Với việc đẩy mạnh ngoại thương, hướng tầm
nhìn ra biển, chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đã làm cho Đàng Trong
hưng thịnh và chính sự hưng thịnh này đã góp phần quyết định tạo nên trọn vẹn
dáng hình chữ S của Tổ quốc Việt Nam như ngày nay. Cái gốc, điểm tựa và bệ
phóng cho sự phát triển và hưng thịnh đó, chính là mảnh đất Quảng Trị với vai
trò quan trọng như A.Laborde, Công sứ Pháp tại An nam trước đây đã nêu qua bài
viết “Tỉnh Quảng Trị”, rằng “nếu dòng họ nhà Nguyễn không xuất phát
tại Quảng Trị, thì ít nhất sự nghiệp lịch sử của họ phải xem là có gốc từ mảnh
đất này” (25), “Con người của triều đại này sinh ra từ đất Thanh Hoá, nhưng sự
nghiệp của triều đại Nguyễn thì sinh ra từ đất Quảng Trị”
NGUYỄN HOÀNG
VỚI BÀI HỌC VƯỢT QUA HIỂM HỌA, DỰNG XÂY NGHIỆP LỚN
Kỷ
niệm 455 năm Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị (1558 - 2013)
Nguyễn Hoàng sinh ngày 28 tháng 8 năm 1525,
tức ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu, mất ngày 20 tháng 7 năm 1613, tức ngày 3 tháng
6 năm Quý Sửu, thọ 89 tuổi, trong đó có 56 năm (1558 - 1613) làm trấn thủ Thuận
Hoá rồi sau đó kiêm trấn thủ Quảng Nam. Trải 56 năm dựng nghiệp, Nguyễn Hoàng
đã làm nên những công tích to lớn, hiển hách, xứng danh là vị chúa mở cõi đầu
tiên của các chúa Nguyễn.
Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu những bài học
và kinh nghiệm của lịch sử để lại. Lịch sử chỉ xảy ra có một lần, nhưng những
bài học và kinh nghiệm của lịch sử để lại cần phải học mãi để làm giàu vốn
liếng tích lũy và trải nghiệm từ quá khứ nhằm tạo nguồn lực vững tiến tới
tương lai. Nghiên cứu về Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị, thiết nghĩ là
nằm trong mục đích đó.
Trong cuộc đời thăng trầm lạ lùng của mình,
Nguyễn Hoàng đã để lại cho đời những bài học và kinh nghiệm thành công nào?
Nuôi chí lớn và truyền chí lại
Nguồn hun đúc nên chí lớn của Nguyễn Hoàng
chính là truyền thống gia đình, dòng tộc. Nguyễn Hoàng xuất thân từ một gia
đình danh giá ở Thanh Hóa. Dòng tộc Nguyễn Hoàng có thủy tổ là Định Quốc Công
Nguyễn Bặc, vị khai quốc công thần của nhà Đinh, từng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp
loạn 12 sứ quân.
Theo “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý
Đôn và “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang, tiên tổ của Nguyễn
Hoàng là Nguyễn Công Duẩn, người Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, Thanh
Hóa, có công giúp vua Lê Thái Tổ (tức vua Lê Lợi) định thiên hạ, làm quan đến
Phụng thần vệ tướng quân Gia đình hầu, được tặng Thái bảo Hoành quốc công.
Con Nguyễn Công Duẩn là Nguyễn Đức Trung, đời vua
Lê Nhân Tông, làm Điện tiền chỉ huy sứ, cùng với Nguyễn Xí diệt nghịch đảng,
rước lập vua Lê Thánh Tông lên ngôi, làm quan đến Đô đốc Trinh quốc công, có
nhiều công trạng, khi mất được tặng Thái uý Trinh quốc công. Con gái Nguyễn Đức
Trung (có tài liệu ghi tên là Nguyễn Thị Hằng) làm tiệp dư của vua Lê Thánh
Tông, sinh ra vua Lê Hiến Tông.
Con Nguyễn Đức Trung là Nguyễn Văn Lãng tinh
thông thao lược, giỏi thiên văn, có sức khỏe bắt được hổ. Lúc đang làm Thuỷ
quân vệ Chỉ huy sứ, giữ thành Tây đô, thấy vua Lê Uy Mục vô đạo, bèn tập hợp
quân ở phủ Thanh Hoá, tôn Lê Tương Dực lên ngôi vua, vây hãm kinh thành, giết
vua Lê Uy Mục. Nguyễn Văn Lãng được phong Thái uý Nghĩa quốc công, Bình chương
quân quốc trọng sự, lúc mất được tặng Nghĩa huân vương.
Con Nguyễn Văn Lãng là Nguyễn Hoằng Dũ, làm
quan đến Đô đốc An hoà hầu, có tài văn võ, đánh giặc Trần Cảo. Nghe tin Nguyên
quận công Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, bèn đem quân đến đốt kinh thành.
Trịnh Duy Sản sợ, rước lập vua Lê Chiêu Tông lên ngôi, vào Tây đô, do kinh
thành đã bị tàn phá. Thấy triều đình bỏ kinh đô, Trần Cảo đem quân đến chiếm,
tiếm hiệu làm vua. Nguyễn Hoằng Dũ đánh tan Trần Cảo, lấy lại kinh thành.
Con Nguyễn Hoằng Dũ là Nguyễn Kim, thân phụ
của Nguyễn Hoàng.
Theo “Đại Nam thực lục”, thân phụ của
Nguyễn Kim, húy là Dụ. Lên 8 tuổi đã biết làm văn, 18 tuổi thông thuộc võ nghệ.
Dưới thời Lê Hiến Tông, làm Kinh lược sứ Đà Giang. Lúc thấy Lê Uy Mục vô đạo,
bèn giúp Lê Oanh khởi binh ở Thanh Hóa, giữ yên xã tắc. Lúc Lê Oanh lên làm
vua, tức vua Lê Tương Dực, được phong làm thái phó Trừng quốc công.
Theo “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, NXB
Thuận Hóa, Huế, 1995, tiên tổ Nguyễn Hoàng, tính từ đời Nguyễn Công Duẩn đến
Nguyễn Kim, có những điểm khác với cách viết của Lê Quý Đôn, của “Đại Nam
thực lục” và Phan Khoang.
Viết về Nguyễn Công Duẩn, “Phủ biên tạp
lục”, “Việt sử xứ Đàng Trong” và “Nguyễn Phúc tộc thế phả” đều
nêu bật công lao của ông đối với vua Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng “Nguyễn
Phúc tộc thế phả” viết kỹ hơn. Theo “Nguyễn Phúc tộc thế phả”,
Nguyễn Công Duẩn đã cung cấp cho nghĩa quân của Lê Lợi hàng nghìn thạch thóc,
hàng trăm bao muối; giúp vận chuyển lương thực, vũ khí; giúp đem binh giải vây,
đuổi giặc; giữ cửa ải Lê Hoa, Lào Cai, chống nhau với giặc Minh. Khi khởi nghĩa
Lam Sơn thắng lợi, vua Lê Thái Tổ đã tuyên dương công trạng Nguyễn Công Duẩn:
“Nhà ngươi không lười điều binh, tiến lương, vào ra nguy hiểm không quản sống
chết. Nhớ công ngươi bẻ gãy ngọn giáo, làm quằn lưỡi gươm quân thù, thừa thắng
đánh giặc, một mình rong ruổi đông tây, ngăn sông phá núi để lo nạn nước. Công
lao ngươi mọi người đều biết, thật là cảm kích” (1). Nguyễn Công Duẩn được xếp
vào hàng khai quốc công thần bình Ngô và được ban quốc tính họ Lê.
Nguyễn Công Duẩn cũng có người con tên là
Nguyễn Đức Trung (như Phan Khoang đã viết), nhưng Nguyễn Đức Trung không nằm
trong dòng trực hệ sinh ra Nguyễn Hoàng về sau mà vị trí này thuộc về một người
con khác của Nguyễn Công Duẩn, đó là Nguyễn Như Trác. Nguyễn Như Trác làm quan
dưới hai triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) và Lê Hiến Tông (1497 - 1504),
chức Tham đốc, tước Hầu.
Con Nguyễn Như Trác là Nguyễn Văn Lựu (cũng
đọc là Lưu). Hiếu học từ bé, 8 tuổi biết làm văn, 15 tuổi tinh thông võ nghệ. Dưới
triều vua Lê Hiến Tông, giữ chức Kinh lược sứ Đà Giang. Đời vua Lê Tương Dực
(1509 - 1516), biến loạn xảy ra, Trần Cảo chiếm lấy Đông Đô. Nguyễn Văn Lựu đem
quân từ Thanh Hóa ra đánh chiếm lại Đông Đô, rước vua Lê Tương Dực về. Nguyễn
Văn Lựu được phong làm Thái tể Trừng quốc công. Con
Nguyễn Văn Lựu là Nguyễn Kim, “Nguyễn Phúc tộc thế phả” đọc là Nguyễn
Cam và cho rằng, theo phát âm của Khang Hy tự điển,
chữ lâu nay quen đọc là “Kim”,
phải đọc là “Cam” mới đúng.
Dù phả hệ từ Nguyễn Công Duẩn đến Nguyễn Hoàng
còn có những cách viết khác nhau, không thống nhất, nhất là việc xác định ai là
thân phụ của Nguyễn Kim: Nguyễn Hoằng Dụ hay Nguyễn Văn Lựu, nhưng rõ ràng, sử
sách, kể cả sách của Lê Quý Đôn, một sử thần của chúa Trịnh đều khẳng định công
lao giúp vua, giúp nước của dòng tộc đã sinh ra Nguyễn Hoàng.
Thân phụ của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim, làm
Hữu vệ điện tiền tướng quân, An thành hầu. Khi xảy ra sự biến Mạc Đăng Dung
cướp ngôi vua Lê, Nguyễn Kim đã tránh sang Lào, xây dựng lực lượng, nuôi chí
khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim đã đem quân về nước, đánh thắng quân Mạc nhiều
trận. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm được người con trai nhỏ của vua Lê Chiêu Tông,
tên là Ninh đang sang Lào tránh nạn, tôn lên làm vua, tức là vua Lê Trang Tông.
Lúc Nguyễn Kim tránh sang Lào, Nguyễn Hoàng mới lên 2 tuổi, được cậu ruột là
Nguyễn Ư Dĩ nuôi dưỡng. Lúc Nguyễn Hoàng 20 tuổi, Nguyễn Ư Dĩ thường khuyên
Nguyễn Hoàng lập công danh sự nghiệp. Nguyễn Hoàng làm quan dưới triều Lê, lúc
đầu được phong là Hạ Khê hầu, cầm quân đánh Mạc Phúc Hải (con trưởng Mạc Đăng
Doanh), chém được tướng là Trịnh Chí ở huyện Ngọc Sơn, được vua khen: “Thực là
cha hổ sinh con hổ”. Đến đời vua Lê Trung Tông, do có quân công, Nguyễn Hoàng
được phong Đoan quận công. Khi vào trấn nhậm Thuận Hóa, được sự giúp sức của
Nguyễn Ư Dĩ, Nguyễn Hoàng có điều kiện để thực hiện trọn vẹn lời khuyên của
người cậu ruột.
Chí lớn hun đúc từ tiền nhân đã được Nguyễn
Hoàng nuôi dưỡng và sớm truyền lại cho con cháu. Năm 1602, Nguyễn Hoàng giao
Nguyễn Phúc Nguyên, người con thứ sáu làm trấn thủ dinh Quảng Nam, nơi đất tốt,
dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp nhiều hơn Thuận Hóa, đặc biệt, nơi đây
có núi Hải Vân, được Nguyễn Hoàng đánh giá là “đất yết hầu của miền Thuận
Quảng”. Nhờ được giao trọng trách ở một vùng đất đặc biệt như vậy mà Nguyễn
Phúc Nguyên đã sớm được tôi luyện, thử thách và trở thành vị Chúa Sãi anh minh,
lập nên những kỳ tích cho Đàng Trong. Lúc sắp từ giã cõi đời, Nguyễn Hoàng đã
gọi Nguyễn Phúc Nguyên và các cận thần đến bên giường bệnh để căn dặn: “Ta với
các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng
lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”, “Đất
Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh Giang) hiểm
trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi sơn) vững bền. Núi sẵn vàng
sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng” (2). Quyết chí
nối nghiệp Nguyễn Hoàng, các chúa Nguyễn đã tiếp tục mở mang lãnh thổ về phía
Nam, xác lập vững chắc chủ quyền trên vùng đất mới, trong đó có hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, đưa nước ta có lãnh thổ hoàn chỉnh như hiện nay.
Vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành
phúc
Có chí rồi, phải có mưu lược thì chí mới
thành. Bài học cốt tử của cuộc đời Nguyễn Hoàng, đó là biết vượt qua hiểm họa,
chuyển họa thành phúc. Cổ nhân bảo “trong họa có phúc”, điều này quả đã ứng vận
trọn vẹn vào cuộc đời Nguyễn Hoàng. Mối họa của cuộc đời Nguyễn Hoàng không nằm
ở đâu xa mà nằm ngay từ chính ông anh rể của Nguyễn Hoàng là Trịnh Kiểm. “Phủ
biên tạp lục” của Lê Quý Đôn đã đề cập đến mâu thuẫn giữa anh em Nguyễn
Uông, Nguyễn Hoàng với Trịnh Kiểm, khi cho rằng, Trịnh Kiểm “lại hiểu dụ bọn
Lãng quận công (chỉ anh em Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng - chú thích của người
viết) bỏ hết hiềm khích” (3). Cách viết của Lê Quý Đôn ở đây nghiêng về
Trịnh Kiểm, cho rằng mối hiềm khích với Trịnh Kiểm là đến từ Nguyễn Uông,
Nguyễn Hoàng. Ngược lại, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của
Quốc sử quán triều Nguyễn khẳng định mối họa đối với anh em Nguyễn Uông, Nguyễn
Hoàng là đến từ Trịnh Kiểm: “Từ khi Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế ta (chỉ Nguyễn Kim -
chú thích của người viết) mất đi, bỏ dở công to nghiệp lớn, quyền bính
trọng yếu trong nước đều do Trịnh Kiểm chuyên chế cầm nắm. Lãng quận công Uông
làm tả tướng. Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta (chỉ Nguyễn Hoàng - chú thích của
người viết) thì cầm quân đánh dẹp, lập được nhiều chiến công, được phong
đến Đoan quận công. Cả hai đều bị Trịnh Kiểm nghi kỵ. Rồi Tả tướng bị Kiểm làm
hại. Còn Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta thì tự lắng xuống, kín đáo giữ mình” (4).
Nguyễn Ư Dĩ biết chuyện, bèn khuyên Nguyễn Hoàng giả bệnh điên, có những cử chỉ
thất thường để Trịnh Kiểm hết nghi ngờ. Sau khi cho người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm về cách tránh họa và được Trạng Trình “mách nước”: “Hoành Sơn
nhất đái, vạn đại dung thân” (một dải núi ngang, có thể dung thân muôn
đời), Nguyễn Hoàng đã tìm được lối thoát họa, đó là phải lánh mình ở phương xa.
Được Nguyễn Ư Dĩ bàn bạc: “Thuận Hóa là đất hiểm trở kiên cố, có thể giữ mình
được. Vậy nên nhờ chị là Ngọc Bảo (Ngọc Bảo là con gái Triệu Tổ và là chánh phi
Trịnh Kiểm) nói với Kiểm, xin vào trấn thủ Thuận Hóa, rồi sau sẽ mưu làm việc
lớn” (5), Nguyễn Hoàng đã cậy chị ngỏ lời cùng Trịnh Kiểm, xin cho đi vào
phương xa. Thuận theo lời xin của vợ, Trịnh Kiểm đã dâng biểu tâu vua Lê Anh
Tông cho Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ đất Thuận Hóa. Nhân việc cho Nguyễn
Hoàng vào Thuận Hóa, Trịnh Kiểm muốn bắn một mũi tên mà trúng nhiều đích: vừa
được lòng vợ và em vợ; vừa được tiếng với vua Lê là dùng người tài trí, mưu
lược trấn giữ nơi vùng đất có “hình thể quan trọng”; lại vừa mượn xứ Thuận Hóa
là nơi lam chướng nước độc, nơi quân nhà Mạc đang khuấy động để biết đâu trừ
khử được Nguyễn Hoàng. Nhưng Trịnh Kiểm đã lầm với một người có chí lớn và biết
chuyển họa thành phúc như Nguyễn Hoàng. “Trịnh Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch
thủ. Nhưng ông đã đi sai nước cờ. Và thay vì tống khứ, ông lại đã cho không
Nguyễn Hoàng một vương quốc. Và một chuỗi các sự kiện diễn ra đã làm thay đổi
toàn bộ lịch sử Việt Nam
nói riêng và lịch sử Đông Nam Á nói chung” (6).
Sau khi đã vào Ái Tử, Nguyễn Hoàng còn gặp
nhiều mối họa khác và đều tìm cách vượt qua được. Theo “Đại Nam thực lục”,
năm 1571, Trịnh Kiểm đã mật sai tham đốc Mỹ Lương, thự vệ Văn Lan và Nghĩa Sơn
(3 vị này nhờ đóng thóc cho nhà Lê mà được làm quan) đánh úp Nguyễn Hoàng nhưng
thất bại, Mỹ Lương bị chém, Nghĩa Sơn bị bắn chết, Văn Lan trốn chạy (ở đây “Đại
Nam thực lục” đã nhầm, vì Trịnh Kiểm đã mất từ năm 1570, nên việc mật sai
này có lẽ là của Trịnh Tùng, con Trịnh Kiểm). Năm 1572, tướng Mạc là Lập Bạo
đem 60 binh thuyền vượt biển vào đánh cướp nhưng đã bị Nguyễn Hoàng dẹp tan,
Lập Bạo bị giết. Năm 1592, vua Lê sai Trịnh Tùng đánh dẹp Mạc Mậu Hợp, lấy lại
được Đông Đô Thăng Long, Nguyễn Hoàng ra kinh yết kiến, mừng vua Lê. Trải qua 8
năm ở Đông Đô, Nguyễn Hoàng đã giúp vua đánh dẹp quân Mạc, bọn tướng làm phản
và thổ phỉ, lập nhiều công to. “Trịnh Tùng thấy thế mang lòng ghen ghét, 8 năm không
cho về trấn. Gặp lúc ấy, bọn Ngạn, Đình Nga và Văn Khuê làm phản ở cửa biển Đại
An, Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta nhân đem quân tiến đánh, bèn đem tướng sĩ thuyền
chiến trong bộ thuộc mình, phóng ra biển về Thuận Hóa” (7).
Để vượt qua hiểm họa, ngoài việc tìm cách lánh
họa ngay trên chính mảnh đất hiểm trở, tìm cách chống chọi, đánh thắng địch
họa, Nguyễn Hoàng đặc biệt còn tìm cách hóa giải các mối họa, thông qua ứng phó
khôn khéo, đối ngoại mềm dẻo. Khi về lại Thuận Hóa, sau 8 năm ở Đông Đô, với
vua Lê, Nguyễn Hoàng đã để con trai thứ năm là Nguyễn Hải và cháu là Nguyễn Hắc
ở lại làm con tin. Tuy vậy, sau khi Nguyễn Hoàng trở về, Trịnh Tùng đã gửi thư
dọa trách: “Mới đây bọn nghịch thần Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga
manh tâm bội phản, cháu và cậu đã lo liệu việc binh, sai đi đánh dẹp, chẳng ngờ
cậu không đợi mạng, tự ý bỏ về, làm dao động nhân dân, không biết ấy là ý của
cậu, hay là mắc kế bọn kia… Cậu, trong việc binh, thường lưu tâm đến kinh sử,
xin hãy xét nghĩ lại, đừng để hối hận về sau” (8). Để làm dịu tình hình,
Nguyễn Hoàng đã viết thư cho Trịnh Tùng hẹn kết nghĩa thông gia. Mùa đông năm
1600, Nguyễn Hoàng đã gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, con cả của Trịnh
Tùng (Trịnh Tráng lấy Ngọc Tú, tức là cháu mà lấy cô). Từ đó trở đi, Nguyễn
Hoàng không ra Đông Đô nữa, khiến triều thần nhà Lê đòi xử trí, “nhưng Trịnh
Tùng sợ việc dùng binh, không dám đả động” (9). Chắc rằng mối quan hệ cháu lấy
cô “vượt ngoài khuôn khổ” giữa Trịnh Tráng và Ngọc Tú đã góp phần hóa giải, xua
tan âm mưu động binh.
Thông qua việc hóa giải hiểm họa, chuyển họa
thành phúc, Nguyễn Hoàng đã tạo được cội phúc vững bền, dài lâu cho các chúa
Nguyễn thừa hưởng ân sủng, trong đó đặc biệt chúa Nguyễn Phúc Nguyên không chỉ
thừa hưởng mà còn có công lớn vun bồi cội phúc này phát triển, ngay chính từ
đất Quảng Trị. Cội phúc này lan tỏa cả đến những người nhà Mạc đang gặp
họa, trong đó có người vợ họ Mạc của Nguyễn Phúc Nguyên. Mạc Cảnh Huống (em
Khiêm vương Mạc Kính Điển, người đã từng đem quân vào đánh Thanh Hóa, Nghệ An
năm 1570) đã theo Nguyễn Hoàng vào Ái Tử năm 1558, làm Thống binh, tham mưu đắc
lực, được Nguyễn Hoàng tin dùng. Theo khảo cứu của L.Cadière (10), vào khoảng
năm 1593, lúc nhà Mạc suy yếu, bị đánh đuổi khỏi vùng đồng bằng miền Bắc, phải
chạy lên Cao Bằng, con gái Mạc Kính Điển là bà Mạc Thị Giai đã cùng gia quyến
theo chú là Mạc Cảnh Huống vào ẩn ở chùa Lam Sơn, làng Cổ Trai, xã Vĩnh Giang,
huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, nhập tịch ở tỉnh Quảng Trị. Được bà Nguyễn
Ngọc Dương, vợ Mạc Cảnh Huống (bà Dương là em vợ Nguyễn Hoàng, tức là dì ruột
của Nguyễn Phúc Nguyên) tiến vào hầu Nguyễn Phúc Nguyên ở nơi tiềm để (chỗ ở
của chúa khi chưa lên ngôi), bà Mạc Thị Giai đã được Nguyễn Phúc Nguyên yêu,
quý trọng vì tính tình thuần hậu, đoan trang và đã lấy làm vợ. Sau này, bà được
đổi sang họ Nguyễn và được tôn là Hiếu Văn Hoàng hậu. Bà sinh được 5 con trai
và 3 con gái. Đặc biệt, trong số này, có 2 người con gái đã được Nguyễn Phúc
Nguyên gả cho vua các nước lân bang để mở mang quan hệ đối ngoại. Năm 1620,
Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey
Chetta II.
Nhờ ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc hôn nhân này,
năm 1623, một phái bộ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đi sứ đến Chân Lạp đề nghị
được lập cơ sở, được đặt một sở thu thuế hàng hóa ở Prey Kôr, tức thành phố Hồ
Chí Minh ngày nay và đã được Chey Chetta II đồng ý. Năm 1631, Nguyễn Phúc
Nguyên gả con gái là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Chiêm Thành là Pôrômê, nhằm
tạo mối quan hệ giao hảo Việt-Chiêm, bảo đảm an ninh mặt phía Nam cho chúa
Nguyễn. Theo L.Cadière, làng Cổ Trai đã ghi nhận và đánh giá rất cao công lao
của bà Mạc Thị Giai đối với làng, sau khi bà qua đời, làng Cổ Trai đã sửa ngôi
chùa Lam Sơn thành đền thờ để thờ cúng bà (11). Năm 1824, vua Minh Mạng cho đổi
đền thờ này thành chùa Phật: “Cho xã Cổ Trai (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị)
300 quan tiền. Cổ Trai là làng thích lý của Hiếu Văn Hoàng hậu, trước dân làng
cảm ân đức Hoàng hậu lập đền thờ, đến nay tự nghĩ không dám thờ nhảm, tâu xin
đổi làm chùa Phật. Vua theo lời xin và cho tiền” (12). Rõ ràng, ân đức của bà
Mạc Thị Giai, tức Nguyễn Thị Giai, Hiếu Văn Hoàng hậu không chỉ nhuần thấm với
đất Cổ Trai mà ân đức đó cả Đàng Trong và đất nước đều được thụ hưởng, khi bà
đã cống hiến cho dân tộc hai liệt nữ Ngọc Vạn, Ngọc Khoa. Như vậy, việc chuyển
họa thành phúc, đặc biệt là chuyển họa của cá nhân, dòng họ của Nguyễn Hoàng
thành phúc của Đàng Trong, phúc của dân tộc đã diễn ra một cách kín đáo, khéo
léo và thành công trên đất Quảng Trị và từ Quảng Trị.
Nhờ biết giữ mình, lánh họa, vượt qua hiểm
họa, chuyển họa thành phúc, Nguyễn Hoàng đã đặt nền móng quan trọng cho công
cuộc phát triển Đàng Trong, mở cõi của các chúa Nguyễn, bắt đầu bằng việc đặt
phủ Phú Yên năm 1611. Từ năm 1611 dưới thời chúa Nguyễn Hoàng đến năm 1757 dưới
thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, trong vòng 146 năm, đất nước đã được mở rộng từ
Phú Yên đến Cà Mau.
Dựa vào lòng dân, vỗ về dân, yên dân
Để trụ vững ở nơi hiểm trở, nếm mật nằm gai, Nguyễn
Hoàng đã dựa vào lòng dân. Lúc Nguyễn Hoàng cùng những người đồng hương ở Tống
Sơn, những người nghĩa dũng ở Thanh Hóa mới vào đến bãi cát Ái Tử (theo một
nguồn dẫn của Phan Khoang, Nguyễn Hoàng đến Ái Tử trong khoảng từ ngày 10/11
đến 10/12/1558), người dân ở đây đã đem dâng 7 chum nước trong. Nguyễn Ư Dĩ
mừng rỡ nói: “Đấy là phúc trời cho đó. Việc trời tất có hình tượng. Nay chúa
thượng mới đến mà dân đem “nước” dâng lên, có lẽ là điềm “được nước” đó chăng?”
(13). Nhờ có chính sách vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng
của Nguyễn Hoàng, bộ mặt vùng đất hiểm trở mà Nguyễn Hoàng trấn nhậm, chỉ sau
hơn 10 năm đã có nhiều thay đổi rõ rệt. Đánh giá về tài trí, đức độ Nguyễn
Hoàng, nhà bác học Lê Quý Đôn viết: “Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm
minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì
cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ
hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tin phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong
tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải
đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh
nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp” (14), “công lao
khó nhọc, thực như phên dậu của nhà nước” (15). Quốc sử quán triều Nguyễn viết:
“Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang,
nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp” (16).
Với tầm nhìn xa của người mở cõi, năm 1597, Nguyễn Hoàng (lúc này đang ở đất
Bắc giúp vua Lê ứng phó với quân Mạc và bang giao với nhà Minh) đã có công văn
lệnh cho Lương Văn Chánh, Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên (nay thuộc tỉnh Bình
Định) chiêu tập lưu dân vào khai khẩn vùng đất Phú Yên, đồng thời căn dặn không
được sách nhiễu dân: “Kết lập gia cư địa phận, khai khẩn ruộng đất hoang cho
tới khi thành thục sẽ nạp thuế như lệ thường. Nhược bằng vì việc mà nhiễu dân,
điều tra ra sẽ bị xử tội”.
Người biết thu phục lòng dân, ắt được nhân dân
che chở, giúp vượt qua hiểm họa. “Đại Nam nhất thống chí” xếp bà Phạm
Thị Tôm, người huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình vào hàng liệt nữ vì có công cứu
nguy cho Nguyễn Hoàng. Năm 1600, từ đất Bắc, Nguyễn Hoàng cùng tướng sĩ dong
thuyền ghe theo đường biển về lại Thuận Hóa. Quân Trịnh đuổi theo. Thủy quân
Nguyễn Hoàng phải chèo thuyền thật gấp, bị đứt quai chèo. “Lúc ấy Thị Tôm theo
hầu, nhân có một mớ tơ sống, thị liền dâng để buộc chèo. Về đến nơi thị chết,
Gia Dụ hoàng đế khen là có công, truy tặng Thị giá phu nhân, lập đền thờ dinh Cát.
Dinh Cát nay thuộc Quảng Trị” (17).
Đáng chú ý, có những câu chuyện về “thế trận
lòng dân” mà Nguyễn Hoàng xây dựng nên đã được sử sách kể lại mang màu sắc tín
ngưỡng, huyền thoại. Đó là chuyện Nguyễn Hoàng lúc đóng quân bên sông Ái Tử để
chống giặc Lập Bạo đã nghe vẳng lên từ lòng sông có tiếng “trao trao”, liền
khấn thần sông giúp sức đánh giặc và được thần sông báo mộng, thông qua hình
ảnh một người đàn bà mặc áo xanh, tay cầm quạt, đến thưa rằng: “Minh công muốn
trừ giặc thì nên dùng mỹ kế dụ đến bãi cát, thiếp xin giúp sức”. Sau khi dùng
kế mỹ nhân để diệt Lập Bạo, Nguyễn Hoàng đã phong thần sông làm “Trảo trảo linh
thu phổ trạch tướng hựu phu nhân” và lập đền thờ. Năm 1601, Nguyễn Hoàng cho
dựng chùa Thiên Mụ. Khi Nguyễn Hoàng đến đây, hỏi chuyện, được nhân dân địa
phương truyền rằng: “Xưa có người đêm thấy bà già áo đỏ quần xanh ngồi trên
đỉnh gò nói rằng: “Sẽ có vị chân chúa đến xây chùa ở đây, để tụ khí thiêng, cho
bền long mạch”. Nói xong bà già biến mất. Bấy giờ nhân đấy mới gọi là núi Thiên
Mụ. Chúa cho là núi ấy có linh khí, mới dựng chùa gọi là chùa Thiên Mụ” (18).
Thông qua những chuyện kể như vậy cho thấy, khả năng thu phục lòng dân, huy
động sức mạnh nhân dân của Nguyễn Hoàng đã được “siêu nhiên hóa”, “thiêng hóa”.
Nói cách khác, Nguyễn Hoàng đã dựa vào tín ngưỡng, Phật giáo… nhằm “thiêng hóa”
sức mạnh thu phục lòng dân của mình.
Không chỉ dựa vào dân, Nguyễn Hoàng còn “làm
ơn cho dân”, vỗ về dân, yên dân, đặc biệt là biết “biến giặc thành dân”. Sau
khi sai thuộc tướng là Mai Đình Dũng dẹp yên bọn thổ mục nổi loạn, cướp giết
lẫn nhau ở Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã giao Mai Đình Dũng ở lại giữ đất và thu
phục, vỗ yên tàn quân. Sau khi đánh thắng giặc Lập Bạo, Nguyễn Hoàng đã không
giết hàng binh mà cho họ quyền được sống và khai phá vùng đất mới: “Chúa cho ở
đất Cồn Tiên (tức tổng Bái Ân bây giờ) đặt làm 36 phường” (19). Cảm kích trước
ân nghĩa lớn lao của Nguyễn Hoàng, về sau, thế hệ con cháu của những người được
“tha mạng sống” ở các phường An Định Nha, An Hướng và Phương Xuân thuộc tổng
Bái Ân đã dựng miếu thờ Nguyễn Hoàng ở An Định Nha (nay là thôn An Nha, xã Gio
An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị).
Mở mang ngoại thương, hướng tầm nhìn
ra biển
Nắm được lòng dân và dân đã thuận theo mình,
để đưa Đàng Trong phát triển, bài học và kinh nghiệm thành công, kinh
nghiệm phát triển của Nguyễn Hoàng, đó là mở mang ngoại thương, hướng tầm nhìn
ra biển. Dưới thời Nguyễn Hoàng, “thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên
một nơi đô hội lớn” (20). Đặc sản tiêu Quảng Trị đã được Nguyễn Hoàng cho mua,
chở cùng vây cá yến sào để đổi cho khách buôn lấy hàng hóa, sản vật. Theo Lê
Quý Đôn, họ Nguyễn đã mua tiêu Quảng Trị “chở về phố Thanh Hà, bán cho khách
tàu, không cho dân địa phương bán riêng” (21), “hồ tiêu cứ cho 100 cân làm một
tạ, giá 5, 6 quan, khách Bắc và khách Mã Cao thường buôn về Quảng Đông” (22).
Để chủ động “xúc tiến thương mại”, khuyến khích thương gia Nhật Bản đến buôn
bán với Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã viết nhiều thư trao đổi, bàn bạc chuyện
buôn bán với chính quyền Tokugawa (chính quyền quân sự ở Nhật Bản). Lời lẽ
trong các lá thư ngoại giao vừa sang trọng, lịch lãm, vừa tha thiết, mềm mỏng,
có những thư được gửi kèm theo các món quà tặng là những vật phẩm quý như kỳ
nam, lôi mộc, khổng tước… chẳng hạn như thư này:
“An Nam quốc Đại Đô Thống Đoan Quốc
Công xin ngỏ lời đến Nhật Bản Quốc vương điện hạ!
Thời gian qua, tình hình kết giao của hai
nước diễn ra tốt đẹp. Năm ngoái, Ngài đã tặng tôi bảo kiếm, nay lại còn gửi
tặng 10 trường đại đao quý, thật cảm kích vô cùng. Hy vọng thương thuyền của
quý quốc làm ăn buôn bán ở nước tôi hanh thông thịnh vượng, có thể thấy đây là
chốn an cư. Bản quốc sản vật quý không nhiều nhưng cũng xin kính tặng Quốc
Vương điện hạ một ít (có danh mục kèm theo) gọi là lễ mọn.
Từ năm nay trở đi, bản quốc sẽ chú trọng
mậu dịch, buôn bán với quý quốc, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa.
Vạn vọng Quốc vương lấy việc kết giao để dựng xây sự phát triển như đã giao
ước.
Một lời trong thư khó nói hết, xin được
minh giám.
Ngày 11 tháng 5 năm Hoằng Định thứ 5 (Nhật
Bản Khánh Trường năm thứ 9 - Tây lịch năm 1605)” (23).
Đặc biệt, Nguyễn Hoàng đã nhận một thương gia
Nhật Bản là ông Hunamoto Yabeije (Di Thất Lang) làm con nuôi và viết thư báo
cho phía Nhật Bản biết về mối giao hảo tốt đẹp này: “An Nam quốc Đại Đô
Thống Đoan Quốc Công báo thư - Nhật Bản Bản Đa Thượng Dã Giới Chính Thuần trân
quý! Thư đi thư lại giao hảo đã lâu, tấm lòng đã hiểu. Cảm thần được tính cách
trung hậu của Di Thất Lang. Tôi nhận Di Thất Lang làm nghĩa tử; chăm sóc ân cần
chu đáo mọi bề. Nay Di Thất Lang trở về quý quốc. Sẽ khôn nguôi nhớ, đành tặng
chiếc áo tình cảm để mặc lúc đi đường. Rồi đây trong lòng thương nhớ xiết bao.
Hy vọng rằng những tình cảm đó sẽ được chuyển đến Bạch Quốc Vương. Và năm tới
như đã hứa Di Thất Lang sẽ chỉnh đốn ba thuyền sớm đến bản trấn giao dịch, như
thế là lưỡng toàn ân nghĩa. Có một chút lễ mọn (Bạch quyên 2 thất, Kỳ nam 1
phiến) xin gửi tặng làm tin…
Ngày mồng 6 tháng 5 năm Hoằng định thứ 6
(1606) - Nhật Bản năm Khánh Trường thứ 10”
(24).
Theo một nguồn mà nhà nghiên cứu Li Tana đã
dẫn cho biết, trong số 84 thuyền Châu ấn của Nhật Bản đến buôn bán với An nam
(chủ yếu chỉ Nghệ An ở Đàng Ngoài) và Đàng Trong từ năm 1604 đến 1635, có 70
chiếc đến Đàng Trong. Đáng chú ý, trong số 84 thuyền này, có 17 thuyền do
Hunamoto Yabeije (Di Thất Lang), con nuôi Nguyễn Hoàng và Araki Sotaro, thương
gia Nhật Bản, con rể Nguyễn Phúc Nguyên cầm đầu (theo Li Tana, năm 1619, Nguyễn
Phúc Nguyên gả con gái cho Araki Sotaro, nhưng có lẽ Nguyễn Phúc Nguyên đã gả
con nuôi thì đúng hơn, vì chiếu theo “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, trong
số tất cả 4 người con gái của Nguyễn Phúc Nguyên, không có ai được gả cho Araki
Sotaro cả).
Với việc đẩy mạnh ngoại thương, hướng tầm nhìn
ra biển, chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đã làm cho Đàng Trong hưng
thịnh và chính sự hưng thịnh này đã góp phần quyết định tạo nên trọn vẹn dáng
hình chữ S của Tổ quốc Việt Nam như ngày nay. Cái gốc, điểm tựa và bệ phóng cho
sự phát triển và hưng thịnh đó, chính là mảnh đất Quảng Trị với vai trò quan
trọng như A.Laborde, Công sứ Pháp tại An nam trước đây đã nêu qua bài viết “Tỉnh
Quảng Trị”, rằng “nếu dòng họ nhà Nguyễn không xuất phát tại Quảng Trị,
thì ít nhất sự nghiệp lịch sử của họ phải xem là có gốc từ mảnh đất này” (25),
“Con người của triều đại này sinh ra từ đất Thanh Hoá, nhưng sự nghiệp của
triều đại Nguyễn thì sinh ra từ đất Quảng Trị” (26).
NGUYỄN
HOÀN
Nguồn: VCV
___________________
(1) Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc, Nguyễn Phúc tộc thế phả, NXB
Thuận Hóa, Huế, 1995, tr. 73.
(2) Đại Nam
thực lục, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 37.
(3) Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1 Phủ biên tạp lục, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 49.
(4) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập II, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1998, tr. 137.
(5) Đại Nam liệt truyện tiền biên,
tập I, quyển 1-6, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 76.
(6) Li Tana, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18,
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999, tr. 15.
(7) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sđd, tr. 227.
(8) Dẫn theo Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, NXB Văn học, Hà Nội,
tr. 124.
(9) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 35.
(10), (11) Những người bạn cố đô Huế, tập IX, NXB Thuận Hóa, Huế,
2001, tr. 259, 260, 264.
Theo khảo sát, tìm hiểu của chúng tôi tại làng
Cổ Mỹ (tức làng Cổ Trai trước đây), xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng
Trị, người dân ở đây cho biết, tại làng trước đây có một ngôi chùa, có tên là “Quang
cổ tự”, thờ một bà hoàng hậu. Hiện chùa không còn nhưng chỗ đất dựng chùa
vẫn xác định được. Đại Nam nhất thống chí, Tập I, NXB Thuận Hóa, Huế,
2006 đã viết về chùa Cổ Trai rằng: “Ở xã Cổ Trai, huyện Minh Linh, xã này
là quê hương của Hiếu Khang Hoàng Hậu bản triều. Sau khi hoàng hậu mất, người
xã lập miếu thờ, năm Minh Mệnh thứ 5 đổi làm chùa Phật” (tr. 243). Ở đây,
có lẽ Đại Nam nhất thống chí đã viết nhầm chăng, vì chùa Cổ Trai không
phải là nơi thờ Hiếu Khang Hoàng hậu Nguyễn Thị Hoàn, mẹ vua Gia Long, mà theo Đại
Nam thực lục, chùa này là nơi thờ Hiếu Văn Hoàng hậu Nguyễn Thị Giai, vợ
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.
(12) Đại Nam
thực lục, Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 367.
(13) Đại Nam
liệt truyện tiền biên, tập I, quyển 1-6, sđd, tr. 76.
(14), (15) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 50,
102.
(16) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 31.
(17) Đại Nam
nhất thống chí, tập III, NXB Thuận Hóa, Huế, 1992, tr. 282.
(18) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 35.
(19), (20) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 31.
(21), (22) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 322,
323.
(23), (24) Dẫn theo Tạp chí Nam Phong số 54, tháng 12/1921, phần chữ Hán. Bản
dịch từ Hán sang Việt của ông Hoàng Tấn Linh, giáo viên Trường THPT Hải Lăng,
Quảng Trị.
(25), (26) Những người bạn cố đô Huế, tập VIII, NXB Thuận Hoá, Huế,
2001, tr. 185, 188.
Sau khi đã vào Ái Tử, Nguyễn Hoàng còn gặp nhiều mối họa khác và đều tìm cách vượt qua được. Theo “Đại Nam thực lục”, năm 1571, Trịnh Kiểm đã mật sai tham đốc Mỹ Lương, thự vệ Văn Lan và Nghĩa Sơn (3 vị này nhờ đóng thóc cho nhà Lê mà được làm quan) đánh úp Nguyễn Hoàng nhưng thất bại, Mỹ Lương bị chém, Nghĩa Sơn bị bắn chết, Văn Lan trốn chạy (ở đây “Đại Nam thực lục” đã nhầm, vì Trịnh Kiểm đã mất từ năm 1570, nên việc mật sai này có lẽ là của Trịnh Tùng, con Trịnh Kiểm). Năm 1572, tướng Mạc là Lập Bạo đem 60 binh thuyền vượt biển vào đánh cướp nhưng đã bị Nguyễn Hoàng dẹp tan, Lập Bạo bị giết. Năm 1592, vua Lê sai Trịnh Tùng đánh dẹp Mạc Mậu Hợp, lấy lại được Đông Đô Thăng Long, Nguyễn Hoàng ra kinh yết kiến, mừng vua Lê. Trải qua 8 năm ở Đông Đô, Nguyễn Hoàng đã giúp vua đánh dẹp quân Mạc, bọn tướng làm phản và thổ phỉ, lập nhiều công to. “Trịnh Tùng thấy thế mang lòng ghen ghét, 8 năm không cho về trấn. Gặp lúc ấy, bọn Ngạn, Đình Nga và Văn Khuê làm phản ở cửa biển Đại An, Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta nhân đem quân tiến đánh, bèn đem tướng sĩ thuyền chiến trong bộ thuộc mình, phóng ra biển về Thuận Hóa” (7).
ReplyDeleteHiện tôi đang làm gia sư dạy kèm cho các trung tâm gia sư tphcm