Khi viện Hàn Lâm Thuỵ Điển trao giải thưởng Nobel cho một nhà thơ Bác Âu, thật
khó mà không ngờ vực. Dù sao Viện Hàn Lâm đã chỉ trao được giải thưởng cho ba
nhà thơ Thuỵ Điển mà thôi, và nhà thơ sau cùng trong số đó là Harry Martison
vào năm 1974- thực sự lúc bấy giờ ông là một thành viên của Viện Hàn Lâm. Nhưng
sẽ là sai lầm khi trách cứ người Thuỵ Điển vì đã đề cao một người dân của họ là
Tomas Transtromer. Transtromer không những là một nghệ sĩ hàng đầu, mà sự lựa
chọn ông, được tuyên bố hôm thứ năm, còn điều chỉnh lại sự việc không có giải
thơ ca trong gần 15 năm qua.( Người nhận giải Nobel cuối cùng được biết đến
phần lớn qua thơ là Wislawa Zsymborska, người đoạt giải vào năm 1996.)
Bài thơ tiêu biểu của Transtromer là
một thể hiện về sự đơn giản tinh tế, trong đó ngôn ngữ tương đối tinh giản đạt
được chiều sâu đáng kể và mỗi từ dường như được đo từng milimét. Không có gì
ngạc nhiên khi toàn bộ tác phẩm được gọt dũa công phu của ông trong một sự
nghiệp gần 60 năm chỉ chứa đựng trong khoảng 200 trang giấy. Hãy xem sự tiết
giảm đầy uy lực trong những câu mở đầu của bài “ Morning Birds - Chim Trong
Bình Minh” sáng tác từ năm 1966:
Tôi đánh thức chiếc xe
mà chiếc kính chắn gió của nó được
phủ một lớp bột hoa.
Tôi mang kính mát vào.
Tiếng chim hót tối đen.
Ở đây, Transtromer cẩn thận đưa ra
nhiều chủ đề đan xen nhau: hành động sáng tạo ( vì thế mà kính chắn gió lại phủ
một lớp bột hoa chứ không phải bụi); những khó khăn trong nhận thức
( ông đang ở phía sau một tấm màn bị
che lấp lại mang kính đen); bản chất đầy ngạc nhiên không thể định hướng của
nghệ thuật ( lưu ý sự phối hợp đầy kinh ngạc giữa hình ảnh và âm thanh trong từ
“tiếng chim hót tối đen”).
Tất cả những điều này kết hợp lại
trong phần cuối của bài thơ, trong đó Transtromer nhận xét: “Thật kỳ diệu khi
cảm thấy bài thơ của tôi lớn lên/ trong khi chính tôi thu nhỏ lại.” Khi nhiều
hình ảnh khác nhau kết hợp lại, cuối cùng bài thơ tự nó trở thành một con chim
mà” nó ném tôi ra khỏi tổ./ Bài thơ đã sẵn sàng”.
Loại thơ ca này thường hấp dẫn những
độc giả bình thường cũng như những chuyên gia, một phần bởi vì khi được dịch
đọc lên nghe thật hay. ( Transtromer đã may mắn về phương diện này, khi những
nhà văn viết tiếng Anh – đặc biệt là Robin Fulton và Robert Bly – đã giúp tác
phẩm của ông được phổ biến rộng rãi.
Một trong những điều quan tâm lâu
bền của Transtromer – hầu như là những nỗi ám ảnh – là bản chất phức tạp
của bản sắc và sự khó khăn trong việc bảo vệ một thứ rất khó diễn tả hoặc phân
tích. Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp của mình, trong bài “ Kyrie – Kinh
Thương Xót” ông viết:
Đôi khi cuộc đời của tôi mở đôi mắt
trong bóng tối.
Một cảm giác như là những đám đông
kéo qua các đường phố
Trong đui mù và trong sợ hãi trên
đường hướng đến một phép lạ.
Trong khi tôi vẫn đứng yên một cách
vô hình.
Sự rắc rối trong việc nhìn thấy
chính mình hay người khác vẫn tiếp diễn trong những bài thơ về sau như bài “The
Gallery- Phòng Tranh”, trong đó nhà thơ ghi lại:” Một con người phô bày mình
trong chốc lát/ như trong một bức ảnh nhưng rõ nét hơn/ và phía sau/ một
cái gì đó lớn hơn chiếc bóng của anh ta.” Kết luận của Transtromer trong bài
thơ này là một điển hình cho những tác phẩm của ông: “ Đó là cuộc sống của anh
ta, đó là mê lộ của anh ta.” Vậy nên không có gì ngạc nhiên khi ông thường chỉ
tập trung vào những thứ phù phiếm được người ta xem như bản thể nhưng thực ra
chỉ là những lớp vỏ ngoài vứt đi. Trong bài Postludium ông viết: “ Tôi bước một
cách chậm rãi vào bản thể của tôi,/ xuyên qua một rừng những chiếc áo giáp trống
rỗng.”
Thật là một điều thích hơp trong sự
nghiệp về sau của ông, khi Transtromer ngày càng bị lôi cuốn vào thể thơ hài
cú, thể thơ được yêu thích (hay không được yêu thích lắm) đối với những nhà thơ
hạng ba. Thể thơ này thuận lợi cho nhiều điểm mạnh của ông: sự tiết giảm, cô
đọng, nhạy bén trong ẩn dụ và tiết tấu. Và trong khả năng nói lên được thông
qua những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, thể thơ hài cú đã được sử dụng như một biểu
tượng sâu sắc cho sự khó khăn riêng của Transtromer trong nói năng kể từ khi ông
bị đột quỵ năm 1990.
Hai tuyển tập cuối cùng của ông, “
The Sad Gondola - Chiếc Thuyền Sầu Muộn”(1960) và “ The Great Enigma -
Điều Bí Ẩn Lớn”(2004), đều chứa đựng những chuổi bài hài cú đặc sắc, và
tập thơ sau đặc biệt rất độc đáo. Như ông viết trong bài thơ kế cuối:
Một ngọn gió mênh mông và chậm rãi
từ thư viện của đại dương.
Nơi đây là nơi ta có thể nghỉ ngơi.
Sự tĩnh lặng đầy cuồng phong của
Transtromer làm vinh dự cho một giải thưởng mà không phải bao giờ cũng làm vinh
dự cho chính nó./.
Cao Thu Cúc dịch - Nguồn:
Báo The NewYork Times ra ngày 6/10/2011
No comments:
Post a Comment