Nhà thơ Vương Trung
đã từ trần hồi 5h00 ngày 13/3/2012 (tức ngày 21 tháng 2 năm Nhâm Thìn) tại Thuận
Châu, tỉnh Sơn La. Nhà thơ Vương Trung là người Thái, tên thật là Lường Văn
Trung, sinh ngày 20/10/1938. Quê quán: xã Mường Ék, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn
La. Ông từng là giáo viên dạy học ở Sơn La, sau đó làm việc trong ngành văn
hóa, nghiên cứu văn học và biên tập sách tại Sơn La. Hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam 1974. Trân trọng giơí thiệu bài viết của PGSTS Văn Giá để tưởng nhớ:
Nhớ lại, ngày sắp rời Tây Bắc về xuôi tôi được anh bạn Châu
Hồng Thuỷ cho hay: Vương Trung đang sắp sửa hoàn thành một cuốn tiểu thuyết khá
lắm, tầm ngang ngang với Giamilia của T.Aitmatov. Nghe thế, tôi cũng chỉ ậm
ừ, chẳng biết nói thế nào. Thế rồi ông bạn tôi đọc lên mấy câu thơ này,
bảo là rút trong bản thảo tiểu thuyết đó:
Em để mặt trời hồng phía sau/Phòng khi lưng ớn
lạnh/Trước mặt, mắt phòng xa/Hai bên, tai đã ngóng/Mặt trời lẻn về gáy chẳng hay/Gió
tạt ngang, tai
nghe thính/Tối siết mặt, mắt nhìn xuyên /Sương nặng đầu, lửa thân bốc/Em, vẫn
đợi tình yêu!...
Nghe xong, như thể vừa được uống chén rượu
ngon, tâm thần rạo rực, bèn hùa theo: “Rất có thể ông này làm một Giamilia, hoặc
hơn thế cũng nên...”.
Chuyện bẵng đi từ đấy. Gần mươi năm sau, một hôm nghe tin Mối
tình Mường Sinh của Vương Trung vừa ra mắt, tôi tìm mua liền. Đọc một mạch.
Chưa hẳn do truyện hấp dẫn ngay từ những dòng đầu. Có lẽ do nhớ Tây Bắc. Nhớ
Vương Trung. Nhớ quá nên đọc một mạch. Thế là được sống lại với sông suối núi
rừng bản làng Tây Bắc. Được sống với những đêm múa xoè, ruợu cần. Được sống lại
bóng hình những em gái Thái. Được sống lại từng vạt rừng hoa ban trắng khắc
khoải miên man...Chao ôi là nhớ. Những trang miêu tả ngày hội chơi hoa ban
của con trai con gái Thái Tây Bắc trong Mối tình Mường Sinh có thể nói
đó là những trang văn đẹp đến mộng mị, đến nao lòng. Ai đã từng sống vài mùa
hoa ban Tây Bắc cũng đều ủ trong lòng nỗi nhớ mưng mưng như
thế. Đọc Vương Trung để đỡ nhớ Tây Bắc, đỡ nhớ Vương Trung. Nhưng thật ra thì
đọc Vương Trung lại nhớ Vương Trung, nhớ Tây Bắc thêm lên...
Vương Trung viết truyện như thơ. Đó là một tình ca. Tình ca
kể về mối tình của một chàng trai là thày giáo trẻ tên Sương với một cô gái
vùng cao tên Ơn. Hai người yêu nhau đắm say, thiêng liêng, nồng nàn
chung thuỷ, được mọi người vun vén, lo toan. Về sau, Sương tình cờ
phát hiện ra:
không ngờ bố của cô gái này ngầm tham gia cho một tổ chức phá hoại đang
chuẩn bị cướp chính quyền nhân dân sở tại. Sương đau khổ. Cô gái không hề
hay biết chuyện này. Kết thúc tác phẩm là cuộc chia tay của
chàng trai đối với cô gái khi anh được dịp nghỉ hè với nhiều nước mắt, giằng xé
bấn loạn giữa tình yêu lứa đôi và trách nhiệm công dân. Rất may, truyện kết ở
đấy. Lúc truyện này ra đời là vào năm 1995, năm nền văn học đã có những biến
đổi theo hướng hiện đại, mà một trong những biểu hiện của nó là không nhất
thiết cứ phải chọn cách kết thúc có hậu mới được cho là giải pháp tích cực
nhất. Để hiểu và chấp nhận một điều tưởng như giản dị ấy thôi mà cũng phải
trải qua mấy chục năm lịch sử văn học. Cách kết thúc đó không giống
như phần kết của truyện thơ Ing- Éng được Vương Trung viết năm 1976. Đây cũng lại là
một truyện tình. Chưa cần nói gì đến nội dung tác phẩm, nhìn vào bảng danh sách
các tác phẩm của Vương Trung đã yên tâm nhận định một điều: Hồn thơ Vương Trung
liên tục cất lên những bản tình ca bất tử của tâm hồn người Thái
ngàn đời. Trong cái điệu hồn điệu sống nồng nàn của đồng bào người Thái,
luôn luôn trữ sẵn cái men tình nồng say để cất thành rượu quý. Kho tàng văn hoá
Thái tích trữ một gia tài rượu quý tình ca nồng nàn vào bậc nhất trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam.
Chuyện chàng Ing và nàng Éng yêu nhau, Ing đi bộ đội, Éng ở nhà bị ép gả, Éng
đợi chờ, bị kẻ xấu dèm pha, Ing Éng hiểu lầm nhau, Éng bỏ vào lâm trường, kết
cục hai
người đoàn viên, thề nguyền tin tưởng...Cốt truyện là một motif dân gian
Thái. Vương Trung kể: ban đầu ông để cho cô Éng đau khổ vì tình, bị ép duyên
nên đã vào rừng ăn lá ngón tự giải thoát. Năm 1963 về trại sáng tác ở Hà Nội,
gặp các ông Đỗ Quang Tiến, ông Xuân Diệu. Đỗ Quang Tiến bảo: Nếu để cuộc tình
hai người bí
quá rồi cho cô gái tìm đến cái chết bằng cách tự tử thì không phải
là truyện của Vương Trung nữa rồi, mà là của dân tộc Thái, các truyện dân tộc
hay xử lý theo cách đó. Quả thật, dân tộc Thái là một dân tộc đề cao nước mắt
trong tình yêu, lắm khi lấy cái chung cục mất mát đau khổ làm bài học nhen lên
khát vọng cho con người, cảnh tỉnh con người hãy
giữ lấy tình yêu bằng mọi giá chứ đừng vướng vào vòng bi tình oan khiên ấy
nữa...
Nghe theo ông Tiến, Vương Trung để cho hai người trải
qua ngờ vực, đau khổ, rồi cho cô gái lên nông trường, chàng trai vào bộ đội,
rồi cuối cùng tình cờ gặp nhau tại nông trường- nơi cuộc
sống mới đang thành...Cách kết thúc tác phẩm tiêu biểu cho một thời văn học
nặng về minh hoạ - điều mà Mối tình Mường Sinh
vượt thoát được. Câu chuyện thì không có gì đáng kể, nhưng đã là truyện thơ,
cái quyết định lại không phải ở cốt, mà là ở lời thơ, tình thơ là
chính. Rất may, nhờ có các câu thơ hay, nên truyện này cứu được. Thơ Vương
Trung là tiếng Thái được tinh luyện, chưng cất mà thành.Trở lại với những
truyện thơ Thái, người Thái Tây Bắc nổi tiếng với những truyện
tình Xống chụ xôn xao, Khun Lú- nàng Ủa, những điệu khắp, điệu khèn,
những bài hát giao duyên tình tứ. Vương Trung đến với văn chương cũng bắt
đầu bằng thơ. Đầu tiên bằng các bài thơ lẻ, sau được in thành tập Sóng Nậm
Rốm (1979). Bài thơ Núi, mây và đàn bò đã có mặt trong nhiều tuyển
tập của nền thơ Việt Nam
hiện đại. Hồn thơ và tay nghề thơ của Vương Trung đến lúc này đã
được dịp thử sức ở một kích cỡ lớn hơn, trong một thể loại truyền thống của dân
tộc Thái, đó là truyện thơ.
Có lẽ vào những năm bẩy mươi của thế kỷ XX, nhiều người đọc
Vương Trung chưa kịp nhận ra điều này: trước sau hồn thơ Vương Trung dù trong
thơ hay văn xuôi vẫn cất lên toàn bộ những biểu hiện sống động nhất của văn hoá
dân tộc Thái Tây Bắc quê ông. Tinh hoa tinh tuý văn hoá của một dân tộc đi vào
văn chương, trước hết ở chất liệu cuộc sống có tính dân tộc học. Để làm được
việc này, nhà văn chỉ cần có tài quan sát và miêu tả cho tinh tế là ổn rồi.
Trong Ing- Éng, Mối tình Mường Sinh không thiếu
những trường đoạn miêu tả cảnh sắc và tập tục vùng đồng bào dân tộc Thái, trong
đó không ít
những cảnh chân thực, thơ mộng, rực rỡ. Nhưng nếu chỉ như vậy, có lẽ mới chỉ là
hình xác bên ngoài của văn hoá. Cái có ý nghĩa quyết định để khẳng định áng văn
chương giàu chất văn hoá dân tộc phải là ở diện mạo và chiều sâu tâm hồn nhân
vật được thể hiện qua tâm trạng, lời nói, cách cảm cách nghĩ. Khi để cho cô con
gái từ chối sự ép gả của mẹ cha như thế này thì rõ ràng là ra con gái Thái, không thể
lẫn được: Không
ưa, cơm trắng dẻo cũng ngán- Đã ưa, rau dướng cũng ngon
lành-Dù người mặc
áo đỏ nhuộm cánh kiến- Không bằng người yêu mặc áo đen nhuộm chàm- Con không yêu người ăn
cơm quên ruộng- Được ăn cá quên sông... Cái cảnh chia tay cuối
cùng trong Mối tình Mường Sinh là một cảnh thăng hoa đầy tâm trạng: hai người ghì
riết nhau, miệng chàng trai giật tung một chiếc cúc bạc trên ngực áo coóng
của người yêu,
rồi cô gái trao chiếc cúc áo ấy cho chàng trai như một vật thề nguyền...Một
khung cảnh thật giản dị nhưng cũng đầy lãng mạn và rất Thái. Nhà thơ Vương
Trung cả đời sống hết lòng giữa đồng bào mình, bén duyên tình chồng vợ với người con
gái Thái, nên cái trữ lượng văn hoá về dân tộc Thái thật dồi dào. Câu chữ trong
trang viết của ông được bảo hiểm bằng một mạch nguồn văn hoá đầy cá tính, thâm
hậu và sống động.
Điều này cũng cắt nghĩa tại sao những năm gần đây,
Vương Trung cho ra liên tiếp các công trình khảo cứu, biên dịch về văn hoá văn
chương dân tộc Thái: Mo Khuôn (sưu tầm và biên dịch, VHDT 1999), Nhà
sàn Thái cổ Việt Nam (VHDT, 2000), Táy Pú Xấc (thơ dân tộc Thái, sưu
tầm,VHDT, 2003), Chương Han (sử thi dân tộc Thái, VHDT, 2005), sắp xuất
bản cuốn Lễ tang xưa của người Thái... Ông rất thạo chữ Thái cổ.
Một số thày cô giáo và sinh viên các trường đại học, cao đẳng quanh đấy vẫn vác
sách đến hỏi chữ ông. Những lúc ngơi tay viết, ông lại lang thang. Cái máu sục sạo,
tìm đãi vào kho tàng dân gian Thái cuối bản cùng mường đã ngấm vào cốt tuỷ
Vương Trung tự lúc nào.
Những người dân thị trấn Châu Thuận hôm nay quá quen
với hình ảnh một người già dáng hơi cao, đầu đội mũ nồi đen, bộ
dạng giống ông giáo về hưu, vai đeo túi thổ cẩm, lặng lẽ đi bộ một mình, hoặc
lóc cóc đạp chiếc xe cũ kỹ xuống các bản xa. Đó là những khi ông đi về với bà
con, với các nghệ nhân dân gian, hoặc chỉ với một câu thơ câu chuyện dân gian
nào đó mà ông vừa nghe thấy ai nhắc đến. Đơn giản hơn, ông đi thăm thú bà con
chung quanh khi việc vui việc buồn đời người cứ trôi như nước chảy. Ông sống giữa
lòng cuộc sống của đồng bào mình. Có một chi tiết thật thú vị: tên đầy đủ của
nhà thơ là Lường Vương Trung. Mà người Thái Châu Thuận quê ông từ xa xưa đã lưu
truyền câu: “Lường làm Mo, Lò làm Tạo”, nghĩa là người họ
Lường chuyên đi làm Mo - người chủ văn hoá của bản mường, còn người họ
Lò chuyên đi làm quan trong vùng. Một ông Mo trong cộng đồng dân tộc Thái là người có
khả năng thuộc hầu hết các tác phẩm truyền miệng hoặc thành văn của dân tộc
mình, là
người chủ lễ các cuộc lễ lớn của bản, là người trong
đời sống thường ngày luôn được bà con tin cậy tìm đến để xin những lời khuyên
nhủ...Ông Mo thực sự là một “thủ lĩnh” tinh thần của cộng đồng bản mường. Thì
Vương Trung
cũng có thể xem như một ông Mo của thời hiện đại, một hiện thân văn hoá, người góp
phần nuôi giữ ngọn lửa văn hoá dân tộc Thái cho nhiều thế hệ người Thái
mai sau. Và
không chỉ cho người Thái.
Hỏi Vương Trung: “Sao sống trong hẻm rừng Châu Thuận lặng
lẽ này mà anh làm được lắm thứ thế?”. Ông cười hiền lành, rủ rỉ như cách đây
hai mươi năm vẫn rủ rỉ hiền lành như vậy: “ Mình không làm
thì rồi chẳng biết có ai làm không. Thôi thì...”. Bỏ lửng câu nói, ông với
lấy chai rượu rót tiếp. Rượu ngâm táo mèo để đã ngấu, vàng óng như mật. Hai anh
em nâng cốc. Khà một cái. Vương Trung khoe Nguyễn Anh Tuấn đạo diễn điện ảnh
vừa rời khỏi đây tuần trước. Tuấn lên lần này để chuẩn bị khởi quay bộ phim
cùng tên chuyển thể từ tiểu thuyết Mối tình Mường Sinh do chính Vương
Trung làm kịch bản. À, thì ra là thế. Trong số những người xuôi
xa Tây Bắc, Nguyễn Anh Tuấn là kẻ “nghiện” miền Tây trầm trọng nhất. Thoáng cái
đã chiều tà. Nhìn qua cửa sổ nhà sàn, một vườn mận mé nhà trong chiều cuối năm
trông toàn cành là cành, khẳng khiu, phấn mốc. Cũng giống
như suốt dọc đường Tây Bắc, thỉnh thoảng lại một vạt rừng đào mận phấn mốc
khẳng khiu như vậy. Trông hiu hiu Đường Tống thuở nào...Nhìn sang Vương Trung,
tóc đã ngả màu cước. Hỏi ra mới biết bác năm nay đã vào thất thập rồi. Đời người mau
thế.
Bác ở lại nhé, em xuôi đây với những vui buồn khó nhọc người xuôi.
Cứ ngẫm, ở lại chơi với bác ít ngày thì còn được, chứ bảo ở hẳn nơi bác ở chắc
chúng em
không có đủ nội lực ẩn sĩ như bác đâu, chúng em còn nhiều nặng nợ trần
ai lắm. Thôi thì trong hành trang em mang về xuôi lần này, xin được lẩm nhẩm
đường trường câu thơ của bác với hy vọng có dịp vận vào em lấy một lần:
Sương nặng đầu, lửa
thân bốc
Em vẫn đợi tình yêu!...
Thuận Châu- Hà Nội,
những ngày cuối năm 2006.
(Nguồn: Báo
Văn nghệ, 3-2007)
PGS TS VĂN GIÁ
No comments:
Post a Comment