.thongtin img{width:24px;height:18px;margin:5px 5px -5px 0} .thongtin li{margin:10px 0 20px}

Wednesday, February 29, 2012

"LỘ DIỆN" GIẢI THƯỞNG THƯỜNG NIÊN VÀ DANH SÁCH 29 TÂN HỘI VIÊN - HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI NĂM 2011


Sáng 28/2/2012, tại trụ sở 19 Hàng Buồm, Hội Nhà văn Hà Nội đã họp xét giải thưởng văn học của Hội năm 2011 và xét kết nạp hội viên mới. Hội đồng chung khảo giải thưởng gồm toàn thể Ban chấp hành Hội và chủ tịch các hội đồng chuyên môn văn, thơ, lý luận phê bình, dịch thuật, dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hội Phạm Xuân Nguyên.

Các ủy viên hội đồng đã thảo luận và thông qua Quy chế xét giải thưởng HNVHN của Ban chấp hành đưa ra với các điểm chính là căn cứ vào chất lượng tác phẩm, mỗi chuyên ngành chỉ chọn một giải và nếu không chọn được thì bỏ trống, tác phẩm được giải phải đạt số phiếu quá bán. Căn cứ vào đề nghị của các hội đồng chuyên môn và của các ủy viên chấp hành, danh sách tác phẩm vào chung khảo giải thưởng HNVHN có:

Văn xuôi:
- Những ngã tư và những cột đèn, tiểu thuyết của Trần Dần, nxb Hội Nhà văn.
- Đội gạo lên chùa, tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, nxb Phụ Nữ.
- Kín, tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, nxb Văn Học.
Thơ:
- Những kỷ niệm tưởng tượng, tập thơ của Trương Đăng Dung, nxb Thế Giới.
- Phim đôi – Tình tự chậm, tập thơ của Vi Thùy Linh, nxb Thanh Niên.
- Lúc ấy& bằng ấy, tập thơ của Tấn Phong, nxb Văn Học.
Phê bình:
- Đánh đường tìm hoa, tập tiểu luận của Nguyễn Minh Thái, nxb Văn hóa – Văn nghệ TP HCM.
- Suy tưởng, giấc mơ, viết..., tập phê bình của Khánh Phương, nxb Hội Nhà văn.
Dịch thuật:
- Olga Berggolts của tôi, Thụy Anh biên khảo và dịch từ nguyên bản tiếng Nga, nxb Trẻ.
- Các người khắc biết tay tôi, tiểu thuyết của nhà văn Ba Lan Katrzyna Grochola, Lê Bá Thư dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan, nxb Hội Nhà văn.

Sau khi nghe các chủ tịch hội đồng chuyên môn phân tích, đánh giá từng tác phẩm được chọn, các ủy viên Hội đồng chung khảo đã trao đổi nhận xét về từng tác phẩm, sau đó tiến hành bỏ phiếu kín.

Kết quả giải thưởng HNVHN năm 2011 đã thuộc về các tác phẩm:

- Những ngã tư và những cột đèn, tiểu thuyết của Trần Dần (9/10 phiếu)
- Những kỷ niệm tưởng tượng, tập thơ của Trương Đăng Dung (7/10)
- Olga Berggolts của tôi, Thụy Anh dịch (10/10).

Tiếp đó, Hội đồng đã xét kết nạp hội viên mới. Căn cứ vào sự xét chọn của các hội đồng chuyên môn và sự giới thiệu của các ủy viên chấp hành, Hội đồng đã xem xét, cân nhắc và bỏ phiếu kín các đơn xin vào hội. Kết quả đã có 29 nhà văn nhà thơ được kết nạp làm hội viên mới của HNVHN.

Các kết quả bỏ phiếu giải thưởng và kết nạp hội viên của Hội đồng chung khảo đã được Ban chấp hành HNVHN xem xét và quyết định công nhận.

Lễ trao giải thưởng và kết nạp hội viên của HNVHN sẽ được tổ chức vào tuần đầu tháng 3/2012. (Thạch Linh)



Kết quả Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2011

Văn xuôi:
Những ngã tư và những cột đèn, tiểu thuyết, Trần dần, nxb Hội Nhà văn (quý 1/2011).
Số phiếu: 9/10

Thơ:
Những kỷ niệm tưởng tượng, tập thơ, Trương Đăng Dung, nxb Thế Giới (6/2011).
Số phiếu: 7/10

Dịch thuật:
Olga Berggolts của tôi, thơ, Thuỵ Anh dịch từ nguyên bản tiếng Nga, nxb Trẻ (quý IV/2010).
Số phiếu: 10/10.

Kết quả kết nạp hội viên (29 hội viên)

Chuyên ngành Văn xuôi:


TT
Họ
Số phiếu
1.      
Nguyễn Thế Đức
8/10
2.      
Phùng  Văn Khai
10/10
3.      
Trần Thị Ngọc Lan
9/10
4.      
Diệu Linh (Dili)
10/10
5.      
Ngô Vĩnh Xuân Lôi
5/10
6.      
Lê Hoài Nam
10/10
7.      
Trần Đình Tám
5/10
8.      
Đặng Việt Thủy
5/10
9.      
Võ Xuân Tường
7/10

Chuyên ngành Thơ:

TT
Họ tên
Số phiếu
1.    
Nguyễn Thị Thu Hà
9/10
2.    
Chử Thu Hằng
8/10
3.    
Hà Hưng
7/10
4.    
Nguyễn Quang Hưng
7/10
5.    
Đặng Cương Lăng
8/10
6.    
Hà Linh
9/10
7.    
Trần Vũ Long
9/10
8.    
Vũ Bình Lục
6/10
9.    
Bùi Tuyết Mai
10/10
10.                         
Đàm Khánh Phương
8/10
11.                         
Nguyễn Đức Thịnh
9/10
12.                         
Lê Thanh Tùng
7/10
13.                         
Đoàn Kim Vân
6/10
14.                         
Trần Hải Yến
5/10

Dịch thuật:

TT
Họ tên
Số phiếu
1.    
Nguyễn Thụy Anh
10/10
2.    
Nguyễn Võ Lệ Hà
6/10
3.    
Nguyễn Xuân Hòa
9/10
4.    
Đỗ Thanh
7/10

Lý luận phê bình:

TT
Họ tên
Số phiếu
1.    
Lê Thị Bích Hồng
8/10
2.    
Trần Đăng Suyền
10/10


VĂN CHƯƠNG + HÂN HOAN CHÚC MỪNG CÁC TÁC GIẢ ĐOẠT GIẢI  THƯỞNG VÀ 29 TÂN HỘI VIÊN – HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI

TẬP THƠ ĐOẠT GIẢI THƯỞNG HNV HÀ NỘI NĂM 2011 CỦA NHÀ THƠ, PGS.TS TRƯƠNG ĐĂNG DUNG ĐƯỢC CÁC NHÀ PHÊ BÌNH “DAO KÉO” KHÔNG THƯƠNG TIẾC



Tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của PGS.TS Trương Đăng Dung có thi mệnh là lạ. Cha đẻ của nó là dân lý luận phê bình xịn, hơn 50 tuổi mới tòi ra một đứa “cỡ” rách giời. Dân thơ chuyên nghiệp mặt nghệt ra vì sợ, chẳng nhân nào còn húng hắng Hoa Sơn luận kiếm. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng loạt bài của các nhà phê bình hạng nặng công phá trực diện, đạn nổ rầm trời. Tập thơ của Trương Đăng Dung mười mươi như ăn giải trung ương của HNV Việt Nam, nào ngờ đã về mo trong kỷ niệm.
Hội Nhà văn Hà Nội cũng lắm chiêu trò, đợi đến những ngày cuối tháng 2, rét vu hồi, cóng cả còng, lại rủ nhau họp bỏ phiếu xét giải thưởng năm. Đúng là Đáo xuân, tập thơ “Những kỷ niệm…” đoạt giải chính thức Hạng mục thơ của Hội Nhà văn Hà Nội, như một “…tưởng tượng”. Việc “lựa ngọc” của Hội Nhà văn Hà Nội, suốt mấy năm nay luôn được anh hùng trong thiên hạ tâm phục, khẩu phục. Xuất một chiêu, nhà LLPB văn học "thi ẩn" Trương Đăng Dung làm bé lại cả làng thơ. Phẩm thi “Những kỷ niệm tưởng tượng” xứng đáng có mặt trong tuyển thơ Việt Nam Thế kỷ 21 như một đóa kỳ hoa. (Đinh Tam Lệ)
(Văn chương +), trân trọng giới thiệu với quý vị, 10 bài viết (50 trang A4, gần 25 nghìn chữ) của các nhà thơ, nhà phê bình về tập thơ đoạt giải của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2011.


Bài 1:
NHÀ THƠ ĐỖ QUYÊN - “TÁI ÁM ẢNH VỀ MỘT BÀI THƠ ÁM ẢNH”








 

Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras[1]

Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
Tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời
Ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
Các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
Họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu
Các nữ y tá nhìn ta
Kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
Không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên
Những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện
Chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
Rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.
Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
Cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng
Cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
Và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
Trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
Chân người chết thò ra khỏi chiếu
Cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
Vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
Và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
Bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
Khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
Em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
Giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.
Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
Có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
Để làm búp bê cho em tôi chơi
Làm dùi cho em tôi đánh trống.
Budapest, 4/1983
_________

1. Hollo Andras là nhà thơ Hungary, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Budapest năm 1977, là một trong những văn nghệ sĩ các nước XHCN cũ ở Đông Âu dành nhiều thiện cảm với Việt Nam.

TRẦN ANH THÁI: MỘT BÀI THƠ ÁM ẢNH

Khoảng cuối năm 2004, tôi vô tình đọc được bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng,” đăng trên tạp chí Sông Hương, tác giả của nó là Trương Đăng Dung. Lúc đó tôi chưa biết Trương Đăng Dung chính là PGS-TS, tác giả của cuốn sách Tác phẩm văn học như là quá trình, một chuyên luận nổi tiếng, được các học giả trong nước và ngoài nước đánh giá rất cao; chuyên luận nghiên cứu về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, dưới ánh sáng của mỹ học tiếp nhận… Nhưng bài thơ dài ba mươi hai câu, ông viết tưởng nhớ một người bạn nước ngoài là nhà thơ người Hungary Hollo Andras, đã gây nên chấn động mạnh mẽ đến gai người; một ấn tượng đau thương, quằn quại trong sâu thẳm người đọc là tôi.

Đọc lại lần nữa, rồi một lần nữa, tôi càng yêu quí và trân trọng sự giản dị mà sâu xa ẩn chứa trong từng câu, từng chữ. Bài thơ không chỉ lôi cuốn tôi bằng một giọng lạ, mới và về một ký ức đau thương, xa xót mà còn vì nó có được một cách sử dụng hình ảnh, cách kiến tạo bài thơ, cách sắp xếp ngữ pháp câu thơ rất riêng, tạo nên một hiệu quả nghệ thuật khác thường. Bài thơ của Trương Đăng Dung được viết từ tháng 4-1983, tức cách nay đã gần ba mươi năm (đã in lần đầu trên tạp chí Tác Phẩm Mới của Hungary , số 10-1983). Vào thời điểm ấy, nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm. Cảm ơn Trương Đăng Dung đã cho tôi thưởng lãm bài thơ rất hay này.

NHÀ THƠ ĐỖ QUYÊN: TÁI ÁM ẢNH VỀ MỘT BÀI THƠ ÁM ẢNH 

Một sáng tác thơ đặc sắc đến rùng mình! Đọc bài trên phongdiep.net, tôi cũng bị “ám ảnh” theo người bình, và thấy nó ánh lên một thứ “thi pháp” khác lạ. Khác lạ, không chỉ với thơ phương Đông (điều quá rõ!) mà có lẽ cả trong thơ phương Tây. Thi sĩ Anh-Ấn Rudyard Kipling, ở đâu khác nữa thì không biết chứ ở bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, Đông và Tây đã “tay nắm trong tay” rồi!
Chia sẻ với các nhận định khái quát của Trần Anh Thái, tôi thử minh họa bằng năm nét sáng nên bài thơ: 
1. Thủ pháp áp đặt:
Bí kíp thi pháp là đây! Dẫu chưa cần biết Hollo Andras (1) là ai – miễn là một ông Tây/Tàu/Phi/Mễ/Hàn/v.v… không cùng hoàn cảnh sinh hạ với chủ thể “tôi” – nhưng độc giả vẫn nhận được thi cảm qua thủ pháp áp đặt chủ thể và nhân vật (“tôi với anh”). Do tựa đề đã có các từ “tưởng tượng,” sự áp đặt này logic về trật tự tư duy, dù khiên cưỡng về sắp xếp nghệ thuật. Chính cái khiên cưỡng đã gợi hương vẻ kỳ quái của thơ. Đến lượt mình, chính cái phi lý lại giải khiên cưỡng, trả thơ về đời bình dị. 
2. Thủ pháp phi lý:
2.1. Phi lý về thời gian khiến độc giả choáng ngay ở câu đầu (“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”) cho tới câu “tôi với anh…”, rồi “ngày ta sinh…”! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai – 1954? Đọc tới câu “giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn” đặt gần đoạn kết, ta càng thấy Trương quân quả có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn, lại còn khéo nữa!
2.2. Phi lý về không gian địa lý (Âu-Á), về hoàn cảnh xã hội (Tây-Ta) được khỏa lấp bằng loạt hình ảnh phi thực, siêu thực, hay cực thực tạo bất an nơi người đọc ngay từ đoạn đầu. Thế rồi lý trí lại bị che lấp trong chuỗi tự sự đầu cua tai nheo. Nhân vật phụ “em gái tôi” xuất hiện (“đột ngột ra đời”) như giải pháp mạnh, hợp lý hóa sự phi lý không gian, hoàn cảnh; và cũng để lý giải cho sự hồi tưởng song sinh của “tôi” và “anh.” Nhân vật phụ ấy vụt trở thành VIP trong tác phẩm! Tính nhân bản của sáng tạo là chỗ này: Sinh nở gọi sinh nở! Chất trữ tình ở bài thơ cũng là đấy! Nếu đọc ẩu sẽ tưởng như một dòng hồi ức bằng thơ, khùng dở và rời rạc, dằn vặt và khô khan.
2.3. Phi lý về ngữ nghĩa ở hàng loạt tượng hình siêu/phi/cực thực (“lấy nhau… làm đồ nhắm rượu,” “chuột ăn cắp tã vá,” “tranh nhau chỗ ngồi với rắn”…) đã dung hòa, nhất là đã xoa dịu các hiện thực có thật trong đó nhà thơ, khoảng bốn mươi năm trước, từng là một chứng nhân cho thời kỳ bi thương của đất nước Việt Nam mà quê hương miền Trung của ông là tuyến đầu. Ở sáng tác này, yếu tố hiện thực huyền ảo đáng được thưởng huân chương chiến công của một bút pháp! Cái “ký ức đau thương, xa xót,” cái “ấn tượng đau thương, quằn quại,” nhờ đó, đã vượt lên bề mặt của văn bản, khiến văn bản lớn dậy và trở thành tác phẩm văn chương. Viết về hậu chiến mà đạt tới độ-không như vậy, chiến tranh chỉ còn biết treo cờ trắng!
2.4. Phi lý về kết cấu, bài thơ nom xộc xệch; như dang dở. Đúng là một xâu “kỷ niệm” không chỉ “tưởng tượng” mà còn đầu Ngô mình Sở; như thể câu nói vô thức liền hơi bạ gì kể nấy. Mở bài và kết bài đều đột ngột, tạo sốc, nhưng nhộn nhàng, hồn nhiên. Giống câu chuyện cổ tích thời a-còng!
2.5. Phi lý về cảm hứng chủ đạo giữa cái Bi và cái Hài, cái Trữ Tình và cái Tự Sự; trong đó hai cái sau (Hài, Tự Sự) nói chung là xa lạ với thơ Việt. 
3. Thủ pháp thành phần phụ:
Có thể nói, bài thơ của Trương Đăng Dung đã sử dụng hết mình thủ pháp này; từ tựa đề, tới lời đề tặng và cuối cùng là địa điểm, thời gian viết. Tức là toàn bộ văn bản, từ đầu đến chân. Tựa đề, như nói trên, “ăn nhau” là ở các từ “tưởng tượng.” Lời đề tặng “Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras” khẳng định thêm các trích ngang về nhân vật “anh.” Địa điểm, thời gian làm bài thơ “ Budapest , 4-1983,” nhất là mốc “1983” dự phần vào các điểm 2.1, 2.2. (Ở bản đăng trên trang mạng tạp chí Sông Hương, thì là các con số “5-1984”; chúng càng trở nên đẹp khi sánh với câu thơ đầu tiên và át chủ, ta hãy đọc lại: “Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”.) Tức là, bài thơ vớ i“ba mươi hai câu” thơ ấy có cả thảy ba-mươi-lăm-dòng-thơ.
Thông thường, phần “phụ tùng” của một bài thơ rất dễ bị (và cũng nhiều khi là được), những “mẫu nghi thiên hạ thơ” ở các tòa soạn ra tay sửa chữa, cắt gọt, thậm chí… liệng xừ đi cho gọn! Tựa đề thì khỏi nói; dù sao cũng là đỉnh núi chứa tinh túy và chủ ý của toàn tác phẩm. (Nói cho ngay, không thể nào coi tựa đề như một thành phần phụ! Ở đây chỉ mang ý khu biệt nó, cùng hai cái “phụ tùng” kia, với thân bài thơ.) Nhưng còn lời đề tặng và địa điểm, thời gian hoàn thành, dường như ít được người đọc, người biên tập ngó tới khi thưởng thức, xem xét; thi thoảng mới có nhà phê bình để mắt khi cần tìm hiểu. Thế nên, không chỉ với bài “Những kỷ niệm tưởng tượng,” xin được mạnh bút mà rằng, với không ít thi phẩm, hai phần phụ đó có thể mang chở các thông tin hữu ích về nội hàm và ngoại vi thơ. (2)
4. Thủ pháp kết hợp Đông-Tây:
Biểu hiện thi ca qua các yếu tố văn hóa (từ phong tục ẩm thực “cùng nhau ăn thịt chó” tới sinh hoạt nhi đồng “làm búp bê cho em tôi chơi”), y tế (“các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời”), v.v… mà chí tử ở bài thơ này là yếu tố chiến tranh (“và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo / bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…) của hai khu vực Đông-Tây, hai lãnh địa Á-Âu đã được diễn đạt không úp mở qua cả nội dung tư tưởng cho đến cấu trúc, phong cách rồi hình tượng, giai điệu…
Mạnh hơn các thủ pháp khác, thủ pháp xóa nhòa không nhân nhượng mọi đường biên quốc gia, dân tộc, cá thể trong bài thơ đã làm nổi lên một nhân sinh quan phổ cập từng được nổi danh qua nhà thơ Nga Konstantin Simonov với “Nỗi đau này đâu chỉ của riêng ai.” Phải rồi, đó là của “chúng ta,” bởi đã “lớn lên cùng nhau,” “cùng nhau thấy…”, “cùng nhau thấy….” và “cùng nhau thấy…”! Chúng ta – đó là Hollo Andras và Trương Đăng Dung, là Trần Anh Thái và Đỗ Quyên, là Sông Hương và phongdiep.net, là v.v… và v.v… Danh sách chủ thể và đối tượng thơ cứ kéo dài theo hành trình tiếp nhận thơ. Nghệ thuật thi ca phải là vậy!
5. Thủ pháp điểm rơi của bài thơ:
Thiển nghĩ, không chỉ như nhà bình thơ đã nói – “Vào thời điểm ấy (1983), nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm.” – mà ngay bây giờ, những năm 2000, nó vẫn “độc đáo và lạ lẫm” về cách dẫn dắt thơ và về giọng điệu thơ. Nhưng vì thi ca Việt, trong lẫn ngoài nước, vẫn đang qua cái thời né tránh hiện thực thô, thẳng; nên nếu đọc nhanh đọc đều “Những kỷ niệm tưởng tượng” giữa cả một dòng-thơ-thô-thẳng hôm nay, có lẽ ta sẽ dễ để trượt khỏi mắt mình cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang của bài thơ.
Ám ảnh là đức tính chính của sáng tạo văn nghệ.
Thay cho từng lời cám ơn nhà thơ Trương Đăng Dung, cám ơn nhà bình thơ Trần Anh Thái, cám ơn các diễn đàn thơ Hung, Việt Tác Phẩm Mới, Sông Hươngphongdiep.net, mời tất cả chúng ta hãy có lời tổng cám ơn Nàng Thơ – mẫu nghi của cái thiên địa tràn đầy thơ ca này!
Vancouver, 30-9-2009 
Chú thích & Phụ lục:
1) Hollo Andras là nhà thơ Hungary, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Budapest năm 1977, là một trong những văn nghệ sĩ các nước XHCN cũ ở Đông Âu dành nhiều thiện cảm với Việt Nam. Tác giả Trương Đăng Dung đã học và nghiên cứu ở đó, là người dịch nhiều bài thơ của Hollo Andras ra tiếng Việt.
2) Chúng tôi cũng đã ít nhiều lưu tâm tới ý nghĩa của các thành phần phụ trong một bài thơ, và xin khất ở dịp khác. Một ví dụ khá rõ cho “sức mạnh” của lời đề tặng là với bài thơ “Nếu” của Nguyễn Đức Tùng, đăng lần đầu trên talawas.org, từng làm lao xao độc giả trong và ngoài nước hồi năm ngoái (http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12515&rb=0101)
3) Bài bình của Trần Anh Thái và bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung:


Bài 2:
INRASARA – “TRƯƠNG ĐĂNG DUNG, THƠ NHƯ LÀ THỎA THUẬN Ý NGHĨA”


(Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng, tập thơ của Trương Đăng Dung, NXB Thế giới, H., 2011) 

Xao xuyến (angoisse) – một khám phá lớn của triết học hiện sinh, là nỗi sợ hãi căn nguyên. Sợ hãi không gì cả, không đối tượng cụ thể, không thể nắm bắt. Nỗi sợ vô hình. Nó có đó, nhưng không thể gọi tên. Khi ta muốn gọi tên nó, khi ta ý định giải thích nó thì nó liền lẩn mất. Lẩn mất, mà vẫn ở lại. Đột ngột xuất hiện trở lại, và gây xao xuyến, khắc khoải.
Chỉ có vài sinh thể ưu tư thâm trầm mới bắt gặp sợ hãi căn nguyên này. Một bắt gặp không cần biến cố lớn lao trong cuộc sống, mà là rất tình cờ. Khi ta lang thang lơ đễnh một mình giữa đồng không mông quạnh, hay khi nửa đêm chợt tỉnh ta thấy ta bất chợt có mặt trên đỉnh núi lạ lẫm. Hay như trên một chuyến tàu đêm nơi một thành phố xa lạ:
Một chuyến tàu hối hả
chạy về đâu trên đất lạ trong đêm.
Tôi thức với trái tim
những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực
không còn đủ sức
chạy theo con tàu.

Khi ta thoát khỏi thao túng hay bận tâm của sự vật quanh ta. Bằng hữu, anh chị em, đồ đạc quen thuộc trong căn phòng quen thuộc.
Khoảng cách bỗng dài thêm
đêm choàng hết những gì còn lại
đâu đó còn ai thức với tôi không?
(“Đêm ở Roma”)

Không gì cả. Tất cả vật thể đều trôi đi. Chỉ một mình ta ở đó. Ta “thấy” nó và, “được” nó. Như một tặng vật, đặc ân ban tặng cho kẻ trầm tư. Ban tặng không như một chiếm hữu nó, mà ngược lại, chính nó chiếm hữu ta. Lay động ta dữ dội ở thẳm sâu nhất tâm thức ta, cả con người ta. Chối bỏ không được. Chạy trốn càng không.
Đạo Phật cho rằng chỉ khi nào con người vượt qua nỗi sợ hãi căn nguyên này, họ mới đạt đến hạnh phúc viên mãn. Các bậc tu hành với bản lĩnh tu tập và quả phước từ ngàn kiếp trước mới đạt đến cõi đó. Con người phàm trần thì cực khó. Thi sĩ càng không, có lẽ. Không có vấn đề hơn hay kém ở đây, mà khác đi: thi sĩ không muốn “đáo bỉ ngạn”.

Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung đầy tràn nỗi xao xuyến, khắc khoải đó. Thời gian, cái chết (“lũ quạ” mang ý nghĩa tượng trưng) và đau khổ (qua, với và trong “bức tường”) như thứ ám ảnh – ba trong một, một mà ba – đi xuyên suốt tập thơ mỏng này.
Những bức tường, những bức tường, những bức tường là nhịp ba đập liên lỉ, lặp đi lặp lại không dứt. Những bức tường chính là nguyên do của nỗi khổ ải tạo thêm nhiều dòng sông đau khổ gọi mời phụ lưu đau khổ khác đổ thêm bao đau khổ vào bể khổ cuộc đời – mênh mông, bất tuyệt.
Có những bức tường ta xây
và ta phá,
có những bức tường ta không xây
và không nhìn thấy.

Nhìn thấy hay không nhìn thấy thì vẫn vậy. Dù ý thức hay không ý thức, chủ hay khách, tác nhân hay nạn nhân, buồn hay vui, chia tay hay sum họp, khóc cười, yêu ghét, hồ hởi bắt tay hay xoay lưng lánh mặt hoặc đầu gối tay ấp… ta đều dựng lên bức tường. Những bức tường tạo đau khổ. Tôi khổ, em khổ, anh khổ, chúng tôi khổ, các anh khổ… Tất cả đều bị bao quanh, bị khu trục – không thoát ra được.

Vậy thì làm sao?
Đức Phật ban phát Tứ diệu đế hòng đưa con người thoát khỏi vòng trầm luân của kiếp nhân sinh. Krishnamurti đơn giản hơn: hiểu tức là giải thoát. Nhưng thế nào là hiểu?
Hiện thực thời hậu hiện đại chỉ còn là vật thế vì giả tạo (simulation) đã mất hết hệ quy chiếu với hiện thực như thực mà chỉ quy chiếu đến các kí hiệu khác rồi kéo theo vô vàn kí hiệu khác nữa, trùng trùng duyên khởi tạo tác từ chính ngôn ngữ và hình ảnh đang ngập tràn thế giới ta sống.
Con người [thời] hiện sinh vong thân giữa thế giới đồ vật và trong tha nhân; còn hơn thế, con người hậu hiện đại chìm ngập trong vô vàn hình ảnh phi căn nguyên. Trong khi kẻ hiện sinh bất lực và đau khổ và than vãn, thì kẻ hậu hiện đại kêu gọi nhập cuộc chịu chơi.
Thế nhưng, thii sĩ không phải là tư tưởng gia hay đạo sư, hắn có cách khác: cách đặc thù của thi sĩ. “Chỉ chúng ta kẻ ngụ cư ngang thời gian/ là không rớt lại” (Inrasara, Sinh nhật cây xương rồng). Trương Đăng Dung có cách khác nữa:
Anh không thấy thời gian trôi
chỉ thấy những đám mây di chuyển…
(“Anh không thấy thời gian trôi”)

Nghĩa là chết đi thời gian, chết đi ba phân kì thời gian: quá khứ – hiện tại – tương lại. Chết đi cả kì gian (durée). Biến “sát-na thành thường trụ“. Chết đi với thời gian có nghĩa là hiểu thời gian, cũng có nghĩa là giải thoát khỏi khổ đau và cái chết. Giải thoát không phải là cắt đứt, không là thoát đi, ra đi, bỏ đi mà là ở lại. “Đi – như là ở lại“. Bởi thi sĩ vẫn ở trong cõi người ta, hắn đang bổn phận canh giữ ngôn ngữ dân tộc. Bố tát là hàng đạt đạo, nhưng khác với A-la-hán quả vị đầu, Bồ tát không bỏ đi mà ở lại. Ở lại và chấp nhận nói ngôn ngữ của cõi người. Ngôn ngữ như là thứ phương tiện thiện xảo của thương lượng, hay của “thỏa thuận” ý nghĩa – nói như Trương Đăng Dung.

Văn chương Việt Nam thiếu tư tưởng, – các tư tưởng nền tảng. Triết lí nếu có, chỉ là mấy lí sự vụn, triết lí cóp nhặt đầy chắp vá. Có được một tác phẩm mang tính tư tưởng là điều hiếm.
Năm năm trước Gửi VB (NXB Hội Nhà văn, H., 2006) là một. Phan Thị Vàng Anh đánh thức sự vật đang có mặt trong sinh hoạt ngày thường giữa đời thường. Đúng hơn, các bài thơ gọi tên sự vật đang thức, những sự vật đang trầm tư. Những phố, chung cư, mưa, con hẽm, chiếc taxi, áo len đỏ, cầu thang, cái điện thoại, ngọn đèn, giường, bàn, máy, đồng hồ trên tường, mọt nghiến chân bàn, lá xanh vươn qua song, những đàn bướm trắng, hoa lít nhít… tất cả sự vật có đó. Với con người. Trong cái mà thi sĩ đã gọi tên qua ngữ ngôn của thi ca. Qua đó thiết lập sợi dây tương liên con người với sự vật gần gũi ngày thường, con người gắn kết mình với mặt đất, và an cư trên mặt đất như là ở nhà.
Tập thơ Gửi VB khá mỏng, nhưng nó rất nền tảng. Như Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, không dày, nhưng đủ đầy trong suy nghiệm về thời gian, đau khổ và cái chết qua thứ ngôn ngữ “thỏa thuận” (như Heidegger buộc phải sử dụng ngôn ngữ siêu hình học để nói lên tư tưởng):
và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.

Thế giới không thuần nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận.
Chỉ có thi sĩ đích thực mới có thể sử dụng thứ ngôn ngữ “thỏa thuận” như phương tiện thiện xảo mà không tổn hại đến ngôn ngữ như là ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở đó, hắn – như một mục tử – bổn phận đứng canh giữ.
Sài Gòn, 7-8-2011
INRASARA


Bài 3:
ĐỖ LAI THÚY – “TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VỚI THƠ – THỜI – GIAN”

Anh không thấy thời gian trôi
thời gian ở trong máu, không lời
ẩn mình trong khóe mắt làn môi
 
Trong dáng em đi nghiêng nghiêng
như đang viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi
(T.Đ.D.)
1. Bạn đọc trước đây đã từng quen với một Trương – Đăng – Dung – lý – luận, thì từ đây sẽ quen với một Trương – Đăng – Dung – thơ, những chiều kích khác nhau của một con người. Làm lý luận, Trương Đăng Dung thích thứ lý luận thuần túy, làm việc với các ý tưởng để sản sinh ra ý tưởng. Lý luận văn học của anh, vì thế,  gần với triết học, hoặc đi ra từ triết học. Mà triết học với thi ca thì, như Aristote nói, là hai chị em ruột. Bởi vậy, nhìn ở cấp độ này, người ta không hề ngạc nhiên thấy nhà lý luận Trương Đăng Dung làm thơ.
2. Khác với nhiều người chỉ làm thơ khi đã về hưu, hoặc sớm hơn “nghỉ quản lý”, tức sau khi đã đạt được những viên mãn nào đó trên chính trường hoặc trong học thuật, mới làm thơ, theo cái truyền thống “trẻ Nho già Lão” (trẻ văn xuôi già thơ) của Đông Á, thì Trương Đăng Dung làm thơ khi còn là sinh viên đại học và liên tục cho đến ngày nay. Nhưng khoảng cách thời gian kể từ khi những bài thơ đầu tiên của anh được in ở báo Văn nghệ (1978) đến khi thơ anh xuất hiện lại trên tạp chí Sông Hương (2002) là hai mươi bốn năm. Bao năm qua, theo cách nói của Nietzsche, anh bị chi phối bởi “sức mạnh phản ứng”, nên dồn tâm trí nhiều vào việc đi tìm chân lý, dĩ nhiên với anh là chân lý học thuật. Và, lệ thường, một khi đã khẳng định chân lý này thì phải phủ nhận chân lý kia. Người ta phải đi vào khoa học, và với Trương Đăng Dung là khoa học văn học, là vì thế. Và cũng vì thế mà sức mạnh nguyên thủy nguyên khối trong con người bị phân chia, cuộc sống trở nên bị thiến hoạn. Dù là để tạo nên công trình khoa học đầy tính chiến đấu. Nhưng ngày càng, ở Trương Đăng Dung, “sức mạnh hoạt năng” vốn thuộc về nghệ thuật càng trở nên chiếm ưu thế. Thẩm mỹ cũng có xung đột, nhưng là thứ xung đột để ngỏ, không vì sự đúng sai mà vì sự khác biệt. Nghệ thuật, nhất là thơ, nhờ thế bảo toàn được sức mạnh uyên nguyên và sự đa dạng đời sống và thẩm mỹ. 
3. Khoảng dăm năm trước đây, tôi, Trương Đăng Dung và Bửu Nam đi ăn tối ở Huế xưa và bàn phiếm về văn học. Nhân đà hứng chuyện, Bửu Nam nói sau này có lẽ Trương Đăng Dung “tồn tại” không phải nhờ những công trình lý luận của anh, mà bằng những bài thơ anh cho đăng tải gần đây. Lúc ấy, tôi thấy Trương Đăng Dung thoáng sững người, im lặng. Tôi vội ra hiệu cho Bửu Nam đừng nói tiếp và lảng sang chuyện khác. Nhưng gần đây, tại một quán cà phê ở Hà Nội, lời nhận xét này vô tình lại được thốt ra từ miệng một người bạn khác của Trương Đăng Dung. Lần này, tôi đã thấy anh mỉm cười vui vẻ. Hóa ra, nhận thức thơ, dù là thơ của mình, cũng là một quá trình. Thơ Trương Đăng Dung càng xuất hiện nhiều trên Sông Hương và tạp chí Thơ, càng được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao, thì càng khẳng định thêm điều đó ở anh. Và, giờ đây, tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng được trình làng. Sự kiện này không nói lên rằng con người thơ Trương Đăng Dung chiến thắng con người lý luận trong anh, mà chứng tỏ là trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”, khi các “thần tượng” của Nietzsche hoặc các “đại tự sự” của Lyotard bị hoài nghi và sụp đổ, chân lý trở nên tương đối bởi sự đa nguyên và đa thể của nó, thì đây chính là thời của văn chương nghệ thuật. Trương Đăng Dung, tôi nghĩ, bao giờ cũng là người – của – hiện – tại, như tự ngôn của Picasso, “tôi không tiến đi đâu cả, tôi là hiện tại”.
4. Có thể nói, thơ Trương Đăng Dung là thơ – thời – gian. Người Việt ta, kể từ khi tiếp nhận văn minh phương Tây là bắt đầu từ giã thời gian truyền thống, thứ thời gian quay theo vòng quay của mùa màng hoặc sự tuần hoàn của vũ trụ, để chấp nhận thời gian khoa học, tuyến tính. Từ đó, với họ, thời gian một mặt là sự thành công, là của cải, tiền bạc, mặt khác là cái chết, một cái chết không thể đảo ngược, không thể cứu vãn. Thời gian, vì thế, trở thành một ám ảnh. Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải muốn vượt qua nỗi – ám – ảnh – thời – gian này. Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời – gian – Thơ – Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó, thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người, hay nói như M. Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ, tồn tại và thời gian, tồn tại thời gian. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ. Thơ Trương Đăng Dung hẳn vì thế mà có không khí hậu hiện đại.
5. Trương Đăng Dung là nhà thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm chí mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào đó về cuộc đời. Có điều, khác với thơ cổ điển, thông điệp thơ anh không phải là những bưu kiện để người đọc nhận trọn gói, mà là những chấm phá phía chân trời vẫy gọi người đọc đến thám mã và đồng sáng tạo. Bởi lẽ mọi ý tưởng có sẵn, đúng cho tất cả mọi người đều là những ý tưởng đã hóa thạch, còn những tư tưởng sống thì đều đang vận động, dang dở và chưa hoàn kết. Tuy nhiên, làm một nhà thơ tư tưởng là rất khó. Nếu anh để cho một “sứ mệnh” nào đó lấn át ngôn ngữ, thì yếu điểm lập tức trở thành điểm yếu. Rất may là tư tưởng thơ Trương Đăng Dung không đông đặc mà trôi chảy với một khí lực mạnh mẽ vào từng câu chữ, khiến ngôn ngữ thoát khỏi được thân phận công cụ, để có đời sống tự thân, đôi khi tự phát sinh tư tưởng. Nhờ thế, trên đường đến với ngôn ngữ, mỗi bài thơ Trương Đăng Dung là một trạng – huống – ngôn – ngữ – nhân – sinh của anh. Và, qua anh, của người đọc.
Kon tum, đêm 13 – 1 – 2011
NHỮNG KỶ NIỆM TƯỞNG TƯỢNG
(Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras)

Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời
ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
họ lấy nhau của mẹ ta chia nhau làm đồ nhắm rượu
các nữ y tá nhìn ta
kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên
những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện
chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.
Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng
cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.
Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
làm dùi cho em tôi đánh trống.
Budapest, 4-1983

ANH CHIẾM CHỖ BÓNG ĐÊM

Anh nghe bóng đêm tan trên cơ thể em
bóng đêm chạy trốn.
Những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
những đường cong như sóng vươn về phía trước
hơi thở như gió
đắm say và gấp gáp.
Anh chiếm chỗ bóng đêm
cơ thể lún sâu đến kiệt sức
những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
sâu lắng và bí ẩn.
Bóng đêm chạy trốn
Thủy triều lên từng đợt, từng đợt
Bãi cát mịn mượt mà dâng hiến.
Anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có tự ngàn đời
để cho em rạng rỡ.
Có phải chúng ta đang bị tự nhiên lừa*
để kéo dài sự sống?
anh vẫn muốn bị lừa
để chiếm chỗ bóng đêm
để có em vĩnh viễn!
4.2007
——————-
* Ý của Arthur Schopenhauer


Bài 4:
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC – “NỖI BUỒN NHÂN THẾ TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG”


(Cảm nhận về tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng)
Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượnglàm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ. Có thể nói rằng ở Trương Đăng Dung, lí luận và thơ là hai thái cực khác nhau nhưng lại có sự xuyên thấm hài hòa; những công trình lí luận của ông không cứng nhắc trên lí thuyết, mà đã có sự tác động tích cực vào đời sống văn học nước nhà; còn với thơ, dù mới chỉ trình làng tập thơ đầu tay, nhưng Trương Đăng Dung đã chứng tỏ được tài năng của một cây bút có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và cảm xúc, giữa chất trí tuệ và độ mặn mà của tâm tư tình cảm. Đó là chưa kể đến một lối diễn đạt mới lạ mang đậm dấu hiệu của Chủ nghĩa Hậu hiện đại.
Những kỷ niệm tưởng tượnglà một tập thơ hiện thực – sản phẩm của một tâm hồn lãng mạn, là nỗi lòng thất vọng về hiện thực đang diễn ra, và niềm khát vọng về một hiện thực bình yên, hạnh phúc trong tưởng tượng. Những ai không trải nghiệm đắng cay, gian khổ trong đời, những ai dửng dung với cuộc đời và tình người thì không dễ cảm được những điều tác giả gửi gắm trong tập thơ này.
Đến với Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, chúng tôi nhận ra trong cái dòng chảy trầm buồn của thơ ông một chiều sâu tư tưởng. Bao trùm lên tập thơ này là một nỗi buồn nhân thế. Nỗi buồn ấy được thể hiện ở nhiều trạng thái khác nhau. Có khi đó là sự hoài niệm về quá khứ, về hình ảnh dòng sông và dòng đời thủa thiếu thời, khi người với người sống với nhau đầy ắp nghĩa tình:
                                    Anh trở về với bến sông xưa,
                                    Em không nhớ thời gian nước chảy
                                    Anh không biết những ngày thơ bé ấy
                                    Những giọt nước qua má, qua môi
                                    Rơi xuống bàn tay ấm nóng hơi người.
                                                                                                  (Có thể)
Và hình ảnh người mẹ với đức hy sinh cao cả cũng làm cho Trương Đăng Dung cháy lòng:
                                    Có một thời
                                    Đến bữa cơm mẹ ngồi đợi vét nồi
                                    Răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa.
                                                                                    (Có một thời)
Quá khứ thật nhiều gian khổ, nhưng Trương Đăng Dung không buồn vì sự gian khổ ấy, ông chỉ buồn vì sự đổi thay của xã hội và tình đời đã làm cho cuộc sống trở nên nhạt nhẽo, những giá trị tinh thần, những dấu tích văn hóa truyền thống đã trở nên phai nhạt:
                                    Hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này
                                    Tôi không còn nhiều bạn
                                    Cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi
                                    Tôi không còn kí ức
                                    Những giọt máu cuối trời tuổi thơ…
                                                                                  (Ghi chép hè 2009)
Điều đáng nói là lúc hoài niệm về quá khứ lại là lúc mà tác giả thiết tha với cuộc đời hơn. Ông viết:
                                    Anh không thấy thời gian trôi
                                    Chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh
                                                                                    (Anh không thấy thời gian trôi)
Nỗi buồn nhân thế của Trương Đăng Dung có khi lại thể hiện ở những khắc khoải về kiếp người ngắn ngủi. Trạng thái này được lặp lại nhiều lần như một nỗi ám ảnh của tác giả. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy thật đúng đắn khi bàn về vấn đề thời gian trong tập thơ này; đó không phải là thời gian bên ngoài như nỗi ám ảnh của các nhà Thơ mới, mà trong tập thơ này, tác giả quan niệm thời gian ở trong máu, trong khóe mắt, làn môi, trong dáng đi,… Thời gian chính là con người. Tác giả tập thơ dường như cảm nhận được bước đi rất nhanh của thời gian trong cơ thể mình. Bởi vậy mà ông luôn khắc khoải, lo sợ.
                                    Anh không thấy thời gian trôi
                                    Thời gian ở trong máu, không lời
                                    Ẩn mình trong khóe mắt, làn môi
                                    Trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang
                                                                                    viết lên mặt đất thành lời
                                    về kiếp người ngắn ngủi.
                                                                                    (Anh không thấy thời gian trôi)
Ý thức được bước đi của thời gian và sự ngắn ngủi của kiếp người, Trương Đăng Dung càng day dứt bởi những việc ấp ủ, những khát vọng còn chưa kịp thành hiện thực:
                                    Sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được
                                    Mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành.
                                                                                    (Anh không thấy thời gian trôi)
Những khắc khoải, lo sợ về kiếp người ngắn ngủi càng cho thấy tấm lòng hết mực yêu đời và tư tưởng lớn, khát vọng lớn của Trương Đăng Dung.
Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, chúng tôi thấy một trạng thái tư tưởng, cảm xúc được thể hiện tập trung và xuyên suốt tập thơ, đó là nỗi buồn, sự thất vọng trước hiện thực đời sống con người và xã hội. Khi hoàn niệm về quá khứ, Trương Đăng Dung tiếc nuối đến cháy lòng, lúc trở về hiện tại, ông đau đớn vô cùng bởi đâu đâu trên thế gian này cũng thấy chiến tranh, chết chóc, đói khổ, sự bon chen, chia lìa, đơn chiếc, lạnh lùng, đỗ vỡ; đâu đâu cũng đầy những trái ngang, phi lí,…  
Trên dòng đời hối hả mấy ai dừng lại để thổn thức trước nỗi đau của đồng loại trên khắp thế gian này như tác giả của Những kỷ niệm tưởng tượng. Ông nhìn đâu cũng thấy đau thương. Đơn giản nhất là nỗi đau vì những toan tính mưu sinh, những gian nan vất vả của kiếp người:
                                    Còn đây gương mặt của con người
                                    Nhàu nát mưu sinh và hy vọng.
                                                                        (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi)
Kế đến là nỗi đau sự đói khổ, túng thiếu:
                                    Ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
                                    Các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
                                    Họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu.
                                    Các nữ y tá nhìn ta
                                    Kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
                                  Không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
                                                                                    (Những kỷ niệm tưởng tượng)
Và nỗi đau của những cảnh ngộ:
                                    Anh đã thấy những người dị dạng
                                    Dang tay đòi hái mặt trời
                                    Những bóng ma thọt chân, lang thang
                                    Đòi trở về quê cũ,…
                                                                        (Chân trời)
Cuộc đời vốn đã lắm gian nan, cớ sao con người lại chuốc thêm nhiều đau khổ, gây nên cảnh loạn lạc, và chiến tranh đãm máu. Đây là hậu quả của chiến tranh mà Trương Đăng Dung đã tái hiện một cách đau đớn và khủng khiếp đến ghê người:
                             …..và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
                                    Trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
                                    Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
                                    chân người chết thò ra khỏi chiếu
                                  cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
                                    vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn,                                 và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo,…
                                                                                                (Những kỷ niệm tưởng tượng)
Thánh đường Hồi giáo lẽ ra là nơi ban phát đức tin và tình yêu thương che chở của chúa, nhưng Trương Đăng Dung lại nhìn thấy:
                                    Bom nổ ở một thánh đường Hồi giáo
                                    Máu người nhuộm đỏ sách Kinh.
                                                                        (Ghi chép hè 2009)
Trong bài Giấc mơ của Kafka, tác giả lại một lần nữa nhấn mạnh sự phi lí của xã hội loài người trong bối cảnh hậu hiện đại:
                                    Ở New York chiều chiều
                                    Những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông
                                    cứu những con chim sẻ.

                                    Ở Paris trước cửa Viện bảo tàng
                                    Người nằm ngáp
                                    Trâu xếp hàng mua cỏ.

                                    Ở Moskva những thiếu phụ da vàng
                                    Chơi với hổ
                                    Trên quãng trường ngập nước

                                    Ở Tokyo nữ phát thanh viên truyền hình
                                    Không có miệng
                                    Huơ tay chào khán giả…
Chính những nơi được xem là văn minh nhất của thế giới lại là nơi ngập tràn những điều phi lí, trái ngang. Loài người đang đi đâu, về đâu? Hướng đến sự văn minh, hay đang đi ngược lại quy luật sinh tồn và phát triển. Trương Đăng Dung đau buồn trước hiện thực nhân loại “càng bước càng lún sâu vào đất”.
Hiện thực cuộc sống vốn nghiệt ngã, lạnh lùng, lẽ ra con người phải xích lại gần nhau. Vậy mà vẫn còn đó cảnh khi cánh cửa nhà này mở ra/ cánh cửa nhà kia khép lại (Những người đàn bà), người với người đi theo hàng dọc, nên chẳng bao giờ họ gặp được nhau. Viết những dòng thơ như thế, Trương Đăng Dung dường như muốn gửi đến người đọc chúng ta một thông điệp giàu ý nghĩa nhân sinh: đời vô cảm thì con người cần phải hữu cảm, có như thế cuộc sống này mới bớt thương đau.
Hiện thực xã hội đang đỗ vỡ từng ngày đã nằm ngoài sức tưởng tượng của Trương Đăng Dung, khiến ông không chỉ buồn, không chỉ đau mà còn ngơ ngác không hiểu nổi. Trong bài thơ Chúa đã ra đi ông viết:
                                    Ta lớn lên ngơ ngác cõi người
                                    Tình thương, thù hận, buồn, vui
                                    Hun hút đường xa cát bụi
                                    Người đi không biết về đâu

                                    Điều kì lạ vẫn là thế giới
                                    Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ
                                    Chúa đã ra đi
                                    Chúa không thể nào ngờ.
Trong một xã hội đầy nghịch lí như thế, hạnh phúc là điều rất mỏng manh và cũng không dễ gì có được. Trương Đăng Dung đã thể hiện điều này qua kết cấu đầy thú vị của bài thơ Ảo ảnh. Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu về một hiện thực đầy nghịch lí:
                                    Bao năm rồi anh tìm em
                                    Trong những bình minh không có mặt trời
                                    Trong những lâu đài chỉ có cánh dơi
                                    Trong những giấc mơ không đầu không cuối.
Khổ thơ tiếp theo được mở đầu bằng một mệnh đề nghi vấn: Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời. Đến cuối khổ thơ, câu trả lời có được là hai từ Nước mắt. Vậy là, theo Trương Đăng Dung, cuộc đời trong xã hội này đồng nghĩa với nước mắt, khổ đau, còn hạnh phúc chỉ là ảo ảnh.
Cũng trong bài thơ này, tác giả mở đầu bằng hình ảnh bình minh không có mặt trời, đến cuối bài thơ tác giả lại kết thúc bằng hình ảnh ánh nắng nhạt nhòa thấp thoáng bên khung của. Cái kết cấu khép kín này đã mở ra cho người đọc nhiều suy nghĩ về một xã hội không có gì chắc chắn, không có gì rõ ràng, không có gì bất tử. Tất cả chỉ nhạt nhòa tựa như ảo ảnh.
Buồn đau, không hài lòng với thực tại xã hội loài người, nhưng Trương Đăng Dung không có cảm giác bi lụy khi đối diện với hiện thực ấy. Là một người lạc quan, yêu đời, ông luôn ấp ủ niềm khát vọng về một thế giới bình yên. Khi cuộc sống này có quá nhiều Những bức tường, khi xã hội này đầy nắng, mưa và gió,… Trương Đăng Dung vẫn âm thầm hy vọng về một thế thái nhân tình ấm áp nghĩa tình. Ông dặn con và cũng là để nhắc nhở chúng ta:
                        Bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
                        Trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con
                                                                                                (Viết cho con).
Có thể nói rằng, mỗi câu, mỗi chữ của Trương Đăng Dung đều ẩn chứa một nét buồn, và cả tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của ông là một khối buồn về thế thái nhân tình. Nỗi buồn của Trương Đăng Dung có cội nguồn từ một ý thức trách nhiệm cao đối với cuộc đời, con người. Nỗi buồn ấy cũng cho thấy những khát khao muốn cải tạo, muốn thay đổi để mai này cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn. Nếu nói mỗi nhà thơ là một nhà tư tưởng, thì điều đó quả rất đúng với Trương Đăng Dung. Với tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng ông đã chứng tỏ được tầm cao tư tưởng của mình.
Nói về nghệ thuật biểu đạt trong tập thơ, chúng tôi thấy Trương Đăng Dung có một lối diễn đạt rất giản dị nhưng cũng rất mới mẻ. Lời thơ của ông thiên về kể, nhưng ông không kể tràn lan, ông chỉ điểm nhãn một số hiện tượng nổi bật mà ông đã trải nghiệm và chứng kiến trong đời nhưng không làm mất vẻ đẹp hàm súc vốn là đặc tính của thơ. Câu chữ của Trương Đăng Dung vừa giàu tính biểu tượng, lại vừa giàu sức gợi cảm. Với Trương Đăng Dung, thơ chỉ đơn giản là một trò chơi ngôn ngữ:
                                                Ngôn từ kết nối
                                                Phân chia,….
                                                Và ngôn ngữ
                                                tự do tạo nghĩa
Những gì thơ muốn nói thì người nghe tự hiểu.
Thơ luôn mang đặc tính ý tại ngôn ngoại, thơ hay lại càng nhiều bí ẩn. Những gì tác giả bài viết này thể hiện trên đây cũng chỉ là một góc nhìn, một cách nhìn về tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng. Những mong bạn đọc gần xa sẽ tiếp tục kiếm tìm và sẻ chia những điều bí mật đang tiềm ẩn trong tập thơ này.
                                                                                   
                                                                                Thành sen, tháng 8 năm 2011


Bài 5:
HOÀI NAM – CẢM THỨC LẠC LÕNG TRONG TẬP THƠ “NHỮNG KỶ NIỆM TƯỞNG TƯỢNG”?

Ai đó, hình như mặt trời của thi ca Nga, Alecxander Pushkyn, nói rằng tác phẩm văn học bắt đầu từ cái nhan đề của nó. Điều ấy, ít ra, là đúng với tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung. (NXB Thế Giới, 2011). “Những kỷ niệm” – cho phép người ta hình dung về sự trải nghiệm trong thực tế của tác giả, những trải nghiệm đã biến thành một phần di sản của ký ức. Nhưng “Những kỷ niệm tưởng tượng” thì thật lạ: kỷ niệm được chưng cất từ sự tưởng tượng, hay là sự tưởng tượng đã hóa thân thành kỷ niệm?
Câu hỏi này có lẽ sẽ treo mãi ở đấy, như một bí mật không ai khám phá được; đồng thời, lại như một sự kích thích, một hối thúc người đọc phải dấn thân vào cuộc phiêu lưu với tập thơ đầu tay của “ông đồ Nghệ nhiều chất Tây”, nhà lý luận – dịch giả văn học Trương Đăng Dung. Và điều đó, chắc chắn, cũng đồng nghĩa với việc người đọc sẽ được nếm trải cảm thức lạc lõng từ thơ ông, trong thơ ông.
Tôi sẽ bắt đầu bằng một bài, có thể chưa phải bài hay nhất trong tập, nhưng là bài có ý nghĩa như một lời tự bạch của Trương Đăng Dung, bài “Chúa đã ra đi”. Hãy đọc những câu: “Một trưa tháng Năm tôi nghe tiếng xôn xao/ Tiếng của con người tôi sẽ học/ Tôi nghe tiếng ai cười như khóc/ Và tiếng chim kêu lạc lõng phía chân trời/ Tôi lớn lên biết nói tiếng con người/ Những tiếng đầu tiên bà dạy: trời ơi/ Theo cánh bướm tôi đi học từng buổi/ Tôi lớn lên biết đọc chữ con người/ Những chữ đầu tiên; quân giặc, bom rơi/ Đội mũ rơm tôi đến trường mỗi buổi”. Là gì đây, nếu không phải là cảm giác ngỡ ngàng đến đau xót của người “bị sinh ra” (nói theo chữ của nhà văn, triết gia Pháp Albert Camus): tại sao tôi lại sinh ra ở cuộc đời này, tại sao tôi phải sống cuộc sống này, một cuộc sống đầy những điều trái khoáy vì đã không còn Chúa? (Chúa đã chết, muốn làm gì thì làm – đó là câu nói bất hủ của văn hào Nga F. Dostoyevsky). Đứa trẻ không được học những tiếng nói của tình yêu thương của con người như lẽ ra nó phải học, mà đó là những tiếng nói nhuốm mùi chiến tranh, giết chóc, tiếng nói tuyên cáo sự tàn sát giữa con người với con người! Thơ Trương Đăng Dung có khi cô đặc lại thành những câu ngắn, vừa là sự quan sát ghi nhận, vừa là sự chiêm nghiệm đầy ưu tư của tác giả. Những câu ngắn, nhưng chứa đựng sự cật vấn dai dẳng, riết róng và đau đớn của con người trước thời cuộc, sự cật vấn trước chính những gì mình đã trải qua. Tôi muốn nói tới bài “Có một thời”, bài thơ có những câu: “Có một thời/ Đi về đâu mà ai cũng vội/ Có một thời/ Hạt bụi cũng quẩn quanh/ Có một thời/ Nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi/ Có một thời/ Nghe lá vàng rơi lòng ta không xào xạc…”. Bằng một cái nhìn ít nhiều mang màu sắc xã hội học thô thiển, khi quy chiếu những câu thơ trên vào hiện thực đời sống của một thời chưa xa – bài thơ được viết năm 1987 – nhiều người ắt sẽ không tránh khỏi giật mình vì sức mạnh bóc trần và phản tỉnh của nó. Đời sống sao mà quẩn quanh, bế tắc, tầm thường, bé mọn, vô cảm, vô nghĩa lý! Đời sống như thế bị tác giả khai tử bằng một câu hỏi nhức buốt: “Có một thời/ Có một thời/ Ta đã sống thật sao?”. Cả một quá khứ bỗng trở nên bị tẩy trắng các giá trị, con người bỗng trở nên lạc lõng với chính một phần cuộc đời của mình! (Phải mở ngoặc đơn để nói riêng về một chi tiết ở bài thơ này, một chi tiết mà cá nhân tôi thấy cực kỳ thú vị. Đó là mấy câu mở bài: “Có một thời/ Đến bữa cơm mẹ ngồi đợi vét nồi/ Răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa?”. Viết về cái đói kinh niên, cái đói gây ám ảnh hãi hùng của một thời, theo một cách vừa hóm hỉnh vừa xót xa như Trương Đăng Dung thì quả là ít thấy). Vượt lên khỏi sự đeo bám của một thứ nội dung thời cuộc nào đó, đôi khi, trong cái nhìn của tác giả, toàn bộ đời sống và những con người đang sống đều là những tồn tại chưa có lời giải đáp, nói cách khác, là những tồn tại chưa tìm được tính ý hướng của nó, mục đích của nó, cho nó. Vì thế, ông có một câu thơ với hình ảnh thật lạ: “Thành phố phía chân trời/ Mặt trời lên/ Những con người ngồi trên xe/ Những dấu hỏi chạy trên đường/ Lặng lẽ” (Thành phố phía chân trời).
Cảm thức lạc lõng của con người trước con người, trước thế giới, thậm chí với chính mình, còn được Trương Đăng Dung định vị bằng hình ảnh những bức tường, được hiểu như một sự chia cắt bên này – bên kia. Những bức tường, có loại do con người xây lên, nó hữu hình, nên có thể phá; lại có loại không do con người xây, và con người cũng không nhìn thấy, vì nó vô hình, nên không có cách gì phá được. Với loại bức tường thứ hai, thì đó là sự chia cắt mang tính tiên nghiệm (apriori), sự chia cắt tựa như định phận cho mỗi cá thể thuộc loài người. Trong bài thơ cùng tên, “Những bức tường”, Trương Đăng Dung đã xác nhận thứ định phận – sự chia cắt tàn nhẫn này: “Giữa những cái bắt tay/ Có một bức tường/ Giữa em và người em thấy trong gương/ Có một bức tường/ Giữa hai chiếc gối nằm kề nhau/ Có một bức tường”. Ông nhận thấy, một cách phổ quát, những bức tường này có mặt ở khắp nơi trong thế giới này, như một thuộc tính của thế giới: “Khi ta ngước mắt nhìn trời xanh/ Trên mặt đất đã có những bức tường/ Khi ta cúi xuống nhìn mặt đất/ Xung quanh ta đã có những bức tường/ Khi ta nghĩ đến những miền xa/ Phía trước ta đã có những bức tường/ Những bức tường, những bức tường, những bức tường/ Có mặt khắp nơi/ Trong những lời vui đoàn tụ/ Trong những lời buồn chia tay”. Không thể nói rằng cái nhìn về và vào thế giới như vậy là một cái nhìn tươi tắn. Sự u ám, thậm chí mang màu sắc bi thảm của cái nhìn ấy còn được tô đậm thêm bằng câu thơ kết bài: “Đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ Cười nói huyên thuyên trên những bức tường này”. Con quạ, trong thi liệu của truyền thống văn chương cả Đông lẫn Tây, là sứ điệp của cái chết và là chính bản thân cái chết (hãy nhớ tới bài thơ “Con quạ” nổi tiếng của nhà thơ Mỹ Egar Alan Poe và hình ảnh con quạ trong những thi phẩm ma quái của Lý Hạ thời Đường). Tiếng quạ cười nói huyên thuyên trong câu thơ này, không gì khác, là cảm nhận của tác giả về bước đi tàn khốc của thời gian, về tiếng cười chế giễu của cái chết trước tất thảy những bận rộn lăng xăng vô nghĩa trong kiếp nhân sinh. Ta sẽ gặp một lần nữa tiếng quạ kêu trong thơ Trương Đăng Dung: “Thời gian rơi/ Qua từng kẽ ngón tay em vất vả/ Không giữ được đâu em/ Anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ”. Đó là câu kết của bài “Anh không còn gì ngoài em”. Cũng vẫn là như vậy, sự ám ảnh về bước đi của thời gian, của cái chết, trong tâm trí con người. Đôi khi, sự ám ảnh này được thể hiện theo cách khá chân phương, như một câu hỏi buột thẳng ra từ nỗi âu lo: bao giờ thì ta chết? Để cảm nhận điều đó, hãy đọc những câu: “Anh chuẩn bị sống tự lúc mới sinh ra/ Nay hai màu tóc đan nhau/ Ai biết được/ Còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu?” (Anh không còn gì ngoài em). Chuẩn bị sống, nghĩa là chưa từng được sống một cách đích thực. Cảm thức lạc lõng với đời sống ngấm ngầm lan tỏa và nhức buốt trong câu thơ này. Đôi khi, sự ám ảnh về thời gian – cái chết lại được lồng qua thi ảnh khá ấn tượng (bàn tay): “Chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ Bàn tay ta bất động giữa đất dày/ Bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy” (ảo ảnh).
Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy từng viết trong Lời giới thiệu cho tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng”: “Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước”. Đó là ông nói tới nỗi ám ảnh về thời gian – cái chết của Trương Đăng Dung trong thế so sánh với các tác giả thời Thơ Mới, nhất là với Xuân Diệu. Tôi không có ý kiến khác với nhận định này, nhưng mạn phép được thay chữ “đôi khi” bằng chữ “nhiều khi”. Chỉ có điều, Trương Đăng Dung đã không còn… hồn nhiên như thi sỹ tiền bối. Nếu nỗi ám ảnh về thời gian – cái chết khiến cho Xuân Diệu phải vội vàng: “Tôi muốn tắt nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng bay đi… Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em em ơi, tình non đã già rồi” (Vội vàng) thì, Trương Đăng Dung níu kéo thời gian – sự sống theo một cách chậm rãi và ít ồn ào hơn nhiều: “Em ở lại/ Một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ Ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối/ Tiếng côn trùng trong cát bụi sinh sôi” (ảo ảnh). Ông sợ bước đi của thời gian: “Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ Khi môi ta rời nhau/ Hơi ấm đã thuộc về quá khứ/ Sợ căn phòng sẽ trở nên trống rỗng/ Khi em xếp lại chăn màn/ Ký ức không còn nơi ẩn náu”, nên muốn dừng thời gian lại, muốn đóng khung thời gian trong một nỗ lực tuyệt vọng: “Em đừng xếp lại chăn/ Em đừng chải lại tóc/ Em đừng tô lại môi/ Cứ để nguyên áo quần trên ghế/ Cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ Anh cần vật chứng/ Trước thời gian” (Vật chứng). Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy phát hiện ra một điều: thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người. Không phải không có lý. Thì đây, Trương Đăng Dung viết: “Anh không thấy thời gian trôi/ Thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ Trong dáng em đi nghiêng nghiêng như viết lên mặt đất thành lời/ Về kiếp người ngắn ngủi” (Anh không thấy thời gian trôi). Cảm quan về thời gian của Trương Đăng Dung, vì thế, trong chừng mực nào đó, cũng thể hiện chính cảm thức lạc lõng của ông: lạc lõng với chính những cái bên trong con người, tưởng gần gặn mà rất đỗi xa lạ! Bởi vậy, ông mới có thể xáo trộn những khoảng thời gian quá khứ – tương lai gần như vô tận vào với nhau, như trong một cơn mê sảng của cảm thức lạc lõng: “Có thể em quên rằng anh đã gặp em/ Hai mươi ba ngàn năm về trước/ ở một bến sông/ Có thể em đã quên cánh buồm nâu ngày ấy/ Trôi giữa trời xanh không biết đến bao giờ… Anh không biết dòng sông trôi về đâu/ Bốn mươi sáu ngàn năm nữa/ Có thể em vẫn nhớ một ô cửa của con tàu/ Nơi anh đứng/ Và bàn tay thấp thoáng vẫy trong đêm” (Có thể). Thậm chí, quãng cách thời gian còn được Trương Đăng Dung kéo dài ra hơn nữa, trong khi vẫn để mặc cho con người sống với sự hoang mang, lạc lõng, sống với những câu hỏi khôn nguôi về ý nghĩa đích thực của tồn tại người: “Còn đây gương mặt của con người/ Nhàu nát mưu sinh và hy vọng/ Thăm thẳm trời cao đất rộng/ Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi” (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi).
Đọc tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, khoan nói tới những vấn đề đã được bàn tới sờn mòn như nội dung, ý nghĩa, nghệ thuật, tư tưởng v.v… ấn tượng đầu tiên đập mạnh vào sự tiếp nhận của chúng ta chính là một hệ thống thi ảnh kỳ lạ, thậm chí quái đản: “Anh đã thấy những người dị dạng/ Dang tay đòi hái mặt trời/ Những bóng ma thọt chân, lang thang/ Đòi trở về quê cũ/ Và những đội quân không mũ/ Tay súng, tay đao chân bước thụt lùi/ Những nhà thơ chống gậy đứng cười/ Trước những con trâu mông dính đầy mạng nhện” (Chân trời). Cái quái đản của hệ thống thi ảnh này, đôi khi lại chỉ là những hình ảnh thật, nhưng trong cái nhìn và sự sắp đặt của tác giả, chúng thật đến mức trần trụi, thật đến mức tạo cảm giác kinh ngạc về sự phi lý mang khuôn mặt tàn nhẫn của hiện thực: “Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó… Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm/ Chân người chết thò ra khỏi chiếu/ Cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra/ Vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn/ Và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ Bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi” (Những kỷ niệm tưởng tượng). Không nên quên rằng Trương Đăng Dung chính là người đã chuyển ngữ tiếng Việt tiểu thuyết “Lâu đài” của F. Kafka, đồng thời là tác giả của một tiểu luận xuất sắc: “Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka”. Trong tiểu luận này, ông viết: “Hình ảnh của Kafka là hình ảnh của cõi mộng, của những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi hoang mang lo sợ trước thế giới. Điều đó làm nên đặc trưng của thế giới Kafka… Sự độc đáo của nhà văn nhạy cảm đến mức bệnh hoạn này là ông đã không đưa giấc mơ vào phục vụ nghệ thuật mà ngược lại, theo cách riêng, Kafka đã đưa nghệ thuật của mình phục vụ những giấc mơ” (Tuyển tập tác phẩm Franz Kafka. NXB Hội nhà văn, 2003). Nói sao mặc lòng, ít hay nhiều, Kafka cũng đã “ám” vào tư duy nghệ thuật của Trương Đăng Dung và làm thành một trong những khởi nguyên của hệ thống thi ảnh kỳ lạ trong thơ ông. “Giấc mơ của Kafka” là bài thơ rất đặc trưng cho phương diện này. Với tôi, đây là bài thơ hay nhất của cả tập, và vì thế tôi sẽ dẫn nó toàn văn: “ở New York chiều chiều/ Những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông/ Cứu những con chim sẻ/ ở Paris trước cửa Viện bảo tàng/ người nằm ngáp/ Trâu xếp hàng mua cỏ/ ở Moskva những thiếu phụ da vàng/ Chơi với hổ/ Trên quảng trường ngập nước/ ở Tokyo nữ phát thanh viên truyền hình/ không có miệng/ Huơ tay chào khán giả/ Khắp nơi/ Những đôi mắt/ Dính trên cổ những người không có mặt/ Những tiếng kêu/ Phát ra từ miệng những người không có cổ/ Những bàn chân/ Càng bước càng lún sâu vào đất”. Tất cả đều là những hình ảnh kỳ lạ, phi lý một cách không thể tưởng tượng nổi. Chúng giống như một sự lộn trái logic thông thường của thế giới và của trật tự các sự vật. Đọc bài thơ này bằng con mắt thuần lý và bằng tư duy mục đích luận, ta sẽ vấp phải những câu hỏi không thể trả lời được: Những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông cứu những con chim sẻ để làm gì? Trâu lại có thể xếp hàng mua cỏ trong khi người thì nằm ngáp (như trâu) chăng? Nữ phát thanh viên truyền hình mà lại không có miệng? (ám dụ của sự bị bịt miệng chăng?)… Chìa khóa giải mã những hình ảnh quái đản này có lẽ nằm ở câu cuối: “Những bàn chân/ Càng bước càng lún sâu vào đất”. Đó chính là không khí căng thẳng đặc trưng mà ta thường gặp trong các cơn ác mộng: con người muốn thoát khỏi nỗi kinh hoàng mà chân thì cứ bám vào đất, càng cựa quậy vùng vẫy thì lại càng lún sâu hơn. Từ đây nhìn trở lại những hình ảnh ở trên, có thể nói, đó chính là kiểu hình ảnh trong những cơn ác mộng: các sự vật gắn kết với nhau một cách ngẫu nhiên, bất định, phi lý, không tuân theo bất kỳ nguyên tắc nào hết. Thế nhưng, từ đây mới toát ra điều đáng nói ở bài “Giấc mơ của Kafka”: thế giới này đã trở nên xa lạ biết bao với con người, nó không dành cho con người; càng cố hiểu thế giới, con người càng lạc lõng trong sự xa lạ ấy!
Thông điệp ấy, khi được hiển ngôn, rất có thể sẽ khiến nhiều ai đó cau mày. Nhưng theo tôi, với tôi, đó chính là thông điệp – nhận thức – nỗi đau nhân sinh mà Trương Đăng Dung muốn gửi gắm qua tập thơ đầu tay của mình – tập thơ 25 bài, chắt ra từ trên ba mươi năm tác giả âm thầm đắm đuối với thơ.


Bài 6:
HOÀNG THỤY ANH – ÁM ẢNH THỜI GIAN TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

Trương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay. Chính ông cũng đã có lần bộc bạch: Có lúc vài ba tháng, một năm hay hai năm làm một bài thơ. Vì thế, sau hơn 20 năm, thơ ông mới xuất hiện trên Tạp chí Sông Hương và gần đây là trên Tạp chí Thơ với những cảm xúc lạ, đầy tính triết lý.
Thơ ông viết ra đều như một thứ rượu quý được chưng cất. Và bây giờ rượu thơ ấy đã lên men.
Hầu hết các bài thơ của Trương Đăng Dung đều ngập bóng thời gian. Cái độc đáo và tinh tế của Trương Đăng Dung là cách cảm nhận thời gian. Với ông, thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy. Thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khoé mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi. Thời gian được ông cảm nhận song trùng với thân phận con người, với tình yêu, với cuộc sống. Vì thế, nỗi trăn trở, day dứt, tiếc nuối… là âm hưởng chủ đạo trong thơ Trương Đăng Dung. Điều này thể hiện rất rõ qua các bài thơ như: Trên đồi Vọng Cảnh, Anh chiếm chỗ bóng đêm, Anh không thấy thời gian trôi, Có một thời, Những kỷ niệm tưởng tượng, Vật chứng, Thành phố phía chân trời, Ảo ảnh, Có thể, Đêm ở Roma, Ghi chép hè 2009, Chân trời, Ánh sáng này…
Theo Trần Đình Sử (1), “thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai… Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người”. Nó là sản phẩm của sự lao động miệt mài, không ngưng nghỉ của nhà thơ. Thời gian trong thơ dung chứa những tâm tình của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đều có một cách cảm nhận và tổ chức thời gian riêng. Trương Đăng Dung khai thác thời gian theo tư duy triết lý của mình. 
Nhiều cách cảm nhận tất yếu nảy sinh nhiều kiểu thời gian. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung được phóng chiếu tự do, không theo chiều véc-tơ. Thời gian là nỗi xót xa khi răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa, là tình yêu đồng vọng với những giọt nước qua má, qua môi/ rơi xuống bàn tay nóng ấm hơi người, là những kí ức mà nhà thơ cảm thấy tôi không còn kí ức/ tôi không còn những bông hoa gạo bởi tất cả chỉ còn những giọt máu cuối trời tuổi thơ. Nỗi niềm đó ám ảnh hiện tại: Giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay. Nhà thơ hỏi dòng sông, hỏi núi, hỏi con người về hạnh phúc nhưng tất cả đều im lặng bởi ngày vẫn thế/ và mặt trời vẫn thế… Những dấu hỏi chạy trên đường/ lặng lẽ vô tình. Và nhà thơ thấy: Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ. Rình, động từ được sử dụng rất sáng tạo khi diễn tả cái chủ động của thời gian. Thời gian luôn rình rập, kề cận trên những lối mòn không thể thấy. Nó đồng hiện quá khứ và hiện tại. Trong những khoảnh khắc hôn nhau, hơi ấm của tình yêu đã là hơi ấm của quá khứ. Thời gian không chờ ai, đợi ai và khước từ bất cứ ai. Chỉ có những tâm hồn tha thiết với cuộc sống mới cảm nhận được như thế. Có lúc nhà thơ bảo Anh không thấy thời gian trôi nhưng lại cảm nhận rất tinh tế từng thay đổi, từng bước chuyển của thời gian: Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh/sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được/ mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành. Càng ý thức giá trị thời gian, Trương Đăng Dung càng ý thức mãnh liệt về sự tàn phai của tình yêu, của cuộc đời. Vì thế, nhà thơ gấp gáp hơn trước nhịp sống hối hả để lưu giữ, để hoá đá tình yêu muôn đời bằng sự cao thượng: anh chiếm chỗ bóng đêm/ anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông/ có tự ngàn đời/ để cho em rạng rỡ. Trương Đăng Dung còn muốn lưu giữ những kỷ niệm, những phút giây huyền diệu: em đừng xếp lại chăn/ em đừng chải tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ anh cần vật chứng/ trước thời gian. Nhưng thời gian như một chuyến tàu hối hả nên dẫu tôi thức với trái tim/ những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực/ không còn đủ sức/ chạy theo con tàu.
Dường như một bài thơ hay nào cũng có biểu tượng. Biểu tượng có thể xuất hiện xuyên suốt bài thơ, một khổ thơ hay trong một câu thơ. Nguyễn Thái Hoà(2) cho rằng: “biểu tượng văn học là những biểu tượng trong sáng tạo văn học tức là những hình ảnh, tín hiệu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học có tính khái quát và phổ biến đến mức có khả năng gợi ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất, một số đặc trưng khác với đối tượng biểu hiện”. Nguyễn Vũ Tiềm(3) cũng định nghĩa tương tự: “Biểu tượng trong thơ là hình tượng có tầm khái quát rất rộng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng, gây xúc động mạnh và để lại ấn tượng sâu sắc, có sức sống lâu bền. Văn chương càng đạt tới biểu tượng nhiều mặt, càng hay”. Như vậy, khai thác biểu tượng trong thơ là một việc làm cần thiết để khám phá các tầng nghĩa do nhà thơ đem lại.
Trong thơ Trương Đăng Dung, thời gian trở thành biểu tượng. Mỗi biểu tượng thời gian đều được cấp những tư tưởng nghệ thuật riêng. Trương Đăng Dung lựa chọn các hình ảnh mang tính biểu tượng thời gian như: dòng sông, đêm, chân trời, bức tường, ánh sáng… Trong bài Những bức tường, biểu tượng bức tường lan toả toàn bài. Bức tường mà nhà thơ nhìn thấy không phải là bức tường thuần tuý mà đó là bức tường vô hình, bức tường-thời gian. Bức tường vô hình ấy có mặt khắp nơi / trong những lời vui đoàn tụ / trong những lời buồn chia tay. Nó không chỉ là biểu tượng của sự ngăn cách mà còn là biểu tượng của sự trống rỗng, đơn độc: Giữa những cái bắt tay / có một bức tường… / giữa hai chiếc gối nằm kề nhau / có một bức tường. Bức tường trở thành bức tường tượng trưng, siêu thực. 
Dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung mang biểu tượng về thời gian – dòng đời. Dòng sông của hai mươi ba ngàn năm về trước chứng kiến bao hưng phế của những triều đại: sông chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm / những đền đài quạnh quẽ. Nó làm tôi nhớ đến Con sông mình hạc xương mai / vàng son in bóng đền đài hoa khôi…/ con sông đám cưới Huyền Trân / bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn trong bài thơ Huyền thoại sông, huyền thoại bóng của Nguyễn Trọng Tạo. Nếu con sông của Nguyễn Trọng Tạo ám ảnh bởi dáng vẻ huyền ảo thì dòng sông của Trương Đăng Dung lại rất đời thường: chảy từ phía chân trời / đầy nắng, mưa và gió. Không chỉ vậy, Trương Đăng Dung còn thổi vào dòng sông những ý niệm về sự xa cách, chia lìa: Anh sợ đến một ngày dòng sông ngừng trôi / đất khô cứng, những giọt buồn hoá đá / anh sợ đến một ngày hồn anh từ cõi lạ / trở về đây mà không có dòng sông. Vì vậy, dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung từ hai mươi ba ngàn năm về trước đến bốn mươi sáu ngàn năm sau nữa trở thành biểu tượng của dòng đời, của con người. 
Các nhà trường phái hình thức Nga rất đề cao đến tính lạ hoá trong thơ ca. Lạ hoá làm cho thơ ca độc đáo, không lặp lại. Huỳnh Như Phương(5) lý giải quan niệm lạ hoá: “Lạ hoá là một cách phản ứng lại áp lực của thói quen. Bằng cách rứt đối tượng ra khỏi bối cảnh quen thuộc của nó, bằng cách đặt cạnh nhau những khái niệm khác hẳn nhau, nhà văn xoá bỏ những sáo ngữ và hiệu ứng nhàm cũ để giúp người đọc nhận thức sâu sắc về sự vật và cơ chế cảm giác của nó… Lạ hoá kháng cự lại không chỉ sự tự động hoá của nhận thức con người về đời thực mà cả sự tự động hoá của ngôn từ và thủ pháp trong văn học”. Trương Đăng Dung đã làm được điều đó. Ông không hoàn toàn xây dựng những biểu tượng mang tính chất thời gian thuần tuý mà còn đưa những biểu tượng đó vào trò chơi trùng phức, nghĩa là biểu tượng vừa có sự di động giữa không gian và thời gian. Sự di động vị trí này khiến thơ thêm chiều sâu, giàu chất triết lý. 
Đêm là biểu tượng cho bóng tối, cho sự chết chóc của những bóng ma vất vưởng / những khán đài âm u, cho số phận tăm tối của những bóng ma thọt chân, lang thang. Nhưng đêm trong thơ Trương Đăng Dung lại là một biểu tượng trùng phức. Đêm không chỉ là đêm – thời gian mà nó còn là đêm – không gian. Đêm ấy là đêm – thời gian: 
Anh nghe bóng đêm tan trên cơ thể em
bóng đêm chạy trốn
Những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
những đường cong như sóng vươn về phía trước
hơi thở như gió
đắm say và gấp gáp 
Nhưng sang khổ ba, khổ bốn, đêm – thời gian lại trở thành đêm -  không gian khi:
Anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có từ ngàn đời
để cho em rạng rỡ

Có phải chúng ta đang bị tự nhiên lừa
để kéo dài sự sống?
anh vẫn muốn bị lừa
để chiếm chỗ bóng đêm
để có em vĩnh viễn!
(Anh chiếm chỗ bóng đêm
Theo Schopenhauer – một triết gia Đức, cuộc sống là sự lừa gạt triền miên, vô hạn. Hay nói cách khác, sự sống là đầy những đau khổ, là sự chết được phanh lại. Vì thế, con người không thể hạnh phúc trong sự thoả mãn hữu hạn. Nhưng trong cái chóng vánh của cuộc sống, Trương Đăng Dung vẫn tìm được hạnh phúc chứ không đơn thuần chỉ là sự tiếc nuối, khổ đau. Ông cảm nhận được hạnh phúc trong cái hữu hạn ấy. Chính cái hữu hạn ấy là khoảnh khắc, là không gian đẹp nhất. Không – thời gian biến tấu trong bài thơ cũng là biến tấu cõi lòng ông. Vừa muốn làm chủ cuộc sống, vừa muốn tận hưởng không gian của tình yêu. Bởi, chỉ có con người mới hiểu được, nắm bắt được sự tồn tại của bản thân và của thế giới.
Trương Đăng Dung còn đưa vào thơ mình biểu tượng thời gian phi lý. Đó là kỷ niệm mà tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054. Để xây dựng biểu tượng kỷ niệm (kỷ niệm tưởng tượng) này, nhà thơ đặt trong một cấu trúc mảnh vỡ, lắp ghép. Vì vậy, những kỷ niệm ấy càng rời rạc, phi lý. Nhưng chính cái phi lý ấy là sự cảnh tỉnh cho con người trước một cuộc sống đầy bề bộn, ngổn ngang. Mượn thời gian phi lý để chuyển tải cái phi lý của cuộc sống thật tài tình. Chính Đỗ Quyên đã nhận xét về bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng (Trương Đăng Dung viết cách đây 26 năm) trong bài viết Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh(6) rất tinh tế: “Phi lý thời gian khiến độc giả bị choáng ngay ở câu đầu (Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054) cho tới câu tôi với anh, rồi ngày ta sinh…! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai – 1954? Đọc tới câu giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn đặt gần đoạn kết, ta càng thấy Trương quân có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn và khéo”. Nhờ sáng tạo thời gian phi lý, không thực nên Trương Đăng Dung mới thành công khi liệt kê các hình ảnh huyền ảo. Thời gian phi lý, chuyện phi lý vậy mà thực đến đau lòng:
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…
(Những kỷ niệm tưởng tượng) 
Khi xã hội đầy rẫy những cái phi lý thì việc con người nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi… nghe lá vàng rơi lòng ta không xào xạc… đứng trước tổ chim lòng ta đầy mưu toan độc ác tất yếu phải xảy ra:
Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo
máu người nhuộm đỏ sách Kinh
bom nổ ở một chợ Bagdad
thịt người trộn vào rau quả
những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn
không thấy kẻ gây tội ác
chỉ thấy nạn nhân
và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ.
(Ghi chép hè 2009) 
Vì vậy, Trương Đăng Dung đau lòng thốt lên: Điều kì lạ vẫn là thế giới / Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ. Chỉ có đôi mắt và tâm hồn trong trẻo của trẻ thơ, với sự ngạc nhiên lạ lẫm mới giúp con người thánh thiện trước cõi người trắng đen lẫn lộn.
Như vậy, cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung trở thành nguồn mạch của sự sáng tạo. Ám ảnh bởi thời gian nên hầu hết những bài thơ của Trương Đăng Dung đều có giọng điệu buồn, trầm lắng. Thơ Hoàng Vũ Thuật buồn khi trải ra với thân phận, với cái tôi đầy mâu thuẫn, thơ Lâm Thị Mĩ Dạ buồn với những nỗi niềm đời thường… Thơ Trương Đăng Dung cũng buồn. Nhưng cái buồn lại nảy sinh từ những suy ngẫm về thời gian. Từ những suy ngẫm ấy, nhà thơ nâng lên thành triết lý.
Trương Đăng Dung đã chọn cho mình một con đường “độc đạo”. Số lượng bài viết không nhiều nhưng quý và đắt là vì thế./.
Đồng Hới, ngày 1/04/2010
____________ 
(1) Tuyển tập Trần Đình Sử (tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
(2) Từ điển tu từ – Phong cách – Thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
(3) Đi tìm mật mã thơ, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2006.
(4) Trường phái hình thức Nga, NXB Đại học Quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2007.


Bài 7:
HỒ TẤN NGUYÊN MINH – CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

Trong thơ Trương Đăng Dung thường xuyên thấy một bóng người cô đơn, một bản thể đơn côi, lạc lõng. Con người ấy dường như lúc nào cũng mang nặng trong tâm hồn một nỗi bấn loạn vì luôn cảm thấy bơ vơ trước mênh mông cõi đời và tấp nập cõi người. Cảm thức cô đơn xuất hiện khi con người không tìm thấy sự hòa hợp với thế giới mà mình đang tồn tại để rồi trở nên xa lạ với tất cả, xa lạ ngay với chính bản thân mình.
Dưới mắt Trương Đăng Dung là một thế giới đổ vỡ, phi lý, bất an. Một thế giới đang từng ngày, từng giờ bị giày vò bởi chiến tranh, bom đạn, giết chóc:
                                    “Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo
                                       máu người nhuộm đỏ sách kinh
                                       bom nổ ở một chợ Bagdad 
                                       thịt người trộn  vào rau quả”
                                                            (Ghi chép hè 2009)
Người đọc không khỏi ám ảnh trước hình ảnh của “những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân lang thang/ đòi trở về quê cũ” (Chân trời), của “những bóng ma vất vưởng/ những khán đài âm u” (Đêm ở Roma); không khỏi bàng hoàng trước những thảm kịch mà con người đã và đang phải chịu đựng:
                                    “Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
                                       chân người chết thò ra khỏi chiếu
                                       cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
                                       vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
                                       và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
                                       bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi”
                                                                        (Những kỷ niệm tưởng tượng)
 Hơn một lần trong thơ ông, người ta nghe tiếng quạ – loài chim ăn xác người, loài chim xuất hiện cùng cái chết:
                                    “Anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ”
                                                                        (Anh không còn gì ngoài em)
                                    “Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
                                       có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo
     nhiều xương ống
                                       để làm búp bê cho em tôi chơi
                                       làm dùi cho em tôi đánh trống”
                                                                        (Những kỷ niệm tưởng tượng)
Trương Đăng Dung sử dụng nhiều những yếu tố phi lý, nghịch dị như một cách để phản ánh thế giới. Ông kể những chuyện ngược đời “Ở New York chiều chiều/ những con voi nhảy từ tầng muời một xuống sông/cứu những con chim sẻ/ Ở Pari trước cửa viện bảo tàng/ người nằm ngáp/ trâu xếp hàng mua cỏ…”         (Giấc mơ của Kafka). Ông nói về những cái quái đản “những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt lùi” (Chân trời), “những đôi mắt/ dính trên cổ những người không có mặt/ những tiếng kêu / phát ra từ miệng những người không có cổ” (Giấc mơ của Kafka). Toàn những điều kì lạ, quái dị, khó cắt nghĩa. Thế giới là như thế: “phi lý ” và “hư vô” – một mớ hỗn tạp của những điều không thể lý giải. Con người không hiểu vì sao mình sống? Vì sao mình tồn tại trong thế giới này? Những dằn vặt về bản thể xuất hiện, con người không ngừng tự vấn để rồi nhận ra cuộc đời là vô nghĩa. Hạnh phúc, tình yêu chỉ như những ảnh hình không có thật:
                                    “Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời
                                       sông trả lời anh sông chỉ biết trôi
                                       anh hỏi ngọn núi
                                       núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi
                                       anh hỏi con người
                                       người trả lời anh bằng nước mắt rơi”
(Ảo ảnh) 
Bị ném vào thế giới ấy, con người bị bỏ rơi, mang nặng trong mình tâm trạng hoảng loạn và sụp đổ niềm tin một cách trầm trọng . Họ như đánh mất chính mình, trở thành một người khác – tha nhân (autrui). Họ cảm thấy ngơ ngác, thờ ơ, lạ lẫm trước tất cả:
                                    “Tôi lớn lên ngơ ngác cõi người
                                       tình thương, thù hận, buồn vui
                                       hun hút đường xa cát bụi
                                       người đi không biết về đâu”
                                                                        (Chúa đã ra đi)
Để thoát khỏi nỗi cô đơn và sự buồn chán, con người trông chờ vào sự đồng cảm sẻ chia, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người. Nhà văn Nga Nooda Dumbatxe từng nói: “Tâm hồn nặng gấp trăm lần thể xác, chúng ta sống với nhau phải làm sao cho tâm hồn trở nên bất tử. Anh giúp cho tâm hồn tôi trở nên bất tử, tôi giúp tâm hồn người khác bất tử, người khác giúp người khác nữa. Làm sao cho đến cuối cuộc đời con người ta không phải sống trong cảnh cô đơn” [1]. Tình người, ấy là liệu pháp duy nhất làm lòng người ấm lại. Thế nhưng, thế giới trong thơ Trương Đăng Dung thường ẩn tàng sự chia cắt. Con người càng cố gắng xích lại gần nhau lại càng bị đẩy ra xa. Cái tôi không thể tìm thấy sự hoà hợp, kết giao.  Nỗi cô đơn vì thế mà dâng lên gấp bội:
                                    “Giữa những cái bắt tay
   có một bức tường
   giữa em và người em thấy trong gương
   có một bức tường
   giữa hai chiếc gối nằm kề nhau
   có một bức tường
   ….
Những bức tường, những bức tường, những bức tường
có mặt khắp nơi,
trong những lời vui đoàn tụ
trong những lời buồn chia tay,
những bức tường ta không xây
những bức tường không thể phá”
                                                                        (Những bức tường)
“Những bức tường” – biểu tượng của xa cách -  hiện hữu khắp mọi nơi. Đó chính là ranh giới vô hình của lòng người, là cái hố sâu ngăn cách giữa người với người . Không tìm thấy sợi dây liên hệ, không tìm thấy tiếng nói sẻ chia. Chỉ thấy một sự vô cảm đến đáng sợ “không thấy kẻ gây tội ác/chỉ thấy nạn nhân/ và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ” (Ghi chép hè 2009), chỉ thấy “cánh cửa sổ nhà này mở ra/ cánh cửa sổ nhà kia khép lại / Họ đi hàng dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng” (Những người đàn bà). Câu thơ “Họ đi hàng dọc” bình thường thôi mà sao nhức nhối lạ thường. Ai cũng lầm lũi cắm đầu đi. Không một ánh mắt nhìn, không một nụ cười tiếng nói.
Cứ như thế, cuộc sống trở nên bế tắc, quẩn quanh. Con người như lạc vào một mê cung không lối thoát. Càng đi sâu càng lạnh, “càng bước càng lún sâu vào đất”, họ trở nên mệt mỏi rã rời. Mọi cảm xúc chai lì , tâm hồn người dường như hoen gỉ:
                                    “Có một thời
                                       trẻ con sợ búp bê và không thích sữa
                                      
                                       Có một thời
                                       anh đi bên tôi mà sao cách trở

                                       Có một thời
                                       Đi về đâu mà ai cũng vội

                                       Có một thời
                                       hạt bụi cũng quẩn quanh

                                       Có một thời
                                       nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi
                                       …..
                                       Có một thời
                                       có một thời
                                       ta đã sống thật sao”
                                                                        (Có một thời)
Câu thơ “có một thời” như một điệp khúc khắc khoải, nhức nhối. Có một thời người ta đã sống để rồi chính mình cũng không thể  tin được rằng mình từng sống qua một thời như thế.
Mỗi khi mang nặng nỗi bấn loạn trong nội tâm của mình, con người thường tìm về kỉ niệm, hướng về kí ức. Bởi lẽ kí ức và kỉ niệm là nơi nương náu cuối cùng của những linh hồn không tìm được sự bình yên trong cuộc sống. Vậy mà ở đây, ngay cả kí ức, ngay cả những kỉ niệm tuổi thơ cũng bị đánh mất khiến con người càng chìm sâu vào bi kịch cô đơn.
                                    “Hơn nửa thế kỉ đi lại trên mặt đất này
                                        tôi không còn nhiều bạn
                                        cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi
                                        tôi không còn kí ức
                                        những giọt máu cuối trời tuổi thơ…”
                                                                        (Ghi chép hè 2009)
Trong thơ Trương Đăng Dung, nỗi cô đơn còn xuất hiện khi con người ý thức được sự chóng vánh của thời gian trần thế; sự ngắn ngủi, vô thường của kiếp người trong cõi phù sinh. Đối với ông, thời gian là một nỗi ám ảnh, một cảm thức thường trực trở đi trở lại trong thơ . Thời gian trôi khi “tóc bà bạc xóa/ thấp thoáng bên khung cửa/ nắng nhòa” (Ảo ảnh). Thời gian đi qua cùng sự ngỡ ngàng “ răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa” (Có một thời). Thời gian rơi qua “từng kẽ ngón tay em vất vả” (Anh không còn gì ngoài em). Thời gian đến rồi đi, lặng lẽ và vô tình, lạnh lùng và tàn nhẫn. Nó cuốn phăng tất cả trước sự bàng hoàng, thảng thốt của con người. Nó chối từ mọi tiếc nuối, van xin, nài nỉ. Nó khiến cho con người rơi vào trạng huống trống trải, đơn độc.
Nỗi ám ảnh thời gian thật ra không phải đến Trương Đăng Dung mới có. Trong Thơ Mới, đặc biệt là thơ Xuân Diệu người ta đã thấy rất rõ tâm trạng sợ hãi, nuối tiếc và cảm giác cô đơn của con người trước dòng chảy thời gian. Nhưng điều đáng nói là khác với Thơ Mới, Trương Đăng Dung có một cách cảm nhận thời gian riêng: mới lạ và độc đáo. Đỗ Lai Thúy đã rất tinh tế khi nhận ra rằng “Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời – gian – Thơ – Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người” [2]. Trong Thơ Mới, thời gian được cảm nhận từ ngoại giới, từ thiên nhiên, từ đặc trưng mùa… Nói chung là từ những thứ ở bên ngoài con người và con người cảm nhận nó bằng cảm xúc riêng của mình. Xuân Diệu từng sợ hãi, cuống quýt trước thời gian khi nhận ra “Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc/ Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi/ Chim chuyền cành bỗng đứt tiếng reo thi/ Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa” (Vội vàng ). Trương Đăng Dung thì khác. Ông viết “ Anh không thấy thời gian trôi” nhưng lạ thay thời gian lại trở thành nỗi khắc khoải khôn nguôi trong thơ ông. Con người không thấy thời gian trôi, bởi thời gian ở đây không đến từ bên ngoài, tác động vào giác quan con người mà ngược lại là thời gian ở bên trong con người, thuộc về con người – thời gian bản thể. Thời gian là máu thịt, ẩn trong tóc trong môi, rình rập trong hơi thở, len lỏi khắp tâm hồn:
                                    “thời gian ở trong máu, không lời
                                       ẩn mình trong khoé mắt, làn môi
                                       trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang
                                                                                    viết lên mặt đất thành lời
                                       về kiếp người ngắn ngủi”
                                                                        (Anh không thấy thời gian trôi)
                                           “thời gian rình trong từng sợi tóc”
                                                                        (Vật chứng)
Có thể nói, trong cách cảm nhận thời gian với ý nghĩa “thời gian là tồn tại”, Trương Đăng Dung đã góp một tiếng nói mới lạ và độc đáo cho thơ – thời – gian. Nếu thời gian trong Thơ Mới là tiếng động từ ngoại giới thì thời gian trong thơ Trương Đăng Dung là tiếng rít từ thẳm sâu con tim người. Nỗi cô đơn trước thời gian trong thơ ông, vì thế cũng là nỗi cô đơn khởi phát từ bên trong con người. Cái lạnh đến từ bên ngoài thì còn có thể sưởi ấm. Nhưng cái lạnh trong  tâm hồn thì làm sao sưởi được. Nỗi cô đơn dâng trào tạo ra cảm giác sợ hãi. Sợ thời gian qua mau, sợ tuổi trẻ chóng tàn, sợ hạnh phúc và tình yêu tan biến:
                                    “Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc
                                       khi môi ta rời nhau
                                       hơi ấm đã thuộc về quá khứ”      
                                                                        (Vật chứng)
                                    “chúng ta nằm trên cỏ
                                       sợ hãi trước chân trời”
                                                                        (Chân trời)
Nhiều lúc Trương Đăng Dung còn lạ hoá thời gian, tạo ra một thứ thời gian phi lý. Thời gian của những kỉ niệm từ một ngày “tháng Năm năm 1054 (Những kỉ niệm tưởng tượng), của cuộc gặp gỡ “hai mươi ba ngàn năm về trước” (Có thể)… Kiểu thời gian này mang ý nghĩa giễu nhại, có tác dụng giúp người đọc hình dung được sự vô nghĩa của cuộc đời và cảm nhận được hết nỗi cô đơn trống vắng của kiếp người trong cuộc nhân sinh. Con – người – thơ Trương Đăng Dung đã sống hàng nghìn năm, thậm chí hàng chục nghìn năm vẫn thấy cuộc đời là vô nghĩa lý thì khoảng thời gian mấy mươi năm trong giới hạn một đời người có đáng kể gì.
Sự chóng vánh của thời gian , sự vô thường của kiếp người thực ra là quy luật. Đã là quy luật thì không thể khác. Trương Đăng Dung hiểu rõ điều này. Ông ý thức một cách sâu sắc giới hạn của đời người và ý nghĩa của kiếp người. Song dẫu thế vẫn không khỏi trăn trở, băn khoăn, tiếc nuối trước sự mỏng manh chóng tàn của tuổi trẻ, trước ranh giới của sự sống và cái chết, của tồn tại và hư vô. Có lẽ vì thế mà câu thơ “kiếp người ngắn ngủi” trở đi trở lại trong thơ ông như một tiếng thở dài.
Trương Đăng Dung sáng tác không nhiều. Mấy mươi năm làm thơ ông chỉ in một tập 25 bài. Song cần thấy rằng, cái làm nên tên tuổi một nhà thơ không phải là ông ta sáng tác ít hay nhiều. Cái quan trọng là thơ của ông ta có vị trí như thế nào trong lòng người đọc. Tập thơ “Những kỉ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung vừa được nhà xuất bản Thế Giới ấn hành đã ngay lập tức được đón nhận nồng nhiệt. Bài thơ nào của ông cũng có sức cuốn hút kì lạ đối với người đọc bởi chiều sâu triết lý và tinh thần nhân văn cao đẹp của nó. Đỗ Lai Thúy nhận xét “Trương Đăng Dung là nhà thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm chí mỗi câu thơ  của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào đó về cuộc đời” [3]. Tôi muốn nói thêm rằng: Ở mỗi thông điệp, mỗi tư tưởng mà Trương Đăng Dung gửi gắm trong thơ, ta nhìn thấy một tấm lòng. Một tấm lòng để đau nỗi đau của số phận con người; để trăn trở, suy tư trước bao nghịch cảnh của cuộc đời. Cảm thức cô đơn thường trực trong thơ ông có lẽ cũng xuất phát từ một tấm lòng như thế.
                                                                                          Tuy Hòa, tháng 6 năm 2011
[1] Nooda Dumbatxe . Quy luật của muôn đời. NXB Cầu Vồng, Matxcơva, 1987
[2] Đỗ Lai Thúy. Trương Đăng Dung với thơ – thời gian. Lời giới thiệu tập “ Những kỉ niệm tưởng tượng”. NXB Thế Giới, Hà Nội, 2011.
[3] Đỗ Lai Thúy. Trương Đăng Dung với thơ – thời gian. Lời giới thiệu tập “ Những kỉ niệm tưởng tượng”. NXB Thế Giới, Hà Nội, 2011


Bài 8:
HOÀNG ĐĂNG KHOA – NHỮNG KỶ NIỆM TƯỞNG TƯỢNG HAY LÀ ÁM - ẢNH – HIỆN – SINH CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

Bằng lối phê bình tri âm, trong lời giới thiệu thi phẩm Những kỷ niệm tưởng tượng [1], nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã gọi tên một cách khá chính xác thơ Trương Đăng Dung: thơ – thời – gian. Có thể nói, ám ảnh thời gian là nỗi ám ảnh xuyên trùm, chi phối kiến trúc nghệ thuật thế giới tập thơ này: “thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy” (Thành phố phía chân trời); “thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi” (Anh không thấy thời gian trôi)…
Cũng như các thi nhân hiện đại, Trương Đăng Dung quan niệm thời gian tuyến tính, mỗi khoảnh khắc qua đi là vĩnh viễn thuộc về quá khứ, con người bất khả cầm giữ, bất lực nhìn vạn vật phôi pha, cái chết nhỡn tiền: “sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được”, “những gương mặt những nụ cười mới gặp/ chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi” (Anh không thấy thời gian trôi); “nay hai màu tóc đan nhau/ ai biết được/ còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu”, “thời gian rơi/ qua từng kẽ ngón tay em vất vả/ không giữ được đâu em/ anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ” (Anh không còn gì ngoài em); “răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa” (Có một thời); “tóc bà bạc xóa” (Ảo ảnh); “thôi em đừng khóc/ rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi/ một ngày kia hết mọi buồn vui/ chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay ta bất động giữa đất dày/ bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy” (Ảo ảnh)… Để tô đậm tính chất vô thủy vô chung, vô hồi vô hạn của thời gian, tính chất nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người, Trương Đăng Dung đã sử dụng nhiều cách nói phiếm chỉ về thời gian, kiến tạo thứ thời gian “tưởng tượng”: “có thể em quên rằng anh đã gặp em/ hai mươi ba ngàn năm về trước/ ở một bến sông/ (…) anh cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay/ (…) anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi sáu ngàn năm nữa” (Có thể); “em chưa đến ngày chưa tỏa sáng/ sông mênh mang nỗi nhớ một con đò/ núi lặng lẽ đứng chờ bóng đổ/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/ (…) thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi// xao xuyến những mùa thu gió thổi” (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); “tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054/ tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời” (Những kỷ niệm tưởng tượng)… Tuy nhiên, như phát hiện khá thú vị của Đỗ Lai Thúy, nếu thời – gian – Thơ – Mới, dù chi phối con người một cách rốt ráo, vẫn cứ là thời – gian – khách – thể, thì thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung còn là thứ thời gian đã được chủ – thể – hóa cao độ: “anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng…” (Anh không thấy thời gian trôi). Từ Thơ Mới đến thơ Trương Đăng Dung là một quá trình.
Thời gian trôi nhanh, “kiếp người ngắn ngủi”. Sự thực nghiệt ngã đó con người không những không biết cách hóa giải mà còn vô minh tự lưu đày mình trong kiếp nạn trăm năm. Con người “chuẩn bị sống từ lúc sinh ra”, “mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành”, “nhàu nát mưu sinh”, thứ gọi là “hạnh phúc trên đời” cơ hồ không tồn tại: “anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời/ sông trả lời anh sông chỉ biết trôi/ anh hỏi ngọn núi/ núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi/ anh hỏi con người/ người trả lời anh bằng nước mắt rơi!” (Ảo ảnh). Vũ trụ thì hồn nhiên, vô vi: “sông thanh thản kéo trời/ trôi theo mình lặng lẽ” (Trên đồi Vọng Cảnh), “sông vẫn bình yên hát khúc vô tư/ trời vẫn xanh như thế tự bao giờ” (Có thể), trong khi đó con người lại cuồng phí quỹ thời gian sống hạn hữu cho “trò chơi” bắn giết: “ở đâu đó đang gầm lên tiếng súng/ ở đâu đó bao người ngã xuống/ mắt nhắm rồi chưa một bữa ăn no” (Anh không còn gì ngoài em); “anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân, lang thang/ đòi trở về quê cũ/ và những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt lùi” (Chân trời); “những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí/ trên nóc toa là trẻ nhỏ người già”, “những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi” (Những kỷ niệm tưởng tượng); “những xác người được tìm thấy/ trong lớp đất bom vùi/ …những đứa con chết/ mặt úp vào ngực mẹ” (Tôi lại nhìn thấy họ); “bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/ máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn” (Ghi chép hè 2009). “Thượng đế đã chết” (Nietzsche). “Chúa đã ra đi”. Tội ác ngang nhiên, mặc nhiên hoành hành. Bể khổ đời cứ “dâng triều, sóng cồn lên sôi động”. Con người quáng mù cuồng tín “trong những bình minh không có mặt trời/ trong những lâu đài chỉ có cánh dơi” (Ảo ảnh), “những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất” (Giấc mơ của Kafka). Mùa – tuyệt – diệt đang ở rất gần: “khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy/ voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông/ khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng/ kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu” (Viết cho con); “em ở lại/ một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối” (Ảo ảnh); “đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những bức tường” (Những bức tường)…
Trong chuỗi ám ảnh về kiếp nạn cuộc người, Trương Đăng Dung đặc biệt ám ảnh về thân kiếp “những người đàn bà”. Đó là những người vợ mập mọ chợ búa mưu sinh giữa lúc “những người đàn ông đang ngủ”: “họ đi hàng dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng/ đêm qua/ những con nhện biết rằng/ có người đã úp mặt vào tường/ úp mặt vào gối/ úp mặt vào bóng đêm nức nở” (Những người đàn bà); “những người vợ suốt đêm vá lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng” (Tôi lại nhìn thấy họ); “người đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/ ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày” (Ghi chép hè 2009). Đó là những nữ y tá “kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói/ không có bông, họ lấy áo choàng lau vội”; những “gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống” (Những kỷ niệm tưởng tượng). Bằng cảm hứng tụng ca, Trương Đăng Dung đã tạc dựng hình tượng những người phụ nữ tận thiện tận mỹ. Đó là những người mẹ với cao cả đức hy sinh: “người mẹ bị thương ruột lòi ra/ vẫn ôm con nhảy xuống hầm tranh nhau chỗ ngồi với rắn” (Những kỷ niệm tưởng tượng); “những người mẹ/ chết vẫn ôm con” (Tôi đã nhìn thấy họ). Đó là “Em” rạng rỡ, cao khiết, sáng trong: “em đã đến/ đẹp như ánh trăng” (Chân trời); “ánh sáng này từ mắt em/ ánh sáng này từ môi em/ ánh sáng này từ ngực em” (Ánh sáng này); “em tỏa sáng giữa đời anh lặng lẽ” (Có thể); “em đã đến thổi màu vào ngọn lửa” (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); “em nói trời xanh anh chỉ thấy mắt em/ em nói mùa xuân anh chỉ thấy môi em” (Không đề)… Những câu thơ như “một trưa tháng Năm cua bò cả lên bờ/ gió Lào thổi vô hồi rát bỏng/ mẹ rũ tóc che người tôi khỏi nóng/ mái tóc người đen nhánh giữa trời cao” (Chúa đã ra đi) hay “anh không còn gì ngoài bàn tay em/ vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời” (Anh không còn gì ngoài em) có thể liệt vào hàng những câu thơ đẹp nhất, ám ảnh nhất viết về người phụ nữ. Người phụ nữ và vũ trụ tương đồng tầm vóc. Vọng ngân trong thơ Trương Đăng Dung âm – hưởng – nữ – quyền nhân văn nhân bản.
Những kỷ niệm tưởng tượng hiện diện một cái tôi nghệ sỹ “cô đơn như ngọn gió”: “hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này/ tôi không còn nhiều bạn/ cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn ký ức/ những giọt máu cuối trời tuổi thơ” (Ghi chép hè 2009). Ta bắt gặp trong thi tập những thi liệu xuất hiện trở đi trở lại với tần số cao mang tính chất mã hóa. Bên cạnh “quạ” (mã hóa cho nỗi ám ảnh về mùa tuyệt diệt), ta còn gặp những biểu tượng khác như “chân trời” (7 lần), “mặt trời” (9 lần). “Chân trời”, “mặt trời” mã hóa nỗi ám ảnh về những khát vọng, khao khát bất khả, bất thành. Cái tôi trữ tình khát cháy được thăng vượt những “quẩn quanh“, những tủn mủn, vô nghĩa của thực tại để thực hiện lý tưởng, tìm gặp cái tuyệt mỹ, cái “vô biên và tuyệt đích” (từ dùng của Xuân Diệu), sở hữu ý nghĩa đích thực của cuộc tồn sinh ngắn ngủi: “khao khát một thứ gì nồng cháy như mặt trời” (Chân trời); “anh đi không một phút bình yên/ chân trời dấu những điều không đến” (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi). Nếu Trần Dần từng “khóc những chân trời không có người bay/ lại khóc những người bay không có chân trời” thì cái tôi trữ tình trong thơ Trương Đăng Dung khóc cho người – bay – không – đến – được – chân – trời bởi những quái đản vô hình bủa vây ngáng trở: “khi ta nghĩ đến những miền xa/ phía trước ta đã có những bức tường// những bức tường, những bức tường, những bức tường/ có mặt khắp nơi/ (…) những bức tường không thể phá” (Những bức tường).
Không thể cầm giữ thời gian, không thể kháng cự sức hủy diệt của thời gian, chỉ có cách thực tế nhất là bàn chân mình “để dấu muôn nơi” đóng con dấu hữu hạn đời mình lên càn khôn vô hạn, là “diệu huyền” hóa, vật chất hóa từng milimet hiện sinh:
“em đừng xếp lại chăn
em đừng chải lại tóc
em đừng tô lại môi
cứ để nguyên áo quần trên ghế
cứ để nguyên hiện trạng căn phòng

anh cần vật chứng
trước thời gian”
                                                (Vật chứng)
là tận hiến:
“anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có tự ngàn đời
để cho em rạng rỡ”
                                    (Anh chiếm chỗ bóng đêm)
và “nổi loạn”: “ngôi nhà muốn bay/ con đường muốn trôi/ dòng sông muốn dựng ngược/ các sự vật muốn được gọi tên/ các sự việc muốn có đời sống mới” (Thỏa thuận). Trình tự sắp xếp không phải ngẫu nhiên giữa các bài thơ làm nên kiến trúc chỉnh thể của thi tập, phát lộ một “ý nghĩa thỏa thuận“: Con đường khả dĩ hóa giải bi kịch mà con người cần khai phóng trước hết là khai minh, phát quang những bản năng u tối. Và chỉ có tình – yêu – thương may ra đủ sức mạnh cứu rỗi.
Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng, cứ đầy lên trong tôi xác tín: “Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây” (Thạch Lam), cứ là mình, cứ để cho những trải nghiệm, chiêm ngẫm, “những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực” mình bốc cháy thành thi hứng, cứ đi tận cùng hoàn cảnh đương đại, cứ giữ trái tim mình “đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh” thời mình sống, cứ hồn nhiên viết như những gì mình thấy, mình cảm, thì thơ sẽ đủ sức thuyết phục. Nếu quan niệm yếu tính của thơ là tính tư tưởng thì yếu tính của nhà thơ phải là phông nền văn hóa. “Tầm văn hóa càng sâu rộng, tác phẩm của anh ta càng đạt được tới gần hơn nỗi niềm và tiếng lòng của nhân dân thời đại mình” (Bảo Ninh) [2]. Thơ Trương Đăng Dung là thứ thơ có khả năng làm đầy nơi người đọc những cảm – giác – sống, tâm – tình – thời – đại. Cái gọi là cảm quan/tâm thức hậu hiện đại mà người ta nói nhiều những năm đầu thế kỷ XXI thì ra đã hiển lộ nơi những bài thơ được Trương Đăng Dung viết và công bố cách đây độ ba mươi năm về trước (Chúa đã ra đi, Tôi lại nhìn thấy họ, Những kỷ niệm tưởng tượng…). Thơ Trương Đăng Dung tươi mới. Và riêng khác.
Với tinh thần tôn trọng người đọc, bằng “ngôn từ kết nối/ phân chia” đạt đến độ cô nén, ám gợi: “người nghe tự hiểu/ người nói tự im“, Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung “tự do tạo nghĩa” nơi những chủ thể đồng sáng tạo. Nếu “mỗi văn bản là một liên văn bản” (J. Kristeva)và”văn chương như là quá trình dụng điển” (Ngô Tự Lập) thì quá trình tiếp nhận thơ Trương Đăng Dung sẽ trở nên đặc biệt lý tưởng khi người đọc thực hiện cuộc kết nối những gì mình đọc với vốn “điển” có sẵn trong khung văn hóa của mình về Kinh Thánh, về triết học hiện sinh của Nietzsche, triết học ngôn ngữ của Martin Heidegger, triết học hiện tượng luận củaHusserl… Thơ Trương Đăng Dung khơi vẫy những cuộc đối thoại tư tưởng, đối thoại văn hóa trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”, nơi/khi chân lý không có bản gốc, chỉ hiện tồn vô vàn “dị bản”:
“thế giới bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận”
(Thỏa thuận)
                                                                                         5.7.2011
                                                                                                  H.Đ.K
…………………………
[1] Trương Đăng Dung, Những kỷ niệm tưởng tượng, NXB Thế giới, 2011.
[2] Bảo Ninh: “Văn học ViệtNam rất đáng đọc” (Hoàng Kim Anh thực hiện)

Bài 9:
LÊ HỒ QUANG – “VẬT CHỨNG TRƯỚC THỜI GIAN” (ĐỌC TẬP THƠ NHỮNG KỶ NIỆM TƯỞNG TƯỢNG CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG)

1. Tiêu đề Những kỉ niệm tưởng tượng không hẳn là một cách chơi chữ. Đó là  phúng dụ về hiện thực qua một cách nhìn khác. Ở đó, thế giới được thiết lập nên bởi nhiều chiều kích của kí ức và sự tưởng tượng, chúng tạo nên tính chất mơ hồ, bất định và đôi khi nghịch dị trong “những ý nghĩa thỏa thuận” của ngôn từ.

Ở đó, thời gian không trôi theo trật tự tuyến tính viên miễn, nó bị đảo ngược, xâm thực, chồng lấn, xóa nhòa những ranh giới hiển nhiên, tạo nên những tương tác huyễn tưởng, phi thực - đó là thời gian để bắt đầu những suy niệm trừu tượng. Cũng ở đó, quá khứ và hiện tại, hiện thực và tưởng tượng, điều đã có và cái chưa từng diễn ra…, tất cả đều có thể đồng hiện và đan cài vào nhau trên cùng một mặt cắt thời gian. Tồn tại trong thơ Trương Đăng Dung là một đời sống đã được gián cách hóa. Nhà thơ biết giữ khoảng cách để cái hiện thực sự kiện “sống sít” được lắng lại, và thông qua màng lọc tâm hồn, biến chúng thành cái hiện thực ưu tư. Chính khoảng cách này cho phép ông nhìn về thế giới không phải như nó là, mà nó trong sự hình dung là. Và bởi vậy, Những kỉ niệm tưởng tượng không chỉ là cái tên gọi, nó còn là chìa khóa để mở ra một hiện thực khác – hiện thực của thi ca.

2. Ý niệm về thế giới của Trương Đăng Dung gắn liền với cảm thức thời gian. Thực ra, khi con người bắt đầu ý thức về mình như một cá nhân thì đồng thời với điều đó, ý thức về thời gian cũng được mài sắc hơn bao giờ hết. Thời gian qua hình ảnh mái tóc “mới sớm còn tơ xanh chiều đã tuyết” (Lí Bạch) trong thơ xưa hay cảm giác “cái bay không đợi cái trôi/ từ tôi phút trước sang tôi phút này” (Xuân Diệu) trong Thơ mới, dù ở những mức độ khác nhau, đều được nhìn từ thước đo cá nhân này. Nhưng với Trương Đăng Dung, cảm thức thời gian ấy gắn liền với nỗi ưu tư về thân phận con người trong một thời đại đầy biến động: những chuyến tàu chạy ngược chiều kí ức/ không bao giờ vào ga/ những gương mặt người lướt qua/ như con số đếm giây trên đồng hồ điện tử (Thành phố phía chân trời)… Cảm thức ấy không chỉ giúp nhà thơ nhận ra sự nhỏ bé của “những kiếp người” đã “tan trong sương khói”, mà nó còn đẩy ông dấn sâu thêm trong những suy tư hiện sinh. Một mặt ông nhận ra cái kết cục bi đát của phận người nói chung - “sinh ra để rồi chết”: một ngày kia hết mọi buồn vui/ chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay ta bất động giữa đất dày/ bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy (Ảo ảnh); nhưng cùng với điều đó, ông  nhận ra sự “sinh sôi” như một quy luật tiếp nối vĩnh hằng: Em ở lại/ một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta nghe tiếng muôn loài hấp hối/ tiếng côn trùng trong cát bụi sinh sôi (Ảo ảnh)…Chính vì vậy, thời gian có thể biến mắt trong từng khoảng khắc thực tại (Khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ - Vật chứng), đồng thời nó có thể được kéo giãn đến vô cùng trong vòng sinh hóa bất tận: Có thể em quên rằng anh đã gặp em/ hai mươi ba ngàn năm về trước…/Anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi sáu ngàn năm nữa (Có thể)…. Có thể diễn tả ý niệm thời gian của Trương Đăng Dung qua một cặp phạm trù tương phản mà thống nhất, đó là thoáng chốc  vĩnh viễn. Đi cùng cảm giác về cuộc đời chỉ như một “ảo ảnh”, chỉ là “nơi bình minh tạm trú trước hoàng hôn”; nhà thơ cũng đồng thời “cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này”. Cái vĩnh viễn đã trở thành một thoáng chốc và ngược lại. Ta có thể nói đến một thứ “triết học thời gian” trong thơ Trương Đăng Dung, nó là phản chiếu của một nội tâm quen nhìn sự vật trong tính quy luật và sự tồn tại bản chất của chúng.

3. Thực ra, với Trương Đăng Dung, ý niệm thời gian tương đối ấy là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Nhãn quan này cho phép nhà thơ dễ dàng phối trộn, lắp ghép giữa quá khứ / hiện tại, không gian/ thời gian, phương Đông/ phương Tây, thực/ ảo… Vì vậy mà trong Có thể, ông dễ dàng tồn tại trong cái trạng thái phân thân giữa cái tôibây giờ và cái tôi “hai mươi ba ngàn năm về trước”. Vì vậy mà trong Tôi lại nhìn thấy họ, ông có thể nhìn thấy “những người vợ suốt đêm vá lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng” và “từng đoàn người tay xách nách mang, lầm lũi đi qua cánh đồng bạc trắng” ở một làng chài nghèo khó quê ông giữa một “trời Âu” hoàn toàn khác biệt và xa lạ - “đêm đêm giữa trời Âu/ những người tôi mới gặp lần đầu/ những người tôi chưa từng được gặp”… Suy tư về thời gian trong thơ ông thực chất là sự suy tư về phận người. Không phải về một cá nhân riêng lẻ mà là thân phận con người nói chung. Đó là những thân phận bé nhỏ, đơn độc, mệt mỏi, sợ hãi. Điều đó được khẳng định rất rõ trong những câu thơ như hành động truy vấn tinh thần này:

 Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời
 sông trả lời anh sông chỉ biết trôi,
 anh hỏi ngọn núi
 núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi,
 anh hỏi con người
 người trả lời anh bằng nước mắt rơi!
(Ảo ảnh)

Như vậy, trong thơ Trương Đăng Dung, thời gian được diễn tả như một phúng dụ về trạng thái nhân thế phổ quát. Điều này cho thấy một tâm trạng có phần bi quan của nhà thơ, vì xuyên qua trục không – thời gian ấy, cái mà ông luôn nhìn thấy, như là sự lặp lại giễu cợt của lịch sử, là một hiện thực không lí tưởng, đầy bất trắc, thậm chí phi lí.Những kỉ niệm tưởng tượng (bài thơ được lấy tên làm tiêu đề chung cho cả tập và cũng là tác phẩm, theo tôi, là nổi bật nhất của tập thơ này), thể hiện rất tập trung tư tưởng ấy.

Bài thơ gây một “ám ảnh” (thậm chí “tái ám ảnh”) * mạnh mẽ tới độc giả bởi nhiều lí do. Trước hết là sự độc đáo trong bút pháp. Đó là sự xáo trộn đầy bất thường về không gian (phương Đông/ phương Tây); thời gian (tháng Năm năm 1054/ sáng nay/ ngày sinh lần thứ một ngàn…); Đồng thời với điều đó là sự đứt mạch, “nhảy cóc” trong cảm xúc, câu chữ và sự chuyển đổi đột ngột đối tượng trữ tình. Sự tương phản kì dị, thậm chí “kinh rợn” trong các hình ảnh thơ cũng là một trong những điểm gây ấn tượng mạnh với người đọc. Có thể nhận ra rất rõ dấu ấn của bút pháp siêu thực trong tác phẩm. Tuy nhiên, mục đích của tác giả không phải nhằm đi đến những cách tân thuần túy hình thức. Cách viết đặc biệt này nhằm lột tả bản chất của một trạng huống hiện thực phổ quát. Sự ghép nhập các phiến mảnh không -  thời gian vốn xa cách như trên kì thực nhằm để nhấn mạnh sự tương đồng giữa Đông và Tây, xưa và nay, quá khứ và hiện tại... Đó là sự tương đồng - đúng hơn là sự lặp lại - của những quy luật vận hành thế giới. Thoạt nhìn, những hình ảnh, chi tiết thơ có vẻ lộn xộn và không nhất quán (điều mà nhiều người đã nói tới). Tuy nhiên, khi sắp đặt tất cả những chi tiết ấy trong một tổng thể, dưới cái nhìn suy tư về phận người, bài thơ đã tạo nên sự kết nối đầy ý nghĩa các chi tiết nhỏ lẻ và rời rạc. Mối liên hệ kết nối giữa tôi (chủ thể trữ tình) – anh (nhà thơ Hunggary, đối tượng trữ tình thứ nhất) – mẹ (đối tượng trữ tình thứ hai) –em (đối tượng trữ tình thứ ba) được hình thành trên cơ sở tương đồng thân phận. Sự xuất hiện liên tục của những đại từ xưng hô số nhiều: tôi với anh/ ta/ chúng ta; sự lặp lại cố ý của cụm từ “cùng nhau” nhằm tô đậm thêm tính “tất yếu” của số phận con người dù khác màu da, quốc tịch, tuổi tác, dù là tôi/ anh/ mẹ tôi/ em tôi/ bác sĩ/ y tá/ gái điếm/ trẻ nhỏ/ người già… Đó không phải là một nỗi đau siêu hình. Đó là sự lặp lại của tấn bi kịch khi con người vừa là nạn nhân nhưng cũng có khi là đao phủ của chính mình bởi những tham vọng lịch sử mù quáng. Trên nền một thời gian có tính ước lệ, bị xáo trộn, cắt rời, đứt nối vô hạn định, là hình ảnh một cuộc sống với những chi tiết “tả thực” đến gây sốc. Đó là những hình ảnh dồn chứa nỗi đau đồng thời mang một sắc thái châm biếm kín đáo:

Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau thấy những những con trâu vừa kéo cày
vừa đái bừa xuống ruộng
cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông
đầu gục xuống
  những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
trên nóc toa là trẻ nhỏ người già
Và bài thơ kết thúc trong một dự cảm mang màu sắc u mua, nghịch dị:

Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
để làm dùi cho em tôi đánh trống

Ta sẽ còn bắt gặp hiện thực nghịch dị ấy trong những bài thơ khác của Trương Đăng Dung. Chẳng hạn trong Chân trời: Anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân lang thang/ đòi trở về quê cũ/ Và những đội quân không mũ/ tay súng tay đao chân bước thụt lùi/ những nhà thơ chống gậy đứng cười/ trước những con trâu mông dính đầy mạng nhện…; Chẳng hạn trong Giấc mơ của Kafka: Khắp nơi/ những đôi mắt/ dính trên cổ những người không có mặt/ những tiếng kêu/ phát ra từ miệng những người không có cổ/ những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất… Đó là những biểu tượng về một cuộc sống bị áp đảo bởi chiến tranh, bạo lực và nỗi đau, trong đó, thân phận con người xiết bao u tối, nhỏ bé và bất lực.

4. Như một phản ứng tâm lí – thẩm mĩ tất yếu, đi cùng nhận thức hiện thực ấy, trong thơ Trương Đăng Dung hiện diện thường trực là nỗi khát khao về cái Đẹp và những giá trị vĩnh cửu. Hãy chú ý đến hình tượng Em trong thơ ông. Đây là một biểu tượng quen thuộc trong thơ, nhất là thơ lãng mạn chủ nghĩa, đó là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, khát vọng hạnh phúc, cái Đẹp thi ca v.v.. Song với Trương Đăng Dung, Em không chỉ là hình ảnh một người tình gắn với những cảm xúc ái ân ngọt ngào. Hình ảnh Em hiện lên trong thơ ông như một bản thể lẻ loi và đơn độc giữa nhân thế:

Bao nhiêu lần khép cửa
em vẫn thấy mình chưa ở bên trong
Và cặp môi hồng
mím chặt vào nhau an ủi
          (Thành phố phía chân trời)

Nếu trong thơ của nhiều tác giả, Em là một biểu tượng của cái Đẹp thì ở thơ Trương Đăng Dung, Em còn là hình ảnh tượng trưng cho thân phận côi cút và mong manh của chính cái Đẹp trong một đời sống dằn dữ và bất trắc. Cho nên hình ảnh Em gợi nên bao âu lo trĩu nặng:

Mỗi ban mai khép cửaâ
anh vẫn ngoái nhìn em lần nữa
ngoài kia mây bay
gió thổi mong manh rèm cửa đóng
ngoài kia trời rộng
ở đâu đó đang gầm lên tiếng súng…
                   (Anh không còn gì ngoài em)

Nhìn rộng ra, trong thơ Trương Đăng Dung, Em vừa là một đối ảnh tâm hồn vừa là một bản thể tinh thần trùng khít với cái tôi thi nhân. Bởi vậy, tìm kiếm Em không chỉ là tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc mà còn là tìm kiếm diện mạo tinh thần của chính Anh – nhà thơ. Đó là một hành trình nội tâm dài dặc, không ngừng: Bao năm rồi anh tìm em/ trong những bình minh không không có mặt trời/ trong những lâu đài chỉ có cánh dơi/ trong những giấc mơ không đầu không cuối (Ảo ảnh)…Qua Em, Anh tìm thấy chính mình:

Anh nhìn vào mắt em
thấy hình anh ở đó
Nếu mắt em khép lại
ảnh hình kia chỉ còn lại trong em
anh không còn thấy anh trong hiện tại
chỉ thấy em với những hình những ảnh
của mùa hè đang qua
một góc vườn và mấy khóm hoa…
                   (Ảo ảnh)

Hình ảnh Em và Anh - cái tôi nhà thơ đã trở thành một cặp biểu tượng song trùng, chúng ánh xạ vào nhau, chiếu rọi rõ nét hơn cảm thức thân phận con người. Vì vậy, nếu hiện thực nhân sinh được nhà thơ hình dung như một cõi thế xa lạ, đầy những bức tường ngăn cách và thù nghịch thì Chân trời chính là cái đích khát vọng mà Anh và Em hướng tới. Chân trời đồng nghĩa với sự bí ẩn, nơi gửi gắm những mơ ước và cũng là nơi đánh thức bao nỗi “khắc khoải”: Anh đã đứng trong màn đêm/ khắc khoải chờ em đến/ cùng đi về phía chân trời (Chân trời)… Tuy nhiên, những trải nghiệm cá nhân và cả những kinh nghiệm lịch sử lặp lại khiến nhà thơ, bên cạnh những khát khao trải nghiệm nhằm thỏa mãn nhu cầu lí tưởng, vẫn luôn cảm thấy bất an. Đấy là  một phức hợp cảm xúc, trong đó những cảm nhận về cái Đẹp, về tình yêu luôn đi cùng với cảm giác cô đơn, trống trải và nỗi sợ hãi:

Em đã đến
đẹp như ánh trăng
cô đơn như ngọn gió,
chúng ta nằm trên cỏ
sợ hãi trước chân trời
                   (Chân trời)

5. Thơ Trương Đăng Dung, với thể thơ tự do và giọng điệu tự sự từ tốn, tha thiết, là một lựa chọn phù hợp với cái đích bộc lộ sự cảm nghiệm đời sống trong những chiều kích thời gian rộng dài và những quy luật vận hành lặng lẽ không ngừng của nó (do xuất phát từ nhu cầu “trình bày tư tưởng” này nên ở một số bài, ông chọn cách nói trực tiếp, điều này dẫn đến việc hơi lộ ý, bù lại nó cho người đọc thấy rõ hơn cái tạng chất triết lí của thơ ông). Thời gian ở đây gắn liền với những thức nhận về đời sống nhân sinh mà cái cốt tủy của nó là cảm giác bất trắc. Ta có thể thấy rõ điều này trong Vật chứng. Đây là bài thơ diễn tả rất hay cảm giác nước đôi phức tạp của con người trước thời gian. Một mặt, con người lí trí tỉnh táo biết rất rõ rằng trước thời gian rồi mọi cái trở nên vô nghĩa, nó biến con người, nói như Xuân Diệu, từ “dương vô cùng đến âm vô cùng”. Nhưng bằng những hành động sinh tồn cụ thế, anh ta vẫn không ngừng khát khao và nỗ lực chống lại cái dòng chảy ghê gớm đó (thực ra, đây là nỗi niềm nhân sinh muôn thuở, thể hiện rất rõ trong văn chương, chẳng hạn trong đoạn độc thoại nổi tiếng của chàng Hamlet). Vì vậy, cái yêu cầu của nhà thơ với người tình: Em đừng xếp lại chăn/ em đừng chải lại tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ Anh cần vật chứng/ trước thời gian (câu này tác giả bài viết in đậm) thoạt nghe có vẻ khá…trái khoáy. Tuy nhiên, đấy là một yêu cầu mang tính triết lí hơn là một hành động thực tế. Trong yêu cầu khẩn khoản đó, ta đọc thấy nỗi lo âu cùng cái khát vọng cưỡng lại dòng chảy thời gian, nhằm “đánh dấu” về sự tồn tại của tình yêu, hạnh phúc – những thứ vốn quá dễ lụi tàn trong đời sống con người, lại càng quá mong manh trước thời gian vô tận. Song, nếu vũ trụ là vô cùng thì đời người chỉ là hạt bụi trên guồng quay “vô tăm tích” của nó. Cưỡng lại vòng quay ấy bằng những “vật chứng” như hơi ấm một làn môi, một lần tình tự, chẳng phải là quá… mơ hồ hay sao? Kì thực đây chỉ là một cách “đặt vấn đề” của Trương Đăng Dung. Sự thật thì trong quan niệm của ông, “vật chứng thời gian” không chỉ có thế. Với ông, sự tồn tại của đời sống, dù là một đời sống đầy thăng trầm, khắc bạc, là có thật. Sự tồn tại của con người, dù trong thân phận hữu hạn và đau khổ, là có thật. Những mơ ước, khát vọng của con người là có thật. Nhưng chúng chỉ thực sự tồn tại như một “vật chứng” trước thời gian khi con người suy tư về chúng. Sự suy tư - ấy là bằng chứng về sự tồn tại đích thực của con người giữa thế giới. Đó là khởi thủy của sự xuất hiện triết học, nghệ thuật, thi ca…, những loại hình ý thức đánh dấu sự tồn tại của đời sống tinh thần của con người, vượt lên thời gian và cái chết. (Về điều này, tôi lại nhớ đến câu nói nổi tiếng của một nhà triết học: tôi tư duy vậy tôi tồn tại. Thơ, với Trương Đăng Dung, xét đến cùng bản chất của nó, hẳn nhằm để bộc lộ sự suy tư đó. Hơn thế, thơ còn chính là trạng thái suy tư đó.
Ở điểm này, ta thấy rất rõ sự giao thoa, gặp gỡ giữa một Trương Đăng Dung – nhà nghiên cứu, lí luận và một Trương Đăng Dung – thi sĩ). Suy tư về sự vô hạn của thời gian, sự phù du và bất trắc của phận người, không phải là để yếm thế buông tay mà để biết đối diện với nó bằng một thái độ tỉnh táo: một mặt không ảo tưởng dễ dãi, mặt khác vẫn biết gạn lọc, nâng niu những giá trị của vĩnh cửu trong cái thoáng chốc của đời người. Sự suy tư ấy cho thấy con người không chỉ tồn tại như một đối tượng bị động mà như một chủ thể tự do, tự tại, biết chủ động ngay trong thế bị động. Và phải chăng đó mới chính là một thái độ “hiện sinh trung thực”?  

Vinh, ngày 12/9/2011
 L.H.Q
--
* Dẫn ra từ các bài viết:
1. Trần Anh Thái, Một bài thơ ám ảnh,www.vanchuongviet.org
2. Đỗ Quyên, Tái ám ánh về một bài thơ ám ảnh,www.vanchuongviet.org
(*) Đã đăng ở tạp chí THƠ, số tháng 10-2011


Bài 10:
TRẦN HOÀNG THIÊN KIM – “PGS.TS TRƯƠNG ĐĂNG DUNG: SỢ THỜI GIAN RÌNH TRONG TỪNG SỢI TÓC”

Nếu không cười, PGS.TS Trương Đăng Dung có gương mặt nghiêm nghị và đôi mắt thoáng buồn. Đó là gương mặt của người đã quá nửa cuộc đời dành thời gian cho công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học.
Ông là tác giả của nhiều công trình khoa học dày dặn như Các vấn đề của khoa học văn học, Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Tác phẩm văn học như là quá trình… và những tác phẩm dịch thuật có ý nghĩa: Dịch Truyện Kiều ra tiếng Hungary (năm 1984), dịch tiểu thuyết Lâu đài (của Franz Kafka - 1998), Đứa trẻ mồ côi (Moricz Zsigmond - 2009), Thằng điên và quỷ sứ (Sarkadi Imre - 2010), các công trình lý luận nổi tiếng: Trên đường đến với ngôn ngữ (của M.Heidegger), Nghệ thuật và chân lý khách quan (của G. Lukacs)…
Trương Đăng Dung là một nhà khoa học được đào tạo một cách chính quy. Ông từng tâm sự rằng, lẽ ra ông được đi học ở Liên Xô, nhưng vì một sự "nhầm lẫn" nào đó, đến phút chót, người ta gửi ông sang Hungary…
Lúc đầu ông rất buồn, nhưng rồi ông nhận ra đó là bước ngoặt của số phận, một bước ngoặt may mắn. Nhờ học ở Hungary ông mới được tiếp xúc với tư duy lý thuyết phương Tây một cách bài bản mà ở những nước khác (trong phe XHCN) hồi đó là không thể.
Cũng tại Hungary, ông đã có điều kiện tiếp cận với các khuynh hướng sáng tác hiện đại, hậu hiện đại. Tư duy lý thuyết giúp ông hiểu hơn bản chất của văn học. Trương Đăng Dung thừa nhận, ông chịu ảnh hưởng nhiều từ Martin Heidegger, F.Kafka…
Trong lời giới thiệu bản dịch tiểu thuyết Lâu đài của F.Kafka, Trương Đăng Dung đã nhận xét: "Hình ảnh của Kafka là hình ảnh của cõi mộng, của những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi hoang mang lo sợ trước thế giới. Điều đó làm nên đặc trưng thế giới nghệ thuật của Kafka".
Tiểu thuyết Lâu đài được xuất bản đã đưa Trương Đăng Dung trở thành một trong những dịch giả được chú ý, bởi cho đến nay, Kafka vẫn được coi là một nhân vật đã làm thay đổi mô hình phản ánh hiện thực bằng những tác phẩm sâu sắc, thể hiện sự suy tư không ngừng về sự phi lý của con người trong thế giới hiện đại.
Sau này, trong một bài thơ nói về Kafka, Trương Đăng Dung đã viết: Ở New York chiều chiều/ những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông/ cứu những con chim sẻ. Ở Paris trước cửa Viện bảo tàng/ người nằm ngáp/ trâu xếp hàng mua cỏ/… khắp nơi/ những đôi mắt/ dính trên cổ/ những người không có mặt/ những tiếng kêu phát ra từ miệng những người không có cổ/ những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất (Giấc mơ của Kafka).
Trong ký ức của nhiều người cùng thế hệ, Trương Đăng Dung còn được biết đến với tư cách là người có công dịch Truyện Kiều ra tiếng Hungary. Ông tâm sự: "Những năm du học ở nước ngoài, tôi nhận ra rằng, thế giới biết đến Việt Nam chủ yếu qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Người ta không biết nhiều đến văn hóa Việt Nam. Tôi dịch Truyện Kiều với mong muốn giúp cho bạn đọc Hungary biết đến nền văn học của chúng ta, hiểu hơn nỗi đau và cả những bâng khuâng, xao xuyến của các thi nhân trước thân phận của con người. Sau khi bản dịch Truyện Kiều in thành sách, Giáo sư Viện sĩ Klocniczay Tibor, nguyên Viện trưởng Viện Văn học Hungary đã viết thư chúc mừng tôi và hỏi rằng: "Tại sao một tác phẩm như thế mà bây giờ chúng tôi mới được đọc?".
Có lẽ, vì luôn mải mê đắm mình trong những công trình khoa học cho nên, trong đời thường, Trương Đăng Dung ít giao du. Ông dường như ít quan tâm đến những câu chuyện tầm phào, trà dư tửu hậu và những bon chen cơm áo… Ngoài những tập sách dày dặn trình làng, ông ít khi xuất hiện trên báo chí, ít khi chia sẻ những cảm xúc cá nhân…
Thậm chí, đối với nhiều thế hệ học trò, Trương Đăng Dung là một thế giới bí ẩn, khó gần, khó hiểu, "kính nhi viễn chi". Nhưng rồi, không ít người ngạc nhiên khi gần đây, ông cho ra mắt tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng, một tập thơ vẻn vẹn có 25 bài, tập hợp những sáng tác chọn lọc trong suốt chặng đường dài mấy chục năm ông đã sống, đã nhận thức thế giới và trải lòng mình với thơ ca.
Tập thơ mới ra đời nhưng đã được nhiều bạn đọc đón nhận và quý mến. Song hành với một Trương Đăng Dung lý luận, người ta nhận ra một Trương Đăng Dung thi sĩ trong một thế giới cô đơn, nhiều hoài niệm, với những khắc khoải về thời gian hữu hạn của kiếp người: "Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy những lá thư ngày một bạc màu/ những cơn mưa rơi vào đêm vắng/ dấu chân ta - năm tháng còn đâu"/ Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy mùa thu vừa lạ vừa quen/ những gương mặt những nụ cười mới gặp/ chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi/ Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh/ sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được/ mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành/ Anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi" (Anh không thấy thời gian trôi).
Qua tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng, Trương Đăng Dung đã có những khoảnh khắc cô đơn với những giây phút qua đi của tình yêu và số phận: "Sợ bóng tối sẽ tràn vào/ khi em mở tung cửa sổ/ cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ/ Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm thuộc về quá khứ/ Sợ căn phòng trở nên trống rỗng/ khi em xếp lại chăn màn/ ký ức không còn nơi ẩn náu/ Sợ tiếng bước chân em xa dần/ khi những viên sỏi trong vườn đang ngủ/ ta còn lại gì sau mỗi lần tình tự/ Em đừng xếp lại chăn/ Em đừng chải lại tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ Anh cần vật chứng/ trước thời gian"… (Vật chứng).
Trương Đăng Dung tâm sự: "Năm 1978, bài thơ đầu tiên của tôi được in ở báo Văn nghệ, đó là bài thơ Âm hưởng mùa hè, nhưng tại sao bây giờ tôi mới ra tập thơ này? Đơn giản là bây giờ tôi mới chọn đủ những bài thơ xứng đáng để cho vào tập.
Tôi muốn những bài thơ được viết trong suốt mấy chục năm qua, khi đứng cạnh nhau trong tập vẫn không lạc lõng. Những kỷ niệm tưởng tượng là một trong những bài thơ tôi thích nhất. Nó được viết vào tháng 5/1983, khi tôi là nghiên cứu sinh tại  Viện Hàn lâm Khoa học Hungary.
Một buổi sáng khi ngủ dậy, tôi bỗng thấy cô đơn khủng khiếp. Tôi nhớ nhà, nhớ bố mẹ, nhớ các em tôi ở Nghệ An. Tôi tự hỏi, tôi đang làm gì ở châu Âu? Những việc tôi làm như viết luận án tiến sĩ, hay dịch Truyện Kiều sang tiếng Hungari sao mà xa lạ với bố mẹ tôi, những người quanh năm làm ruộng quần quật mà vẫn không có đủ những hạt gạo nuôi thân? 18 năm đầu đời của tôi đã trôi đi trên quê hương Nghệ An.
Đó là khoảng thời gian tôi lớn lên và thấy được những gì mà bố mẹ, bà con cô bác phải chịu đựng. Cuộc sống ở vùng quê nghèo khổ đã dạy tôi biết quý trọng và thấu hiểu con người. Thế rồi những ký ức về chiến tranh ập đến, hình ảnh những người chết và bị thương mà tôi đã chứng kiến…
Tôi ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Bà chủ nhà ở tầng trên nghe tiếng tôi khóc vội đi xuống an ủi. Khi bà ấy đi rồi, tôi ngồi vào bàn viết luôn một mạch bài thơ đó. Quả là một bài thơ hiếm hoi được tôi viết trong vòng một buổi sáng. Chiều hôm đó, tôi dịch nó ra tiếng Hungary.
Một tháng sau, tôi đưa bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng (bản tiếng Hungary) cho anh bạn nhà thơ Hollo Andras, anh ấy đọc xong nhìn tôi và nói giọng quả quyết: "Đi theo tôi đến gặp Tổng biên tập tạp chí "Tác phẩm mới", Juhasz Ferenc”. Chúng tôi đến nhà riêng của ông, ngồi ở ban công, uống rượu vang. Khi xem xong bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng, vẫn cầm tờ giấy có chữ viết của tôi, ông chậm rãi nói: "Đây là một bài thơ hay và lạ. Nếu anh không tiếp tục làm thơ thì thật là uổng phí".
Đến cuối tháng 10/1984, tôi nhận được tạp chí "Tác phẩm mới" trong đó có bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của tôi được in trang trọng ở trang đầu. Hai mươi năm sau, tôi gửi bài thơ này cho tạp chí Sông Hương và được in ngay vào số tháng 6/2004, số chuyên đề Festival và Diễn đàn thơ, sau nhiều năm nằm im trong ngăn kéo bàn làm việc".
Sau những ký ức về một miền quê đã đi vào trang viết của ông, thơ Trương Đăng Dung còn khám phá về thời gian đã được chủ thể hóa. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã nhận xét: Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải muốn vượt qua nỗi ám ảnh thời gian bên ngoài, thì thời gian trong thơ Trương Đăng Dung là bên trong con người, thời gian chính là con người, hay nói như M.Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ, tồn tại và thời gian, tồn tại là thời gian. Có lẽ chính thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ.
Trong bài thơ Anh không còn gì ngoài em, ông đã nói về những khắc khoải ấy: "Anh không còn gì ngoài em/ Sau tuổi năm mươi ngả bóng/ Anh chuẩn bị sống từ lúc sinh ra/ nay hai màu tóc đan nhau/ ai biết được/ còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu?/ Mỗi ban mai khép cửa/ Anh vẫn ngoái nhìn em lần nữa/ ngoài kia mây bay/ gió thổi mong manh rèm cửa đóng/… Anh không còn gì ngoài bàn tay em/ Vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời/ thời gian rơi/ qua từng kẽ ngón tay em vất vả…".
Nhiều nhà nghiên cứu có hệ thống lý thuyết vững chắc nên họ trở thành chuyên gia khi vận dụng để phân tích các tác phẩm văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, không phải ai trong số họ, khi đặt chân vào địa hạt sáng tác, nhất là sáng tác thơ, cũng thành công.
Trương Đăng Dung dường như không nằm trong quy luật đó. Với thơ, người ta phát hiện ra một con người khác trong ông, một tâm hồn nhiều suy tư và chiêm nghiệm đằng sau những trang sách lý luận tưởng chừng khô khan và cứng nhắc. Ông cho rằng, lý luận, phê bình văn học là sự hiểu của sự hiểu, là thế giới của sự diễn giải văn bản văn học.
Thơ là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Lý luận phê bình diễn giải cái thế giới nghệ thuật của nhà thơ, còn nhà thơ thì khám phá và giãi bày cái thế giới tâm hồn của chính mình. Cả hai đều cần đến tâm hồn và trí tuệ. Đừng nên áp đặt cho thơ nhiệm vụ cứu rỗi hay thể nghiệm. Nếu thơ được chia sẻ và thấu hiểu thì đó là hạnh phúc của thi sĩ. Thơ như là ý nghĩa thỏa thuận.
Hơn 50 tuổi đầu, Trương Đăng Dung mới xuất bản một tập thơ, cũng đồng nghĩa với việc, sau những chức danh khoa học đã được phong tặng (PGS.TS), sau những chức vụ trong cơ quan làm việc (Phó Viện trưởng Viện Văn học), có một Trương Đăng Dung thi sĩ luôn tiếc nuối thời gian và cô đơn trong thế giới sáng tạo của riêng mình. Cho dù thơ ông, nói như một nhà phê bình văn học, không phải là những bưu kiện để người đọc nhận trọn gói mà là những chấm phá phía chân trời vẫy gọi người đọc đến "thám mã" và đồng sáng tạo.
Trần Hoàng Thiên Kim

_______________________


(Các bài viết được (Văn chương +) tổng hợp từ các nguồn: nguyentrongtao, phongdiep, vietvan, tapchisonghuong, tapchitho, vanvn, lyluanvanhoc).