Trong bài trước Ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn nối
tiếp đòi trả lại đất tại phủ An Tây, Hưng Hóa (-
BA TRIỀU ĐẠI VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI
NỐI TIẾP ĐÒI LẠI VÙNG ĐẤT TẠI 10 CHÂU BỊ MẤT BỞI TRUNG QUỐC) chúng tôi đã nêu lên tổng quát rằng sau khi Hoàng Công
Toản chạy trốn sang Vân Nam; bởi y là nhân chứng sống trong việc xác định đất
đai vùng biên giới, nên nhà Lê Trịnh kiên quyết đòi hỏi nhà Thanh giao
trả y trở về nước ta. Việc đòi hỏi khá cương quyết, kéo dài trong vòng 4 năm
trời [1769-1773].
Nhằm khước từ việc trao trả, vua Càn
Long cố gắng dựng lên vở kịch đổi trắng thay đen, trong đó các thư từ nhân danh
các Tổng đốc, Tuần phủ nơi biên giới gửi sang nước ta, đều được Càn Long
sai Quân cơ đại thần soạn sẵn. Nội dung vở kịch lớn, do triều đình nhà Thanh
dàn dựng sẵn từng chi tiết, nhắm biện minh những điều sau đây:
- Nhà Thanh vẫn tuân theo sự thỏa
thuận về việc trao trả tội phạm giữa hai nước.
- Lúc Hoàng Công Toản chạy trốn sang
Vân Nam, An Nam không kịp thời báo cho nhà Thanh biết.
- Do đó đại Hoàng đế Càn Long quyết
định cho an sáp bọn Hoàng Công Toản tại Trung Quốc, không trả về.
Sau đây là văn bản do Quân cơ đại
thần, theo lệnh của vua Càn Long, soạn sẵn cho Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị
Nghiêu, để viên này gửi đến vua nhà Lê, biện bạch tại sao nhà Thanh bác bỏ văn
thư của nhà vua đòi trả Hoàng Công Toản trở về:
Ngày 5 Nhâm Tuất tháng 7 năm Càn
Long thứ 38 [22/8/1773]
Lại dụ:
“ Cứ Lý Thị Nghiêu tâu ‘ Xét duyệt
văn thư của Quốc vương An Nam, nội dung viên Quốc vương này tiếp nhận lời bác
bỏ của bộ không trả bọn Hoàng Công Toản trở về; miễn cưỡng bảo rằng không dám
không tuân, nhưng luận điệu vẫn sai trái khăng khăng, lời lẽ rất vụn vặt đáng
ghét; xin dùng ý kiến riêng [của viên
Tổng đốc] để ban hịch dụ.’
“ Ðáng nên bác, trong tấu triệp đã
phê sẵn. Nhưng ở cõi ngoài viết hịch sợ không đủ nghiêm khắc hợp cách; nên đặc
mệnh Quân cơ đại thần nghĩ soạn [bản
thảo] rồi tiến trình, để gửi cho viên Tổng đốc phát hành…….. Nay gửi dụ này
để hay biết, lại gửi trả lại văn thư của An Nam; cùng gửi kèm bản thảo tờ hịch
gửi An Nam do Quân cơ đại thần soạn dùm, như sau:
“ Hịch dụ Quốc vương An Nam hiểu rõ:
Xét về vụ án Hoàng Công Toản, qua những văn bản trình hỏi của nước ngươi; Bản
bộ đường (1) tra xét đầu đuôi vụ án, do
trước đó nước ngươi không báo rõ cho Ðốc bộ đường Vân Quí nên gây sự lầm lỡ;
nếu như các ngươi báo trước, thì bắt trở về nào có khó gì! Như vụ tên Bác Tam
trốn vào nội địa, hiện đã bắt để đưa trở về; nước ngươi hãy xét lấy sự việc thì
rõ. Còn về vụ án Hoàng Công Toản, khi tỉnh Vân Nam đã liệu biện xong từ lâu;
nước ngươi mới biết được và gửi văn thư khiếu nại nhiều lần, thì đã lỡ rồi
không thể truy trở lại; rồi thư trát đi lại nhiều lời nào có ích gì! Bản bộ
đường nghĩ nước ngươi trước đây đem lòng thành thỉnh giáo, nên không ngại trăn
trở trình bày; còn như trước sau vẫn chấp mê, nghe không ra ngọn ngành, rồi đòi
đưa kèm tấu triệp lúc dâng cống; Bản bộ đường đã tùy lúc ngăn trở, bàn sự việc
nên theo, và cho biết rằng nếu nước ngươi mạo muội tâu trình, sự việc đem ra bộ
bàn sẽ bị bác bỏ.
“ Ngươi, Quốc vương, vẫn cố chấp
thiên kiến, sai lầm dâng tấu lên; đại Hoàng đế với tấm lòng rộng như bể, không
trách cứ thêm mà cho đưa xuống bộ nghị bàn; nhưng nội vụ đã bị bộ chiếu theo lý
mà bác. Có thể thấy được Bản bộ đường lấy lòng thành báo cho biết, ước tính sự
việc chính xác không hề vu cáo; ngươi, Quốc vương, cần biết để tỉnh ngộ. Nay
bảo rằng nhận được lời bàn của bộ, cẩn thận nghe mệnh, dám đâu không tuân theo;
lời nói đó hợp lý. Những vẫn dài dòng thêm những phiền ngôn, múa văn khua bút;
đã không thuyết phục được ai, mà lại làm thêm ghét. Mọi sự do nước ngươi
ở nơi hoang dã, không rành thể chế của Thiên triều, nên ngươi có hành động
khinh suất như vậy; nhân đó ta có lời khắc thiết chỉ đường. Tại Trung Quốc ta,
những lời tâu của các quan, sau khi được bộ nghị bàn và nhận được chiếu chỉ
hoặc chuẩn y hoặc bác; tất đều được kính cẩn tuân hành, không dám đem ra biện
luận trở lại nữa, vốn kỷ cương nằm trong đó, nhất định không sai chạy. Ngươi,
Quốc vương, là nước đời đời được phong, vốn xưng cung thuận, cái đạo thờ nước
lớn theo lẽ thường; há lại dùng lời lẽ buông tuồng, có phần sai pháp độ; huống
hồ bộ lễ đã dâng sớ đàn hạch rằng viên Quốc vương tấu trái lệ căn bản không
hợp; nhưng nghĩ ngươi thường nhật cẩn trọng, nên được khoan thứ miễn nghị, lại
được ơn trên chấp nhận cho thi hành. Ngươi Quốc vương đáng phải cảm khích tuân
theo, để vĩnh viễn nhận ơn; nếu lại cứ lải nhải thêm lời, tất tự dẫm vào tội
lỗi, chắc đó là điều ngươi không muốn. Lệnh trên nghiêm nhặt, không thể mạo
phạm; Bản bộ đường thấy được nỗi lòng của ngươi, nên đem điều chính nghĩa ra
nói; và đem văn thư ngươi gửi đến bác trả lại. Viên Quốc vương hãy suy nghĩ
nghe lời, tuân theo lý, yên phận, khỏi phụ những lời thành thực khuyên răn của
Bản bộ đường. Nhân đem lời dụ rõ.”
( Cao Tông Thực Lục quyển 938, trang 17-19)
Trong văn bản nêu trên có nêu vụ nhà
Thanh trả lại Bác Tam cho ta, đây chỉ là chiến thuật ‘trả con cá nhỏ’ để ‘bắt
con cá lớn’ Hoàng Công Toản; do đó triều đình nhà Thanh tỏ ra rất mẫn cán trong
việc trao trả Bác Tam, để cố chứng minh rằng họ đã tuân thủ việc trao trả tội
phạm giữa hai nước. Cần lưu ý vụ Bác Tam chỉ là chuyện nhỏ, nhưng chỉ dụ gửi
cho Tổng đốc Vân Quí Chương Bảo ra lệnh trả y, đề ngày 13/4/1773, được sử dụng
theo độ tối khẩn hỏa tốc 600 (2) dặm 1 ngày, để việc trả lại Bác Tam lại cho An
Nam, được thực hiện trước hịch dụ nhân danh Tổng đốc Lưỡng Quảng nêu tại
phần trên, gửi đi vào ngày 22/8/1773. Rõ ràng đây là vở kịch, được soạn để ăn
khớp từng chi tiết:
Ngày 22 tháng 3 năm Càn Long
thứ 38 [13/4/1773]
Dụ các Quân cơ đại thần:
“ Bọn Chương Bảo [Tổng đốc Vân Quí] tâu ‘ Người Giao Chỉ tên là Bác Tam có
xích mích với viên Thổ mục Nguyễn Ngọc Huân nên bỏ trốn. Bác Tam đem gia quyến
trốn vào nội địa, nên bị quân tại đồn trấn bắt được; xin đem Bác Tam cùng gia
quyến trả lại nước này để tự họ tra xét.’
“ Việc làm đúng; vụ Bác Tam đã được
tra xét rõ. Tại Giang Bang, Giao Chỉ y bị Thổ mục Nguyễn Ngọc Huân sinh sự;
nhưng không tiện cho lưu lại nội địa; đáng đem bọn Bác Tam trở về lại nước này
gấp để họ điều tra giải quyết. Ðáng theo lệ trước đây đã giải Nguyễn Ngọ Hán,
trả về từ Quảng Tây; vẫn truyền hịch cho Ủy viên của viên Quốc vương tiếp nhận
tại biên giới. Hãy truyền dụ này với độ khẩn 600 lý [1 ngày], để chuyển cho
Chương Bảo, Lý Hồ [Tuần phủ Vân Nam] hay biết.
( Cao Tông Thực Lục quyển 929, trang 13 )
Riêng vụ Hoàng Công Toản thì văn bản
ngày 22/8/1773 nêu trên viện cớ rằng lúc y mới trốn sang, An Nam không chịu đòi
về; chờ đến khi đại Hoàng đế cho an sáp mới đòi, nên cương quyết không trả.
Ðiều này trái với sự thực; ngược dòng thời gian, ngay sau khi Hoàng Công Toản
chạy sang Vân Nam, thì vào tháng 10 năm Càn Long thứ 34 [1769] Trấn mục Hưng
Hóa Hoàng Ðình Thể đem việc Hoàng Công Toản làm giặc, chạy sang Trung Quốc;
nhưng viên Tri Châu Kiến Thủy Trương Nhan Liệt, toa rập với Tri phủ Lâm An
Trương Nhược Ðình trả lời rằng trong lãnh thổ Trung Quốc không có tên đó:
Ngày 6 Bính Tý tháng 4 năm Càn Long
thứ 36 [19/5/1771]
Dụ các Quân cơ đại thần:
“ Chương Bảo tâu nội dung về văn thư
phúc đáp An Nam đòi đưa Hoàng Công Toản trở về. Cứ theo lời bẩm của Trương
Nhược Ðình, lúc bấy giờ giữ chức quyền Tri phủ Lâm An cho biết viên quyền Tri
châu Kiến Thủy Trương Nhan Liệt trình diện, đưa một văn thư của viên Trấn thủ
Hưng Hóa, An Nam, tập nã Hoàng Công Toản. Y cùng viên quyền Tri châu bàn nên
phúc đáp những lời rằng trong lãnh thổ nội địa không có tên đó. ( Cao Tông Thực Lục quyển 882, trang 9-10)
Qua sử liệu nêu trên, chứng tỏ triều
đình nước ta đã làm đúng thủ tục, ngay khi sự việc xẩy ra, đã cho quan lại địa
phương Hưng Hóa liên lạc hàng ngang với quan địa phương Trung Quốc tại châu
Kiến Thủy để đòi cho được tội phạm Hoàng Công Toản trở về . Sự việc này mặc dù
chánh sử Thanh Thực Lục chép đầy đủ, nhưng vua Càn Long coi như không
biết, cho rằng lúc Hoàng Công Toản mới chạy sang Trung Quốc, An Nam chưa hề gửi
văn thư đòi trả về, nên bảo thuộc hạ A Quế vặn hỏi rằng “Ðã trốn vào nội
địa, sao không sớm báo cho quan tại biên giới xin nhờ tầm nã; cớ sao khi nghe
tin nội địa an sáp, mới gửi văn thư xin bắt trở về?”:
Ngày 10 Nhâm Ngọ tháng 10 năm Càn
Long thứ 35 [26/11/1770]
Quân cơ đại thần bàn rồi tâu:
“ Cứ theo lời tấu của bọn Phó tướng
quân A Quế rằng tiếp nhận di văn của Quốc vương An Nam, nhân đó tra biết rằng
năm ngoái bọn Hoàng Công Toản mang quyến thuộc đến nội phụ, được ban dụ cho an
trí ngoài biên giới. Viên Quốc vương cho biết viên Di mục Hưng Hóa, trong địa
phương có trại Mãnh Lại giáp giới với trại Mãnh Thiên thuộc châu Kiến Thủy [Trung
Quốc], đem sự việc trình báo; nên mới nêu ra.
“ Nhưng Hoàng Công Toản khốn cùng
đến xin qui phụ, đã được an sáp, viên Quốc vương sao lại được tự tiện hướng về
nội địa đòi hỏi. Vả lại nếu bảo bọn Hoàng Công Toản đã mang tội với người nước
này; nếu biết rằng đã trốn vào nội địa, sao không sớm báo cho quan tại biên
giới xin nhờ tầm nã; cớ sao khi nghe tin nội địa an sáp, mới gửi văn thư xin
bắt trở về? Xin ra lệnh bọn A Quế, lập tức gửi văn thư bác trách, mới đúng
cách.”
Nhận được chiếu chỉ:
“ Y theo lời bàn thi hành gấp.” ( Cao Tông Thực Lục quyển 870, trang 24-25)
Vua nhà Lê quyết không dừng bước,
bèn theo con đường chính thức giao dịch giữa hai nước, gửi thư cho Lý Thị
Nghiêu, Tổng đốc tỉnh Lưỡng Quảng, yêu cầu được gửi Sứ thần sang triều
đình nhà Thanh dâng biểu trình bày. Sau khi Tổng đốc Lưỡng Quảng tâu lên, vua
Càn Long bèn sai Quân cơ đại thần soạn sẵn thư cho viên Tổng đốc, dùng viên này
làm trung gian, khuyên vua nhà Lê đừng tiếp tục tâu lên. Lại đưa ra thủ tục đầy
khó khăn rằng nếu dâng biểu lên phải chờ vào kỳ cống, phải soạn biểu văn riêng
phụ gửi vào để cho bộ duyệt, cùng hù dọa rằng sự việc đưa lên sẽ bị đại Hoàng
đế quở trách:
Ngày13 Giáp Thân tháng 2
năm Càn Long thứ 36 [28/3/1771]
Dụ các Quân cơ đại thần:
“ Lý Thị Nghiêu tâu rằng ‘Quốc vương
An Nam gửi văn kiện liên quan đến văn thư phúc đáp của Chương Bảo [ quyền Tổng đốc Vân Quí] bác việc đòi hỏi Hoàng
Công Toản trở về; thanh ngôn rằng sẽ sai Ủy viên dâng bản tâu lên. Hiện đã gửi
thư cho tỉnh Vân Nam liệu biện để đợi Chương Bảo phúc đáp; hoặc
dùng ý kiến mình [Lý thị Nghiêu] gửi hịch văn bác bỏ; hoặc gửi dùm viên
Quốc vương bản tâu lên. Nay xin được chiếu chỉ cho biết để tuân hành.’
“ Viên Quốc vương đã gửi thư, đáng
phải truyền hịch phúc đáp, cũng không cần phải chờ Chương Bảo liệu biện. Nay đã
ra lệnh Quân cơ đại thần thay mặt Lý Thị Nghiêu soạn bản cảo (3) tờ hịch, để gửi cho Quốc vương nước này biết. ……:
“ Hịch dụ để Quốc vương An Nam hiểu
rõ:
Tiếp văn thư gửi đến cho biết
việc Hoàng Công Toản xin đầu thuận nội địa, Quốc vương đã đòi về, nhưng chưa
được đem trở về, và muốn Bản bộ viện thay mặt chuyển đạt. Nhân tra án này
liên quan đến Ðốc bộ viện Vân Quí lo liệu; đầu đuôi vụ án đều xẩy ra tại
tỉnh Vân Nam , Bản bộ viện không thể phân tích sâu đầu đuôi, và cớ sao phải làm
phiền Thiên tử nghe. Nhưng đọc kỹ văn thư gửi đến, thấy rằng nước ngươi
lo liệu việc này đầu đuôi không được thỏa đáng. Nếu như người này thuộc loại
trốn tránh, thì lúc mới trốn đáng thông tư ngay cho Ðốc bộ viện Vân Quí để ngăn
việc lén xâm nhập; thì Hoàng Công Toản không thể mượn cớ xin tá túc, và Ðốc bộ
viện Vân Quí không thể cho lưu giữ, và sẽ giúp các ngươi bắt giữ khi bọn chúng
còn ẩn náu nơi hoang dã. Ðến khi bọn Hoàng Công Toản đã đầu thuận, Ðốc bộ viện
Vân Quí cho rằng nước các ngươi thần phục đã lâu, vốn rất cung thuận; lê dân
(4) khốn cùng của nước ngươi cũng là con đỏ (4) của Thiên triều, nên thương sự
lưu lạc mà an sáp; đó là ngưỡng theo ơn sâu chiếu cố người xa xôi của Thiên tử,
giúp nước các ngươi chiêu tập người cùng khổ.
“Ðến khi viên Quốc vương biết được
đã trốn vào nội địa và đã được an sáp, thì chỉ nên trình bày đầu đuôi việc cha
con Hoàng Công Thư (5) đắc tội và yêu cầu Ðốc bộ
viện Vân Quí điều tra liệu biện; thì tỉnh Vân Nam sẽ điều tra rõ ràng, há lại
dung người mang tội tại thuộc quốc. Ngươi trước đây đòi hỏi Ðốc bộ viện Vân Quí
để mang bọn chúng về xử trị, sự đòi hỏi thẳng thừng bằng được như vậy, nên
không lạ trong đó có những lời trách. Rồi ngươi nhận được tư văn của Ðốc bộ
viện Vân Quí, lại có lời phẫn hận, càng không thận trọng đúng cách. Còn
việc bảo sẽ viết bản tâu, rồi sai Ủy viên đệ tấu; nay tra về lệ qui định cho
các ngoại Phiên, thì chỉ có kỳ đi cống mới có bản tâu dâng lên trước, mà bản
tâu này phải chờ bộ phúc chuẩn mới được đưa lên; ngoài ra các văn án khác đều
thuộc loại thông tư mà thôi. Nếu như viên Quốc vương muốn chờ đến lúc cống,
dâng văn bản phụ với tấu triệp, Bản bộ đường khó mà ngăn cản; Ðại hoàng đế xem
qua rồi sẽ giao cho bộ bàn, bộ sẽ không chấp thuận thi hành [như lời xin]. Nếu không
theo thủ tục mà gửi tấu triệp đến biên giới, Bản bộ viện cũng không dám làm
trái lệ, để tấu thay. Nhưng Quốc vương nghĩ đến Bản bộ viện là Ðại thần nơi
biên giới, đã đem những lời thỉnh cầu, thì không thể không thực tình báo cho
biết. Quốc vương từ trước tới nay giữ lễ, đại Hoàng đế quyến luyến gia ơn, nay
lại vì thiên kiến, dùng lời quá khích, thấy được thiếu thận trọng. Thảng hoặc
điều này Thiên tử nghe được, thì không khỏi bị khiển trách. Còn về nội
dung vụ án này, Bản bộ viện cần gửi cho Ðốc bộ viện Vân Quí lo liệu, ngoài ra
phúc đáp trước cho Quốc vương để châm chước liệu biện ỗn thỏa, để không phụ lời
khuyên giải của Ðốc bộ viện.”… ( Cao Tông Thực Lục, quyển 878, trang
19-22)
Dù cho Tổng đốc Lý Thị Nghiêu ngăn
cản, vua nhà Lê vẫn kiên quyết xin gửi cống sứ sang để trình bày vụ Hoàng Công
Toản. Vua Càn Long không thể không chấp nhận, nhưng chuẩn bị rằng một khi biểu
văn đưa lên, thì đưa qua bộ và nội các để họp bàn bác bỏ. Càn Long đọc văn thư
của vua Lê, thấy sử dụng những điển cố xác đáng để đả kích như ‘Yêu cầu sửa
sang việc chính trị tu sửa giáo hoá’ (Tề chính tu giáo, chính nghị minh đạo)
hoặc ‘Nếu không đếm xỉa đến nghĩa lý phải trái…’ (Nhược bất vấn nghĩa lý chi
thị phi); nên nghi rằng có người Trung Quốc chạy trốn sang An Nam viết giúp;
lời suy luận thực quái gỡ, vì An Nam là nước văn hiến, về đường chữ nghĩa nào
phải nhờ đến ai:
Ngày 13 Mậu Thân tháng 3 năm Càn
Long thứ 37 [15/4/1772]
Dụ các Quân cơ đại thần:
“ Cứ theo lời tâu của Lý Thị Nghiêu
‘ Quốc vương An Nam cố chấp mê muội đem vụ án Hoàng Công Toản phụ tâu lúc nạp
cống., nên không cần phải gửi văn thư phúc đáp.’ Viên Quốc vương cố chấp ý kiến
mình, nhất định muốn trình tâu, viên Tổng đốc cho rằng không cần gửi văn thư
phúc đáp là đúng. Ðợi tấu triệp của y tới nơi, giao cho bộ bác bỏ; viên Tổng
đốc lúc này cũng không cần tranh luận với họ.
Riêng duyệt văn thư của viên Quốc
vương, trong đó có những cụm từ như “ tề chính tu giáo, chính nghị minh đạo” ( sửa sang việc chính trị tu sửa giáo hóa, bàn lẽ phải làm
sáng đạo) , hoặc như “ nhược bất vấn nghĩa lý chi thị phi” ( nếu không
đếm xỉa đến nghĩa lý phải trái) vv…đều thuộc loại cũ kỹ vu khoát không hợp
thời, chuyên dùng nhai văn nhả chữ, chắc từ tay tên Hán gian nào đó viết. Biên
giới An Nam tiếp giáp với Quảng Tây, dân nội địa qua lại rất tiện; sợ quân gian
không tuân pháp luật trốn vào nước này, việc này rất quan hệ. Nay truyền lệnh
cho Lý Thị Nghiêu lưu tâm tra xét, thông sức các cửa quan ải, nghiêm mật xét
hỏi, nếu gặp người phạm vào việc cấm đoán ra vào, thì tra xét kỹ trị năng tội
này.”
Ðem dụ này truyền để hay biết. (Cao Tông Thực Lục quyển 904, trang 32-33)
Qua biện pháp mềm mỏng tranh luận
qua văn thư và gửi Sứ giả đến triều đình nhà Thanh phân trần, không có hiệu
quả; nhà Lê tỏ ra cương quyết, cho biết sẽ mang quân đến vùng Thập Châu, bắt
những người Trung Quốc tại trại đó giải tống sang Trung Quốc, cùng hoạch định
lại biên giới:
Ngày 13 Ðinh Mùi tháng 9 năm Càn
Long thứ 47 [19/10/1782]
……‘ Cứ lời trình của viên Quốc vương
khai rằng Thập Châu thuộc An Tây đường sá xa xôi, nhân sau cơn binh lửa,
dân nội địa thừa cơ hội trà trộn vượt chiếm nhận đất thuộc Quảng Lăng, Lai Châu
đổi tên thành Mãnh Lạt, Mãnh Lại, rồi cho lệ thuộc vào nội địa. Nên đợi đến mùa
mát, sai người đến Thập Châu, tìm bắt phạm nhân giải tống sang, điều tra ra
vùng đất biên giới chưa rõ ràng đáng được hoạch định lại.’ (Cao Tông Thực Lục quyển 1164, trang 39-41)
Văn thư vừa mới gửi đến cho Tổng đốc
Vân Quí Phú Cương, thì mùa thu năm đó chúa Trịnh Sâm mất, nên mọi việc đành bỏ
dở.
*
Mãi cho đến thời Gia Khánh [1804],
trong dịp nhà Thanh cho phép những người Việt Nam từng theo vua Lê Chiêu Thống
lưu vong trở về nước. Nhân dịp này tại Ô Lỗ Mộc Tề thuộc tỉnh Tân Cương, nơi
địa phương bọn Hoàng Công Toản bị an sáp, viên Ðô thống cai quản xứ này gửi văn
thư hỏi triều đình nhà Thanh có bằng lòng cho bọn Hoàng Công Toản trở về nước
hay không. Vua Gia Khánh gửi chỉ dụ cho biết rằng Nguyễn Ánh [Gia Long] vốn
thuộc cựu thần nhà Lê, mà bọn Hoàng Công Toản là cừu địch nhà Lê, xét vì an
toàn cho bọn này, nên không cho trở về:
Ngày 6 Nhâm Tuất tháng 8 năm Gia
Khánh thứ 9 [9/9/1804]
Lại dụ:
“ Hôm nay Quân cơ đại thần tâu bộ
hình chuyển văn thư cho biết căn cứ Ðô thống Ô Lỗ Mộc Tề báo rằng tại địa
phương Ðầu Ðồn thuộc xứ này, vào năm Càn Long thứ 36 [1771] an sáp người Di là
bọn Hoàng Công Toản, gồm 22 hộ; những người này nên hay không nên chấp thuận
cho trở về nước. Qua Quân cơ điều tra rõ, Hoàng Công Toản là hậu duệ họ Mạc,
nhân họ Lê diệt Mạc nên đổi họ để trốn, cư trú tại trại Mãnh Thiên. Lại bị An
Nam đánh, sức không chống nỗi, đem quyến thuộc hơn 100 người, vào năm Càn Long
thứ 34 [1769] khẩn cầu nội phụ. Ðã được cho an sáp gần biên giới; rồi viên Quốc
vương nước này xin đưa về để trị tội, nên bi bác và cho an sáp tại Ô Lỗ Mộc Tề.
Những gia đình An Nam này với những
người đi theo Lê Duy Kỳ được cho trở về; tình tiết không giống nhau, nên khó có
thể liệu biện cùng một cách. Nay truyền dụ cho viên Ðô thống, nếu như lúc
này các hộ thuộc bọn Hoàng Công Toản không xin trở về nước, thì gác lại không
cần bàn đến. Nếu bọn y nhân các các hộ theo Lê Duy Kỳ đều được chấp thuận cho
trở về nước, rồi lại khẩn cầu xin hồi hương, thì viên Ðô thống cần dụ rằng: Bọn
ngươi vốn là cừu địch với họ Lê nên đến đầu thuận nội địa, nhưng hiện tại
Nguyễn Phúc Ánh, người được nước, vốn thuộc cựu thần nhà Lê. Ðại Hoàng đế lo
rằng các ngươi sau khi trở về nước sẽ không có chỗ nương dựa, nên vì lòng thể
tuất không đưa các ngươi giao cho nước này. Các ngươi đáng an cư lạc nghiệp,
không nên nghe những điều quấy. Dụ một cách minh bạch như vậy, bọn chúng sẽ cảm
khích về sự ban ơn. Ðem dụ này truyền lệnh để hay biết. ( Nhân Tông Thực Lục quyển 133, trang 12-13)
Vua Gia khánh cho rằng Hoàng Công
Toản cừu địch với nhà Lê, Nguyễn Phúc Ánh [tức vua Gia Long] thuộc cựu thần nhà
Lê, nên cũng không dung cho Hoàng Công Toản. Lập luận này hết sức miễn cưởng,
vì qua lịch sử Việt Nam thì họ Nguyễn tại phương Nam và nhà Lê Trịnh phương Bắc
phân tranh hàng thế kỷ; vậy họ Nguyễn đâu còn là thần dân nhà Lê! Chỉ có một
điều duy nhất mà nội bộ triều đình nhà Thanh biết rõ, là bất cứ triều đại nào
tại Việt Nam, hoặc Lê, Nguyễn hay các họ khác, sẽ không bao giờ tha thứ kẻ dâng
đất cho ngoại bang, và nếu có được bọn Hoàng Công Toản trong tay, ắt sẽ dùng nó
để làm bằng cớ đòi cho bằng được vùng đất bị mất.
HỒ BẠCH THẢO
Chú thích
1.Bản bộ đường, hay Ðốc bộ đường:
lời tự xưng của vị quan lớn đứng đầu một cơ quan. Ðốc bộ viện: chỉ viên Tổng
đốc và cơ quan dưới quyền
2.Hỏa tốc: thời Thanh Càn Long sử
dụng ngựa chạy tiếp sức làm phương tiện truyền tin nhanh, độ tối khẩn hay hỏa
tốc là 600 lý [342 km.] 1 ngày; với độ khẩn này, phải thay đổi ngựa chạy tiếp
sức suốt ngày đêm.
3.Bản cảo: bản nháp. Bản này do Quân
cơ đại thần soạn sẳn để Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu chép lại rồi gửi
sang An Nam.
4.Lê dân: dân đen, con đỏ tức xích
tử; hai từ này đều chỉ dân thường.
5.Hoàng Công Thư tức Hoàng Công
Chất, cha Hoàng Công Toản.
_______________________
_______________________
Hồ Bạch Thảo hình như tư duy không được bình thường: Hoàng Công Toản chạy sang Tàu làm sao mang đất theo được (Đất chứ có phải tiền, vàng đâu mà mang theo?). Bài này chí ít cũng là bài thứ 3, Hồ Bạch Thảo nói về nội dung này.
ReplyDeleteĐầu óc toàn bả đậy hủ
DeleteAnonymousMarch 6, 2012 3:28 PM
Delete"Hồ Bạch Thảo hình như tư duy không được bình thường: Hoàng Công Toản chạy sang Tàu làm sao mang đất theo được (Đất chứ có phải tiền, vàng đâu mà mang theo?). Bài này chí ít cũng là bài thứ 3, Hồ Bạch Thảo nói về nội dung này."
Nói đầu óc đầu óc các bạn là đậu hũ thì cũng là sỉ nhục cho đậu hũ đó. người ta phân tích như vậy rồi mà còn ví đất với tiền và vàng thì tôi thua các bạn luôn.
Nói đơn giản như này để cái đầu bò các bạn hiểu nè. Họ nhà các bạn có một mảnh đất cho thằng cháu của bạn cai quản, nó không cai quản nó mang miếng đất của cả họ nhà bạn cho nhà thằng hàng xóm. Họ bạn qua đòi lại nhưng thằng hàng xóm nó to hơn nó khỏe hơn nó nói là đất của nó(thằng cháu mất dậy của bạn thì đang ở trong nhà thằng hàng xóm). Muốn đòi lại đất thì phải đòi lại thằng cháu để nó ra nó đối chất. Hiểu chưa mấy thằng đầu bò còn giở giọng chê bai người khác.