường lang thang đây đó, trong thành phố
hay bên bờ biển, hàng dương. Những câu thơ trỗi dậy bất ngờ, tưởng như trên
trời đậu trên vai ông. Ông ghi lại rồi cho lại bạn bè, hay đổi lấy rượu uống.
Thế là ông say. Ông đọc thơ, vừa đọc vừa ứa nước mắt, ngất ngưởng trở về nhà
khi trời đã tối.
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn nói về lý số |
Cuộc gặp gỡ không bình
thường
Mới đây, khi đến thành phố
Phan Thiết, tôi nhờ nhà thơ trẻ La Văn Tuân đưa đi gặp nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn.
Cho dù La Văn Tuân đã nói trước là vợ nhà thơ rất khó tính, nhưng tôi cũng
không thể hình dung bà lại lạnh lùng đến thế. Tôi là kẻ lạ mặt ở thành phố này,
nên bà lại càng đắn đo, dè dặt và không chịu mở cổng cho vào.
Cùng với đó là ba con chó
đều xông ra sủa rất ầm ỹ. E chừng cuộc gặp không hẹn trước này khó mà thành
được, nên tôi định cáo lỗi, thì may sao nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn từ trong vườn đi
nhanh ra chào tôi và La Văn Tuân. Ông đon đả, tự xưng là “tiểu đệ” và gọi tôi
là “đại huynh”, rồi mời vào nhà cho dù chưa hề biết tôi là ai.
Nhìn ông gày gò, dáng đi
lật đật ở tuổi 70, tôi bỗng nhớ những câu thơ ngất ngưởng của ông: “Nhà
thương điên nếu còn chỗ trống/ Xin chiếc giường cho xác tàn phai”. Khi đến
bàn nước, tôi thấy bày la liệt những sơ đồ bát quái cùng những cuốn sách về
Kinh Dịch, trong đó có cuốn Bùi Giáng đười ươi chân kinh, mới phát hành
năm 2012.
Ông cười vui, chỉ vào bản
vẽ sơ đồ bát quái rồi nói, đó là một công trình về y số mà ông đã bỏ công
nghiên cứu hơn mười năm qua, để tự chữa bệnh cho mình và giúp mọi người. Thấy
tôi tỏ ra hơi ngỡ ngàng, ông giải thích ngay, cơ thể con người ta cũng là một
cấu trúc số hóa, vậy hãy gọi tên của các căn bệnh bằng những con số, theo Kỳ
kinh bát mạch để tu luyện, để thiền. Và nó đã được mã hóa theo những con số mà
ông vẽ nên Đối xứng nhập cung…
Tôi nghe ù cả tai, mang
máng nhận ra thần ý từ ông, và quả nhiên ông bắt tôi ngồi im trên ghế, và ông
đọc tên bệnh của tôi theo những con số. Trong lúc nhắm mắt, nghe ông đọc những
con số vang lên tưởng như đọc thơ vậy. Không hiểu sao lúc này tôi lại tưởng
tượng ông đang mặc áo lính, trên vai đeo cây súng và vỗ vai thằng bạn, rồi đọc
vang lên những câu thơ nổi tiếng một thời:
“Mai ta đụng trận ta còn
sống,
Về ghé sông Mao phá phách chơi.
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm,
Vung tiền mua vội một ngày vui”.
Về ghé sông Mao phá phách chơi.
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm,
Vung tiền mua vội một ngày vui”.
(Mật khu Lê Hồng Phong).
Âm sắc khê khàn của ông vẫn
vang lên. Những con số bí ẩn đang muốn gọi tên bệnh trong cơ thể tôi. Thời
gian! Ôi thời gian…mới đây mà đã bốn mươi năm, khi những câu thơ phản chiến của
ông còn vang lên như sự chia sẻ trong bất lực: “Trong thành phố này ta là
người phản chiến/ Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu/ Râu tóc mọc dài như bầy cỏ
loạn/ Sống thật âm thầm, ai hiểu ta đâu”.
Hết thời gian. Theo đúng
yêu cầu của ông. Tôi mở mắt. Đến lúc này người vợ khó tính của ông mang ấm trà
ra với nụ cười ấm ấp và ánh mắt dịu dàng hơn bao giờ hết. Tôi đang vẩn vơ với
những hình ảnh, thì nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn đưa tôi về hiện tại, khi ông nhìn
sắc mặt của tôi và hỏi rằng, có thấy đặc khí ở đan điền không và ông nói tôi bị
bênh đau dạ dày lâu năm rồi. Tôi ngớ người, và không hiểu sao ông chỉ bằng cách
đọc những con số, và nhìn thần thái của tôi tức thì, sau nhịp thở để đoán bệnh.
Tôi nghĩ đó là điều kỳ bí và rất hiện đại trong việc vận dụng lý số hay niệm số
gì đó, trong y khoa. Tôi khâm phục ông.
Một thân phận kỳ lạ
Người trong thành phố kể,
ông đã từng tự tử tới bốn lần mà không chết. Lần thứ nhất, khi mới 15 tuổi, cậu
bé Hải (tên khai sinh của nhà thơ) đã lên nghĩa địa, cắt đứt mạch máu cổ tay,
rồi nằm chờ chết. Nhưng có người đã tình cờ cứu thoát. Rồi tới ba lần nhảy lầu
mà cũng thoát nạn. Có lần bị lục vấn, khi nằm trong nhà thương thì ông chỉ vô
tư kể rằng, mình cảm giác có cánh, muốn bay lên không trung, thế là từ lan can
ban công nhảy lên thôi, không thể nghĩ rằng mình sẽ rơi xuống đất. Chính vì sự
mộng du kỳ dị ấy chăng mà ông có những câu thơ đầy ám ảnh:
“Ta sống ở đời như một
kẻ nhàn du
Trôi qua ngày, trôi qua tháng
Trôi trên cuộc đời huyễn mộng
Trôi từ chiếc nôi ra đến nấm mồ”.
Trôi qua ngày, trôi qua tháng
Trôi trên cuộc đời huyễn mộng
Trôi từ chiếc nôi ra đến nấm mồ”.
(Chân dung tự họa).
Hoặc ngay khi thể hiện thái
độ phản chiến, trong thơ ông cũng đầy chất quái dị, bất thường:
“Ngày hôm nay ta muốn
chặt đi bàn tay trái/ Để được làm người theo ý riêng ta/ Ngày hôm nay ta muốn
chọc mù con mắt phải/ Ngày hôm nay ta muốn bỏ đi xa”.
Nhưng có lẽ, sự phản kháng
mạnh mẽ của ông còn bắt nguồn thêm từ câu chuyện của người cha mà ông rất
ngưỡng mộ. Cha ông được ra Bắc tập kết năm 1954 để hoạt động cách mạng; sau này
trở về Nam đã trở thành Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu 6. Còn ông thì bị
bắt lính, năm 1962, khi ấy 19 tuổi và bị điều động theo một sĩ quan Mỹ làm
phiên dịch tại mặt trận Sông Mao ở Bình Thuận.
Dường như dòng máu và cốt
cách của người cha đã để lại trong ông nên chỉ vài năm sau, ông bỏ trốn về nhà
dạy học. Ông lấy bút danh Nguyễn Bắc Sơn cũng là thể hiện tình cảm đối với người
cha, ghi dấu bằng một địa danh cách mạng nổi tiếng ở miền Bắc. Nhưng rồi khi
cuộc chiến trở nên gay cấn hơn, ông lại bị bắt nhưng vì sức khỏe yếu, nên ông
được biên chế vào làm y tá, với chức danh hạ sĩ quân y.
Vậy là có những lúc ông
nghĩ về người cha ở phía bên kia chiến tuyến, với bao nỗi giằng xé và chua xót.
Ông tìm mọi cách xa lánh cuộc đụng độ và âm thầm dồn mọi bức xúc và bế tắc vào
rượu và những vần thơ, trong căn hầm chiến dịch:
“Khi các con khôn lớn
thể nào cũng nghe kể chuyện đời ba
Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn
Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng
Ba bắt đầu thương nhớ các con ba”.
Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn
Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng
Ba bắt đầu thương nhớ các con ba”.
Viết cho các con tôi.
Hay ngay tại nơi đóng quân Mật
khu Lê Hồng Phong, nhà thơ còn viết: “Ngày vui đời lính vô cùng ngắn/
Mặt trời thoắt đó ở phương Tây/ Nếu ta lỡ chết vì say rượu/ Linh hồn chắc sẽ
biến mây bay”. Hoặc giọng thơ ông có lúc ngang tàng, bất cần đời: “Khi
nâng chén lên cao ta muốn cười lớn tiếng/ Cười lên đi những tiếng bi hùng/ Đời
đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính/ Chiếc mai rùa đã nặng ở trên lưng”. (Cười lên đi
tiếng khóc bi hùng). Hay ông còn tự thán: “Đời mình như ly rượu cạn/ Hắt toẹt
đời đi chẳng nhíu mày”. (Tha lỗi cho tôi).
Chuyện tình huyền thoại
Chúng tôi đang say sưa với những
vần thơ, thì bà Xuân Hồng, vợ nhà thơ, mang đĩa bánh ngọt ra mời. La Văn Tuân
có lần nói với tôi, bà từng là một giọng ca hay, thường được phát trên sóng Đài
Phan Thiết, hay ở Sài Gòn cùng thời với ca sĩ Thanh Thúy lừng danh, vào thập
niên 60. Giờ đây có lẽ bà không còn e ngại như lúc đầu, bởi bà sợ tôi cũng
giống như mấy người, hễ đến là rủ chồng bà đi uống rượu. Tôi bất ngờ nhận ra,
người đàn bà mà ông cả đời phải nương tựa, suốt 50 năm qua, thật nhân hậu, dịu
dàng nhường bao. Người mà ông viết trong bài Nhị hồng là đó ư? Những câu
thơ hay đến xót lòng: “Ta về với nhau vợ chồng không đám cưới/ Khi em thành
sương phụ áo màu đen/ Anh bán đi chồng sách quý nuôi em/ Cuộc tình hai ta cũng
buồn quá đỗi”.
Hình ảnh “Sương phụ áo
màu đen” của ông đã gợi cho một nhà văn viết nên câu chuyện tình éo le. Một
người vợ sau khi lấy chồng, thường vận áo màu đen với ý nghĩa để tang cho một
cuộc tình đã mất, trước đó của mình. Nhưng điều đó đã đem lại một bi kịch tâm
lý cho người chồng, trong suốt phần đời còn lại, luôn luôn bị ám ảnh và đau
khổ…
Còn chuyện tình của hai vợ
chồng nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn lại kỳ bí qua những câu thơ hết sức dị thường, với
phong cách thơ phóng túng và có phần “du đãng”, đúng như tác giả tự nhận về
phần mình: “Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột/ Ta quàng xiên nên mới sa chân”.
Viết cho vợ ông còn có những câu tinh tế hơn: “Vì đàn bà người nào cũng như
người nấy/ Nên ta bảo mình thôi hãy quên em/ Nhưng đàn bà đâu phải người nào
cũng như người nấy/ Nên suốt đời ta nhớ nhớ, quên quên”. (Mai sau dù có
bao giờ).
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn là
thế đó, ngang tàng, bất cần đời những cũng rất biết trân trọng tình cảm và chân
thành với cuộc sống. Chẳng vậy mà ông luôn luôn cho đi, tặng quà cho mọi người,
thơ cho mọi người; kể cả tiền, những đồng tiền cuối cùng của mình cho những
người nghèo, những em bé hành khất, mặc dù lúc đó bụng mình còn đói meo. Ông
chỉ cười với đôi mắt sáng và dồn hết tâm trí vào chuỗi những con số và tu luyện
Kỳ kinh bát mạch, cốt giúp cho mọi người tai qua nạn khỏi. Ông coi đó là
lòng thành và muốn cảm ơn, vì đã nhận từ lòng hảo tâm của trời đất, ban cho
mình hạnh phúc; một đám cưới vàng đem lại sự giàu có trong cái quán vô thường
của tâm hồn thơ ca.
VƯƠNG TÂM
ReplyDeleteThơ Vinh Danh Tù Nhân Lương Tâm Trương Văn Sương
Tù nhân Bất khuất Trương Văn Sương
Hơn ba mươi năm ròng rã… ngục trường
Gang thép đấu tranh đòi cải thiện
Chế độ lao tù lũ quỷ vương
Trại giam Nam Hà buồng số 6
Biệt giam đọa đày Lương tri Việt Nam
Khắc nghiệt cùm chân người tử tội
Hàng chục năm người tù chết dần mòn
Chúng giam Đứa Con Ưu Tú của Tổ Quốc
Như con thú nhốt trong lồng cũi chút nước cơm
Ngục biệt giam liệt hai chân sống ngắc ngoải .. ..
Máy ảnh quan sát 24/24 giờ tù nhân trong buồng
Hỏa ngục Trần gian Nam Hà :
Đày đọa Người Con tỉnh Sóc Trăng !!
Nguyễn Hữu Viện
Tù nhân Bất khuất Trương Văn Sương đã từng là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà trước đây. Anh Trương Văn Sương quê ở Chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng bị bắt vào khoảng năm 1977 như vậy tổng số thời gian ở tù của anh cũng đã ngót trên 30 năm ròng rã…
Anh là một người tù chính trị không thể khuất phục được, một con người gang thép. Anh luôn dẫn đầu các cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ sinh hoạt trong lao tù.
Anh Trương Văn Sương đều là người đứng đầu đấu tranh và ban giám thị trại Nam Hà phải điều hàng chục binh sĩ và cán bộ công an xuống khoá tay, đưa anh đi cùm biệt giam ở nhà kỷ luật.
Và như vậy anh Sương ở trong buồng giam số 6 suốt hơn chục năm cứ thế trôi đi, cuộc đời của những người tù mòn mỏi, chết dần, chết mòn theo năm tháng. Những người tù trong cảnh ngộ như vậy chẳng khác nào như một con thú bị nhốt trong lồng cũi quanh năm với chút cơm, nước, rau để tồn tại ngắc ngoải..."
Nhà báo Tự do Nguyễn Khắc Toàn từng viết « Chuyện kể năm 2006«
« Tôi đã từng ở những buồng biệt giam như thế này gần 2 năm, đó là thời kỳ ở trại B14 Thanh Liệt Hà nội 16 tháng và ở khu biệt giam kỷ luật, cùm chân phân trại III trại giam Nam Hà gần 4 tháng. Nên tôi biết rất rõ sự khắc nghiệt và khổ sở đến cùng cực của sự đày đoạ trong ngục tù như thế. Trong hoàn cảnh bị giam cầm khốc liệt như vậy, nếu người tù không chịu vận động, tự tập thể dục, tự đi lại thì chỉ sau một thời gian ở khu biệt giam này hầu hết sẽ bị liệt hai chân. Sau khi được ra khỏi khu biệt giam, muốn đi lại phải bám vịn vào tường, hoặc có người khác dìu, mất gần nửa năm trời mới đi lại bình thường được… »
« Buồng giam số 6 và khu giam đặc biệt buồng 17 nói trên có lắp camera quan sát, theo dõi mọi động tĩnh 24/24 giờ của tù nhân trong buồng »