Trường thơ Loạn manh nha từ nhóm thơ
Bình Định với những tên tuổi như Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên.
Đến năm 1936, Hàn Mặc Tử đã chủ trương thành lập trường thơ Loạn cùng với Yến
Lan, Bích Khê và Chế Lan Viên. Từ đó, cái tôi trữ tình thơ Loạn đi từ âm vang
Đường thi đến thung lũng đau thương,
tràn bờ sang cả những bóng ma Hời trên tháp Chàm u uẩn, rồi chọn cho mình điểm
dừng ở cuộc duy tân của Bích Khê.
Cái Tôi của các nhà thơ
Loạn bị đẩy vào bờ vực cái chết thì khát vọng sống lại càng trở nên mãnh liệt.
Cái Tôi ấy luôn mong manh bên bờ vực cuộc đời trần thế và cõi siêu nhiên. Đó là
những đối cực không thể vượt thoát. Thơ Loạn là những vần thơ được viết ra từ
những tâm hồn khát sống đến mãnh liệt. Khi cuộc sống bị thu ngắn lại thì họ
càng thấm thía giá trị của những khoảnh khắc hiện tại để khao khát được sống, được yêu. Càng khao khát
thì càng tuyệt vọng, đó chính là những đối cực nhưng lại thống nhất biện chứng
trong mạch cảm xúc của các nhà thơ Loạn. Khi khổ đau lên đến tột cùng, con
người thường tìm đến với một vùng trời bình yên trong mơ ước. Chỉ ở đó, họ mới
có thể quên đi nỗi đau để sống với trọn vẹn tình yêu, năng lực sống của mình.
Song thực tại không bao giờ buông tha khiến cho họ phải điên cuồng hối hả tận
hưởng sự sống đang úa tàn dần trước mắt.
Thơ Loạn bật lên từ cõi
chết mà chống lại chính cái chết đang bủa vây. Đôi lúc nó quay về quá khứ để
tìm trong đống đổ nát hoang tàn một mầm sống âm thầm lặng lẽ nhưng xanh mướt vô
cùng. Người nghệ sĩ khó kìm nổi mãnh lực của chính mình, bùng cháy, nổ tung
thành những trang viết toàn những hồn, máu, tủy, tinh huyết hiến dâng cho đời.
Những khi ấy, con người không còn là mình nữa, nó phân thân thành một thực thể
khác, trong trẻo hơn, tinh khiết hơn để hòa mình vào thiên nhiên, miên man
trong cõi huyền diệu.
Trần thế và siêu nhiên
là hai đối cực trong thơ Loạn. Từ trần thế chỉ cần với tay nháy mắt, chỉ cần
phiêu du một chút, ta có thể lạc ngay vào cõi tiên huyền diệu. Với Bích Khê,
nơi ấy hạnh phúc hiện hình giữa thời gian vô tận và không gian vô cùng: Lên Kim tinh xác bằng thanh khí/ Đất lưu ly không khí xạ hương/ Cây du dương lâu đài song sóng/ Trên biển châu trời lộn kim cương. Trong
không gian ấy, cái gì cũng ngất ngây huyền diệu. Không gian như sợi tơ giăng
mắc, khẽ chạm đường tơ đã réo rắt những cung đàn. Cõi siêu nhiên được phôi thai
trong nỗi cô đơn tuyệt vọng của con người. Cuộc đời dồn đuổi, hạnh phúc lùi xa,
cái chết ám ảnh, các nhà thơ Loạn tìm sự hoàn mỹ ở cõi vô thường. Thơ họ là
liều thuốc vuốt ve, vỗ về những niềm đau. Nhưng họ luôn rơi vào mâu thuẫn giữa
thực tại khổ đau và khát vọng được dung hòa, đưa con người vào nỗi u sầu đến
ngất ngư, hối hả đến điên cuồng để bám riết lấy sự sống: Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung/ Để tìm em đưa hai tay ràng rịt/ Mảnh
tình thiêng ngả ngốn giữa không trung (Hàn Mặc Tử). Càng bị đẩy sâu vào khổ
đau tuyệt vọng con người lại càng khám phá ra những miền đất hoang sơ với hạnh
phúc ngọt ngào. Những chiều kích của tâm hồn được thăng hoa tột độ, không phải
bằng lý trí mà vượt hẳn ra ngoài lý trí để đi vào chiều sâu con người ở thế giới
vô thức, đưa con người vào trạng thái mơ hồ, lâng lâng, ngây ngất: Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời/ Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi/ Vàng phai nằm in ôm non gầy/ Chim yên neo mình nương xương cây/ Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa (Bích
Khê). Họ loãng tan hồn mình để hòa lẫn vào không gian trong trẻo với niềm hạnh
phúc vô biên: Chúng ta biến em ơi thành
thanh khí/ Cho tan ra hòa hợp với
tình anh/ Của trời đất và muôn vàn ý
nhị/ Và tình ta sáng láng như trăng
thanh (Hàn Mặc Tử). Cõi siêu nhiên đôi khi lại là một thế giới cuồng loạn
nơi người nghệ sỹ gửi vào đó những khao khát bị kìm nén, những nỗi tuyệt vọng
đến vô cùng: Chiều hôm nay bỗng dưng ta
lạc bước/ Vào nơi đây thế giới vạn cô
hồn (Chế Lan Viên). Ở đó người nghệ sĩ có thể thỏa sức gào rú, rên xiết,
nức nở khóc than. Họ có thể cười phá lên vỡ òa cả vũ trụ. Nỗi đau có khi nâng
cánh người ta lên thiên đường nhưng cũng có thể nhấn chìm người ta xuống địa
ngục rờn rợn hơi ma, hoảng sợ và đầy mộng mị, ảo giác: Tôi ngồi dưới bến đợi nường mơ/ Tiếng
rú ban đêm rạn bóng mờ/ Tiếng rú hồn
tôi xô sóng vỡ/ Rung tầng không khí,
bạt vi lô (Hàn Mặc Tử)…
Thơ Loạn là cõi siêu
hình ngập ngụa những máu, đôi khi quay cuồng trong vũ điệu của thần chết, phả
ra mùi tanh nồng của thịt rã, xương tan, đôi lúc chan chứa nỗi chán chường
không sao cứu vãn nổi. Họ điên cuồng nhảy múa, la hét và cười sằng sặc, bởi họ
yêu cuộc sống này đến phát điên, đến rồ dại cả người. Bệnh tật đã dồn đuổi họ
ra ngoài lề xã hội, họ đứng bơ vơ lạc lõng giữa dòng đời. Họ hoảng hốt đi tìm
những hình ảnh thân quen, những ánh mắt những nụ cười giờ bỗng nhiên thành xưa
cũ, quá khứ lùi lại sau lưng họ, tình yêu thì tan vỡ trong hố thẳm không cùng.
Họ tuyệt vọng đến khôn cùng nên muốn đập phá cả vũ trụ, làm đảo lộn cả càn khôn,
muốn quay ngược thời gian trốn mình vào dĩ vãng, vào tình yêu đã mất. Họ nức nở
khóc than cho ước mơ đang tan biến từng giờ nên khao khát kiếm tìm sự cảm
thông: Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ/
Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy/
Của lời câm muôn vì sao áy náy/ Hiểu gì không, em hỡi! Hiểu gì không?
(Hàn Mặc Tử). Ngay cả cái chết cũng không ngăn được tình yêu sống trong họ,
thậm chí còn làm cho tình yêu đó thêm thăng hoa thành những giá trị nhân bản
nhất. Nỗi đau có lúc nhấn chìm họ quăn quại trong vũng đau thương, có khi lại
nâng họ phiêu du giữa chốn cung hằng. Hơn tất cả những gì đang sống họ thiết
tha yêu sống, yêu cõi trần tục này. Tình yêu ấy được gửi vào hoa cỏ đất trời
vào tất cả những gì gắn bó với cuộc đời. Càng yêu sống họ càng lưu luyến với những
tháng ngày đã qua: Để nếm lại cả một thời
xưa cũ/ Cả một dòng năm tháng đã trôi
qua (Chế Lan Viên). Không được yêu thương ở cõi trần, thi sĩ ngây ngất với
các tiên nương ở chốn mộng ảo, đào nguyên ở chính lòng nàng: Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi/ Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi/ Tìm đâu đào nguyên cho xa xôi/ Đào nguyên trong lòng nàng đây thôi (
Bích Khê). Quá khứ đã tuột khỏi tầm tay, tình yêu giờ chỉ là muôn năm sầu thảm,
dù có ngất ngây với tiên nương nhưng vẫn nhớ thương đến quắt quay một dáng hình
nơi trần thế. Những tin yêu ấy họ đã gửi vào những mỗi tình tuyệt vọng giờ lại
càng cháy bỏng đến thiết tha. Càng bị phụ rẫy thì con tim lại càng lên tiếng
yêu thương: Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy/
Nhưng mà ta không lấy làm đều/ Trăm năm vẫn một lòng yêu/ Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi (Hàn Mặc
Tử). Dù chỉ còn một chút hy vọng nhưng các nhà thơ Loạn vẫn cứ bám riết vào đời
để sống để chắt chiu từng chút hơi ấm tình người. Chốn cung hằng có thể làm dịu
mát những cơn đau nhưng chính cõi trần mới là sự níu kéo họ ở lại. Dù cho có
lúc chìm vào siêu thực nhưng trên hết họ không muốn rời bỏ cuộc đời để tìm
những cái hư ảo, những hình tượng siêu nhiên nhạt thếch. Họ say sưa bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy, họ
rình nghe niềm ý bâng khuâng.
Thơ Loạn đã dìu hồn
người tan cùng vạn vật. Được tan vào thiên nhiên là cái khao khát trú ẩn trong
cõi vĩnh hằng, là ước mơ được sống khi ý thức về cái chết đang đến từng ngày.
Thi sĩ kiếm tìm khắp không gian hương thơm đê mê của cuộc sống. Nếu được sống,
dù một phút nhỏ nhoi thôi họ vẫn yêu thương: Ta còn trìu mến biết bao người /Vẻ
đẹp xa hoa của một thời /Đầy lệ đầy
hương đầy tuyệt vọng/Ôi! Giờ hấp hối
sắp chia phôi( Hàn Mặc Tử). Đó không phải là tiếng kêu từ cõi chết, đó là
tiếng nói cất lên từ khát vọng sống để yêu thương. Những con người ấy đã sống
mãnh liệt và đầy đủ cuộc sống. Có thể có những lúc đau thương, luyến tiếc, hờn
giận chất đầy những nhà thơ Loạn đã xa lánh cõi trần tục ấy để đi tìm chút an
ủi ở cõi siêu nhiên, song thơ Loạn vẫn lấp lánh tình đời. Chất đời ấy đã kéo
thơ Loạn về mặt đất vững chãi, mặt đất quen thân của chính mình. Và cõi đời
trần tục ấy, con người đã hận đã yêu, đã quên đã nhớ đến khánh kiệt linh hồn.
Bên bờ vực thẳm của cái chết thi nhân đã kêu lên đau đớn sự luyến tiếc của thời
gian: Tôi khát vô cùng/Tôi riết thời gian trong năm tay/Tôi vo tiếc mến như vo lụa ( Hàn Mặc
Tử). Thời gian chảy mãi như sông trôi về với biển, đối với các nhà thơ Loạn
thời gian không là dòng sông êm dịu nhiều ghềnh, lắm thác, để từ trong nỗi đau
một sức sống mãnh liệt dâng trào, tung mình thành bọt trắng để hòa vào đất trời
cỏ cây. Có thể cuộc đời còn những vũng đau thương, những mối sầu vạn cổ… nhưng
với các nhà thơ Loạn nó vẫn là khúc nhạc
Nghê Thường, là giấc mộng ngàn đời để được sống, để được yêu thương. Thi sĩ
như thể trích tiên bị đày đọa ở cõi trời nhưng lại yêu thiết tha nơi đã mang
đến cho họ những nỗi đau đớn điên cuồng về tâm hồn và thể xác. Dù có trở lại
cõi trời thì họ cũng xót xa luyến tiếc: Đấy
là tất cả người anh tiêu tán/Cùng trăng
sao bàng bạc xứ say mơ/Cùng tình em
thiết tha như văn thơ/Ràng rịt mãi
cho đến ngày tận thế ( Hàn Mặc Tử).
Thơ Loạn là đối cực giữa
tình yêu trần thế và cõi siêu nhiên. Thật ra cõi siêu nhiên ở đây được ánh xạ
từ cõi thực, từ tình yêu thiết tha của con người đối với cõi thực và làm thăng
hoa nó, bao phủ lên nó sắc màu mộng ảo liêu trai tùy vào tư duy của người nghệ
sĩ. Nhưng trên hết, thơ Loạn cũng là những vần thơ của tâm hồn yêu đến cuồng
dại cuộc sống trần tục cõi đời đã nuôi lớn họ đã ôm ấp và cho họ một tâm hồn để
yêu để giận. Thơ Loạn vẫn ăm ắp tình người. Cõi siêu nhiên chẳng qua là cuộc
sống đã được những linh hồn nhạy cảm ấy hiểu đến tận cùng. Từ cái phi thường
trong cuộc sống đã thúc ép cái phi thường trong từ tưởng từ đó những vần thơ ra
đời đầy khát vọng và tình yêu. Thơ Loạn thể hiện những đối cực giữa khát khao
và tuyệt vọng. Thi nhân bước vào vườn tình ái với tất cả sự thèm muốn rạo rực: Anh tính ôm cầm lấy mắt mơ/ Lấy môi lấy má… lấy ngây thơ/ Để anh nút ớn mùi hương ấm/ Của một tình yêu giận hững hờ ( Bích
Khê) Bóng hằng trong chén ngả nghiêng/
Lả lơi tắm mát làm duyên gợi tình/ Sóng xao mặt nước rung rinh/ Lòng ta khát miếng chung tình từ lâu/ Uống đi cho bớt khô hầu/ Uống đi cho bớt cái sầu mênh mang/ Có ai nuốt ánh trăng ngàn/ Có ai nuốt cả bóng nàng tiên nga/ Đã thèm cái giấc mơ hoa (Hàn Mặc Tử).
Các nhà thơ Loạn yêu một cách điên cuồng đến rồ dại bải hoải cả chân tay nhưng
lại phải tự kiềm chế vì: Thưa tôi không dám si mê/ Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền (
Hàn Mặc Tử). Tình yêu đã làm cho thi nhân muốn được kề môi say ân ái, muốn ôm,
muốn uống. Tình yêu ấy khi thì như con sóng ngầm có lúc lại dâng trào mãnh
liệt: Khoan đã em, nép mình vào bóng lá/
Riết lấy anh cho chặt kẻo hồn bay (
Chế Lan Viên).
Tình yêu có lúc đẩy thi
nhân xuống vực thẳm tuyệt vọng nhưng cũng có lúc làm cho sự sống hồi sinh. Có
lúc tình yêu bỏ thi nhân đi để lại nỗi uất ức: Làm sao giết được người trong mộng/ Để trả thù duyên kiếp lỡ làng ( Hàn Mặc Tử). Thi sĩ bám riết lấy sự
sống lấy tình yêu để quên đi thực tại đau buồn. Chế Lan Viên tự ru mình bằng
tình yêu mộng ảo cùng Chiêm nương xinh đẹp, nhưng cũng nhanh chóng tuyệt vọng: Lời chưa dứt bóng đêm đã vụt biến/ Tình chưa nồng đã sắp phải phôi pha.
Khát khao để mà tuyệt vọng, tha thiết đến cuồng si để mà đớn đau đến rồ dại,
thi nhân thơ Loạn đã vượt qua ngưỡng bình thường mà vươn tới tình yêu tuyệt
đích: Hạnh phúc ngoài đời nhiều vẻ đẹp/
Em đừng bận bịu ái ân xưa/ Lòng anh chẳng muốn cho em phải/ Lẻ tẻ chân trời bóng nhạn thưa ( Bích
Khê).
Cái Tôi nội cảm cộng hưởng với cảnh
đời riêng, tâm thế sáng tạo riêng đã hình thành kiểu tư duy kỳ lạ của thơ Loạn.
Thơ Loạn ra đời dựa trên sự thăng hoa nghệ thuật của những nỗi đau, sự bung phá
những giới hạn, sự phân ly và hòa hợp những đối cực, sự hợp lưu của nghệ thuật,
tôn giáo và cuộc đời. Thế giới nghệ thuật trường thơ Loạn là ánh xạ đầy biến ảo
của những cái Tôi trữ tình đau thương và khát vọng./.
NGUYỄN
THỊ QUYÊN
No comments:
Post a Comment