Đối với các nhà thơ sáng tác trường ca và công chúng của ngày hôm qua trong lịch sử thời chống Mỹ đều cảm thấy rằng mình phải ngợi ca, phải viết như vậy, không thể khác hơn.về những chàng trai qủa cảm của thời đại .Hình tượng người chiến sĩ đã được các nhà thơ xây dựng trong trường ca vừa thực lại vừa giàu chất thơ nên lung linh, sống động, vừa rất đỗi bình dị mà cũng rất đỗi anh hùng. Trường ca thời chống Mỹ đã xây dựng hình tượng đẹp đẽ của các anh chiến sĩ hết lòng yêu thương lo lắng cho mẹ, thương nước thương dân, biết hy sinh tình cảm riêng tư kiên cường đánh giặc trong tư thế đàng hoàng, đĩnh đạc và rất lạc quan.
Trần Mạnh Hảo với Mặt trời trong lòng đất đã miêu tả hộ nỗi lòng chiến sĩ khi nghĩ về người vợ, người mẹ trong ngày đưa tiễn: Đâu rồi vợ anh dưới vòm cây so đũa/ Tiễn anh mà không dám đi ngang/ Má ở nơi đâu sau quầng bom lửa/ Chân trời bay một tấm khăn rằn..
Sự nhớ nhung có khi khiến các anh cần tâm sự và Hữu Thỉnh đã để anh tâm sự với dòng sông. Lời tâm sự ấy đong đầy tình thương yêu dào dạt: “Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre/ Phơi nỏ sẵn dành sưởi đêm cho mẹ/ Sông ơi sông nếu ta phải ra đi/ Bậc thấp xuống cho em ra gánh nước/ Xin bát canh đến tay mẹ lúc còn nóng/ Xin mùa đông đừng dài” (Đường tới thành phố)
Nỗi nhớ mẹ già là tình cảm da diết mà ta có thể bắt gặp trong bất cứ trường ca nào có xây dựng nhân vật người lính: “Nỗi nhớ mẹ già nỗi nhớ đắng cay/ Tấm lưng mẹ cầu vồng qua tháng năm con gái/ Nước mắt bay qua dấu tích nụ cười.” (Thu Bồn - Quê hương mặt trời vàng), hay trong Bài ca chim Chơrao, Thu Bồn đã khắc họa hình tượng các anh tâm sự nhỏ to cùng mẹ: Mẹ ơi! Con vẫn ở giữa lòng đất nước/ Trời nắng thiêu nghe rìu mẹ chém cây
Các anh là người chiến sĩ của đồng bằng, của miền Nam, miền Bắc. Các anh cũng là người chiến sĩ Tây Nguyên rừng núi đi về phương Nam. Các anh là Đam San thời đại. Các anh là con của cha mẹ Rồng Tiên đi tìm giặc Mỹ mà đánh dẫu rằng còn vô vàn gian khổ: “Trận mùa khô đánh Mỹ/ Quân ta thiếu cơm, thiếu súng, thiếu cả người” (Thu Bồn - Bazan khát)
Các nhà thơ thời chống Mỹ xây dựng nhân vật người lính
bao giờ cũng làn những người lính biết ơn mẹ sinh thành: “Chúng tôi
biết ơn bà mẹ nghèo làng Gióng/ Đã nuôi con lam lũ nhọc nhằn”… / Mẹ ngồi đó đêm
mưa ngày nắng/ Mẹ ngồi đó một thời bom đạn. (Nguyễn Đức Mậu - Trường
ca Sư đoàn). Các anh đi vào cuộc trường chinh đầy gian lao vất vả, lắm
niềm vui đồng đội cũng không nguôi thương nhớ quê nhà, nơi có bà mẹ già tóc bạc
trắng như mây trời: Khói lên nhớ một dáng nhà/ Mây in tóc mẹ trời xa bay về.
Trong trường ca thời chống Mỹ, chiến tranh và bom đạn
là cái nền để những hình tượng con người, thế giới của con người giàu
lòng vị tha, đức dũng cảm, nghĩa tình thủy chung, chịu đựng gian khổ hy sinh
hiển hiện. Thế giới mà ở đó con người quyết vượt lên sự tàn phá hủy diệt để
tồn tại, phát triển với vẻ đẹp sáng ngời.
Trong trường ca Những người đi
tới biển của Thanh Thảo, hình tượng người lính là hình tượng trung tâm xuyên suốt.
Với bản trường ca dài ngót 1250 câu, Thanh Thảo muốn phản ánh cuộc hành trình
“đi tới biển” của dân tộc ta. Trong trường ca, hình tượng người chiến sĩ
hiện lên mồn một và phong phú bởi đó là nhiều mảnh đời, nhiều
cảnh đời riêng lẻ đã hoà nhập vào nhau làm nên dáng dấp những con người đầy
khí thế, sung sức, trẻ trung: Chúng con đi từng trận gió rừng/ Cả thế hệ
xoay trần đánh giặc/Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua sông. Mang lý tưởng chiến đấu
của thời đại, lại là người tham gia chiến đấu
nên Thanh Thảo có cách sống và cách nói của người trong
cuộc thật đến ngọn nguồn.
Các anh gửi lại tuổi trẻ học đường, gửi lại kỳ hè, gửi
lại những cuốn sách đang đọc dở và: “Con gửi lại sau lưng/ Những ước mơ nhà
văn, bác học/ Để nhận lấy cánh rừng/ Để nhận lấy dãy Trường Sơn dựng dốc”.
Các anh không có quyền lựa chọn nếu muốn được làm người đúng
nghĩa lúc Tổ quốc gian nguy:Người ta không thể chọn để được sinh ra/ Nhưng
chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy (Thanh Thảo - Những người đi
tới biển)
Thanh Thảo đã khắc sâu lý tưởng của người chiến sĩ
tuổi đời còn quá trẻ trong vài câu thơ nhưng tính chính luận triết lý như
một chân lý: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (Nhưng tuổi hai mươi làm
sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ
quốc?”.
Những chi tiết rất thực, rất đời thường đã góp phần khắc họa hình tượng người chiến sĩ
sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hiểm nguy vì sự sống còn của đất nước.
Các nhà thơ sáng tác trường ca - nhà thơ chiến sĩ
- có thể gọi là cái tôi chứng nhân của lịch sử, cũng là những người trong
cuộc hoàn toàn sát cánh với cuộc chiến và các hình tượng nhân vật khác rất tiêu biểu,
rất tự nhiên, rất bộn bề trong trường ca. Tất cả những chân dung ấy làm thành
một chỉnh thể mang sức khái quát cao về nhân dân, làm thành cái hơi thở mát mẻ
toát ra từ trung tâm cuộc sống mang tính sử thi hiện đại.
Hữu Thỉnh có trường ca Đường tới thành phố. Sự
từng trải của
người viết đã giúp anh dựng chân dung người chiến sĩ chân thực và sống
động. Những trang viết của anh do đó có sức chinh phục. Cả năm chương của
trường ca tổng cộng hơn 1500 câu đều tập trung xây dựng hình tượng trung tâm là người chiến sĩ
bằng một chất thơ trầm tĩnh, sâu lắng, dạt dào chất trữ tình, có sức rung động
cao. Trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính và những
năm tháng chống Mỹ, anh sát cánh cùng binh chủng thiết giáp, sống thực sự giữa
lòng cuộc
chiến đấu của dân tộc. Vì vậy “hình tượng người lính và hiện
thực lớn lao sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng chủ
đạo cho các sáng tác của anh” (Lưu Khánh Thơ).
Thơ và nhất là trường ca của thế hệ chống Mỹ cứu
nước là tiếng nói sống động tự tin của những người trong cuộc. Chính nhà thơ chiến sĩ
là người khắc
họa chân dung đồng đội mình rõ nét nhất, thực nhất, tình cảm nhất. Riêng Trần
Mạnh Hảo, anh đã chọn một vùng đất rất đặc biệt để miêu tả lại cuộc chiến đấu
khốc liệt để giành sự sống mà ngày nay, tham quan vùng đất trong lòng đất này
ta lại càng thấm thía những ước ao, những tâm tư thầm kín mong được sống
dưới ánh mặt trời của nhân dân Củ Chi. Sự hiểu biết khá tường tận về con người và mãnh đất
Củ Chi cùng cảm xúc phong phú, mãnh liệt, cuồn cuộn và sự tài hoa
đã giúp Trần Mạnh Hảo chọn những hình tượng thơ cụ thể. Với trên hai ngàn câu
thơ, tác giả đã khắc họa khá thành công chân dung của những người du
kích Củ Chi - linh hồn của cuộc chiến đấu: “Các anh có thể rút bình yên vô
đất/ Nhưng suốt đời các anh chẳng bình yên/ Cái day dứt của người lùi
trước giặc/ Thà anh chết một nghìn lần thư thái/ Còn hơn sống nghìn năm dằn
vặt, giày vò”.
Họ là những con người không cần băn khoăn lựa chọn giữa sống và chết, chiến đấu
để được sống trên mặt đất, được sống dưới ánh mặt trời. Không có quan niệm mới
về con người thì
không thể có được hình tượng bình dị, cao cả ấy trong thơ.
Trong Những người đi tới biển (Thanh Thảo), các anh chiến sĩ
chia ngọt xẻ bùi lúc gian khổ lẫn lúc thư nhàn. Lòng yêu cuộc sống thể hiện ở “ba
mươi phút nữa hành quân,/ được cười vang, nằm lăn trên cát ấm/ được ngụp hết
mình lòng sông đẫm,/ được bè bạn với đá với trời xanh với rừng/ được nín thở
hồi hộp cùng chú bói cá,/ được làm con trai không phải giữ gìn”. Cái tôi
của Thanh Thảo được hòa nhập vào hình tượng những chàng lính trẻ: “Chúng
tôi những thằng lính trẻ/ Lớn lên khắp trăm vùng gọi nhau là đồng đội/ Đi chiến đấu
ngủ bụi nằm bờ đầu nguồn cuối bãi”.
Đội ngũ sáng tác trường ca đã tiếp cận cuộc sống hiện
thực và đã
miêu tả cái hiện thực vào thơ không bớt phần gay go, ác liệt,
mà có khi còn mạnh mẽ hơn để truyền lửa cách mạng cho người tiếp
nhận bằng một ngòi bút thực sự có tấm lòng, có trách nhiệm. Từ hình ảnh “lũ
chúng tôi bọn
người tứ xứ” (Hồng Nguyên - Nhớ) đến hình ảnh người chiến sĩ
“Được ra trận những năm đất nước mình khốc liệt” (Thanh Thảo - Những người đi
tới biển) là một bước tổng hợp mới trong nghệ thuật sáng tạo giữa cụ thể và khái
quát, giữa hiện thực và lãng mạn, và trường ca đã thể hiện khả năng khái quát
mạnh, khái quát một giai đoạn lịch sử, khái quát những vấn đề chính
yếu của dân tộc, khái quát về một thế hệ, về lương tâm thời đại.
Người chiến sĩ trong Những người đi
tới biển được Thanh Thảo khắc họa hình tượng có sức khái quát điển hình từ
những nấm mồ yên nghỉ.. Sự hy sinh của người chiến sĩ được Thanh Thảo gọi tên thật là xúc
động: Ngày dân tộc trở về đường số một/ Lòng không nguôi thương những cánh
rừng này/ Nơi những đứa con nằm lưng đèo cuối dốc/ Dọc theo lối mòn chìm khuất
dưới rừng cây/ Nếu một ngày ta dựng những hàng bia/ Xin hãy để “nơi đây những
cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ”.
Chiều sâu và sức rung động của những vần thơ trong
trường ca bởi sự suy nghĩ chân tình. Trường ca vốn không chỉ nói về người lính
mà còn qua họ nói về cả một thế hệ tự ý thức về mình, về lịch sử, về nhân dân.
Đó là sự tự nhận thức hết sức sâu sắc đạt đến độ sâu ít thấy trong thơ chống
Mỹ. Đời sống chiến đấu của các anh là cả một chuỗi dài gian
khổ mà chỉ những người trong cuộc như các chiến sĩ
nhà thơ mới nhìn hết được. Nếu viết về chiến tranh mà bỏ qua những hy sinh lớn lao của dân
tộc đã chịu đựng để giành thắng lợi là không đúng thực tế. Văn học của thời
chống Mỹ đã không hề bỏ qua hoặc tránh né những đau thương mất mát của chiến tranh. Thế
nhưng hy sinh không thể đi đôi với bi thương, yếu đuối. Trường ca sử thi hiện
đại đã làm được điều ấy.
Hình ảnh nắm cơm cháy trong Đường tới thành phố của
Hữu Thỉnh gợi cho ta về sự hy sinh cao cả của người chiến sĩ lái xe tăng: “Đen chỉ còn một nửa/
Có dấu tay in lõm vào trong/ Ngón tay bè của đồng chí lái/ Các
anh ăn nửa bữa trong ngày/ Phần để dành/ Làm ta day dứt mãi”. Đây là một
chi tiết giàu tình cảm, giàu sức lay động. Trần Mạnh Hảo cũng đã hiểu được nỗi
thương mẹ dạt dào và tình yêu dành cho người vợ
hiền sẽ góa bụa của các anh trước giờ phút hy sinh mới có thể nói hay đến
như vậy: “Má của con ơi khi con nhắm mắt/ Chính là khi con thương người nhất/…
Con thương má chẳng thể về với má/ Để đẵn cây dựng tạm một túp lều/ … Anh
thương em rồi cô độc/ Một mình em hời giận buồn vui/ Ngôi sao kia còn tìm đôi
để mọc/ Một vầng trăng góa bụa ở ven trời” (Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong
lòng đất).
Bài ca chim Chơra (Thu Bồn), là bản trường ca
phản ánh mối đoàn kết chiến đấu giữa người Kinh
va Thượng nên chất hùng tráng, chất trữ tình lại càng tô đậm thêm hình tượng
anh hùng Trong trường ca, cái chết của Hùng và Rin được thắp sáng bằng hình ảnh đối lập
giữa hình tượng người anh hùng và kẻ
thù. Nhân vật được khắc họa có kích thước tầm vóc theo khuynh hướng cách
điệu hóa: Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ/ Bay đừng hòng khuất phục
đời ta/ Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy/ Trong ánh lửa
hồng ta xuất hiện một vòng hoa
Các trường ca đã xây dựng được hình tượng người chiến sĩ
nhân dân - một kiểu người lính hoàn toàn mới trong lịch sử dân
tộc. Các anh là những con người được kết tinh từ chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của dân tộc và bản chất của con người mới
xã hội chủ nghĩa. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh hạnh phúc cá nhân, và đến
trước phút hy sinh thân thể, các anh còn mong muốn hy sinh từng giọt máu cuối
cùng cho
người đồng đội đang bị thương có nguy cơ bị cưa chân “Xin hãy rút hết
máu nhóm O trong người tôi còn chảy / Mà tiêm cho bạn khỏi cưa
chân. Hình tượng các anh lại thắm thêm sắc xanh của trời, khi anh ngã vào lòng
đất vẫn xanh chất con trai: “Thế hệ chúng con đi như gió thổi/ Quân phục
xanh đồng sắc với chân trời/ Chưa kịp yêu một người con gái/ Lúc ngã vào lòng
đất vẫn con trai”. (Trần Mạnh Hảo - Đất nước hình tia chớp).
Đó là hình tượng của những anh hùng: “Sống thì đi mà
chết thì nằm/ Giọt lệ phần mình, nụ cười dành bạn”, bởi đất nước lúc bấy
giờ là một cuộc hành quân. Các anh: “Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh/
Trọn đời làm chiến sĩ vô danh” (Thu Bồn - Bài ca chim
Chơrao).
Trong Người anh hùng Đồng Tháp, Giang Nam đã xây dựng hình tượng người anh hùng Huỳnh Việt Thanh cũng là một nguyên mẫu của cuộc sống. Hy sinh hạnh phúc riêng tư, anh hùng giải phóng quân Việt Thanh đã xả thân vào cuộc chiến, bị tra tấn đánh đập vẫn không đầu hàng. Anh đã sống trung thành và chết không khuất phục..
Ở trường ca Hành trình của Hưởng Triều, hình ảnh người lính
hành quân theo đoàn quân vào Nam
như mở một cuộc hành trình dài theo đất nước. Đó là một thế hệ quyết xếp bút
nghiên lên đàng: Ta nhận ấn vàng từ tay mẹ/ Vẫy đoàn xung kích mũi vào Nam.
Cuộc đấu tranh của thanh niên học sinh thành thị miền Nam
kết hợp với nhân dân lao động thành phố Hue
átừ sau 1972 càng bùng lên mạnh mẽ. Nguyễn Khoa Điềm đã phản ánh không khí sôi
sục đó trong trường ca Mặt đường khát vọng Tuổi trẻ áo trắng miền Nam
xuống đường trở thành một đội quân xung trận. Không là chiến sĩ
trực tiếp nhưng tâm hồn và hành động của họ như người chiến sĩ.
Gần 1400 câu thơ, chương nào cũng ăm ắp những khát khao, những hoài bão của
tuổi trẻ sinh viên học sinh thành thị miền Nam
trước cảnh nước mất nhà tan: Anh em ơi, xuống đường… Ta ra trận bằng màu áo
trắng Nguyễn Khoa Điềm đã mô tả khí thế ra trận của tuổi trẻ khác nào các chiến sĩ
xung trận: “Ta xông lên chiếm hết mặt đường…” Và tuổi trẻ
hy sinh như những anh hùng: “Máu đổ rồi! Máu học sinh sinh viên/ Máu đỏ rực
trên nền áo trắng/ Máu càng thắm. Tự do càng chói sáng/ Máu Việt Nam,
máu yêu nước tươi hồng”.
Trong trường ca Nguyễn Văn Trỗi, Lê Anh Xuân ca
ngợi tình yêu cao đẹp của anh Trỗi với chị Quyên. Lúc đấu tranh giáp
mặt với kẻ thù, phút giây cuối cùng, hình tượng của anh tạc vào lịch sử
bằng những chi tiết rất thực và rất anh hùng: “Anh đi chân đất đầu trần/
Mát mùa xuân, áo thiên thần trắng tươi/ Anh đi vào giữa
cuộc đời/ Đi
vào lịch sử khi trời rạng đông”.
Trường ca thời chống Mỹ đã tái hiện hình ảnh nhân dân
ta anh hùng ở khắp mọi miền đất nước.
Có thể nói, các trường ca chống Mỹ đã thể hiện tình yêu
Tổ quốc rất rõ rệt qua hình ảnh nhân dân nhưng đặc biệt là những người chiến sĩ.
Năm tháng sẽ đi qua, thời gian hiện tại sẽ là quá khứ nhưng nhiều tên sông, tên
núi, tên làng, tên người… vẫn bất tử trong lòng mọi người Việt Nam
yêu nước.
Có những chiến sĩ anh hùng có tên có tuổi nhưng cũng có
biết bao những người vô danh, bình dị, lặng lẽ đã góp phần
làm nên
chiến thắng, làm nên lịch sử. Đó là một tư tưởng lớn thể hiện trong văn
học quá khứ (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu)… và đến
những năm cả nước chống đế quốc Mỹ, tư tưởng ấy lại được tiếp tục thể hiện
trong thơ ca, văn xuôi, và đặc biệt là trường ca../.
TS NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM
No comments:
Post a Comment