Lần đầu tôi biết chị Bùi Kim Anh là một Noel nào đó ở Hà
Nội, anh Nguyễn Trọng Tạo rủ tôi tới nhà chị Phan Thị Thanh Nhàn chơi. Lạnh cắt
ruột, 2 anh em đi taxi tới, ôm theo một bó hoa tướng. Đến nơi thấy có thêm chị
Bùi Kim Anh, Bảo Chân. Ngồi quá 12h đêm thì giải tán.
Tôi biết thêm chị Bùi Kim
Anh là vợ anh Trần Mai Hạnh. Rồi vụ Năm Cam nổ ra, anh Hạnh vào vòng lao lý.
Rồi có một lần tôi "thấy" anh chị ở Huế, trong đêm thơ của anh Nguyễn
Duy và Mai Linh ở nhà "2 thằng trời đánh" Thanh Hải. Lúc này anh mới
ra tù. Thấy vì tôi ở xa nhìn vào và nghe nói có anh chị trong ấy. Vừa rồi đi dự
Liên hoan thơ Châu Á- Thái Bình Dương thì đàn đúm với chị và mấy bà chị Phan
Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát... Thấy các chị đều hiền lành, dễ thương.
Và hình như các chị cũng thấy tôi... dễ thương, hihi...
Hôm nay đọc bài này của chị Trần Thị Thắng, vợ anh Lê Quang Trang, nguyên là biên tập của báo Văn Nghệ, mới hiểu thêm chị và thương chị. Bên trong và phía sau người đàn bà nhỏ bé ấy là một nghị lực phi thường. Chao ơi, với bằng ấy biến cố mà chị vẫn như không, vẫn dịu dàng, vẫn đùa vui những ngày ở Hạ Long, và trước đấy nữa. Thì ra nó lặn vào trong, nó nén vào tận cùng tâm hồn người phụ nữ tài hoa và chung thủy này. Thêm luôn, chị là bà ngoại của bé Thiện Nhân, cậu bé lính chì dũng cảm ở Quảng Nam bị chó ăn mất chân và bộ phận sinh dục mà Mai Anh, con gái chị, đã nhận về nuôi và trải qua hàng chục ca phẫu thuật để cho cu cậu trở thành đàn ông. Cũng nói luôn, Mai Anh đã từng được tôi nhắc trong một bài trên blog này vì một bài in trên tạp chí Heritage, nhưng thôi chuyện đã qua.
May, chị có thơ để nâng đỡ mình, và cả nhà nữa.
Tôi bày tỏ sự chia sẻ và cảm phục chị ở entry này.
(Nhà thơ Văn Công Hùng)
Văn Công Hùng và các nhà thơ nữ |
Bùi Kim Anh, hai cuộc đời trong năm tập thơ
TRẦN
THỊ THẮNG
Chúng tôi quen vợ chồng Bùi Kim Anh từ lâu, khi anh chị còn ở cạnh hồ Hai Bà Trưng dưới Dốc Thọ Lão ở phố Lò Đúc, quận Hai Bà Trưng. Căn nhà chiều ngang chỉ có 2,5 m, nếu học sinh của cô giáo Kim Anh vào chơi thì con cô giáo ra bờ hồ dạo mát. Đi dạo chán chưa thấy học sinh về, chúng đành ngồi mà ngắm hồ , nhiều lúc đếm cả từng con cá bơi, chiếc lá rơi, mà nhà vẫn còn đông chật.
Tuổi thơ của những đúa trẻ bên hồ như vậy có tạo được bản lĩnh kiên trì chờ đợi không? cố đợi mặt trời rồi cũng có lúc sáng? Một lần Trần Mai Hạnh đi công tác xa về, anh mang đến báo Nhân Dân tặng gia đình tôi một gói mì chính. Cầm gói mì chính trong tay, tôi nói với Lê Quang Trang: “ anh chị ấy sinh ba con, có trai, có gái, nhưng cũng vất vả lắm”, nhà tôi ngồi thần người một lúc rồi đáp lại: “ giám sinh ba để nuôi trong thời khó khăn này quả là dũng cảm đấy”. Cô giáo Bùi Kim Anh dạy văn, với cái nghề dạy lứa học sinh 15, 16 tuổi, rất dễ nhạy cảm. Cô đã truyền bao kiến thức cho các em ra trường, những kiến thức văn học tưởng không giúp gì cho sự thành đạt trong công việc của con người, nhưng nó là mầm nhân bản giúp con người giám đi lên, giành chiến thắng vinh quang cho cuộc đời. 1995 khi tập thơ đầu tay của Bùi Kim Anh ra đời “ Viết cho mình”, chị khẳng định thêm một khuynh hướng viết về cái tôi bản thiện, viết về cuộc đời thật trong cái tôi bé nhỏ.
Vu vơ cho kiếp khốn cùng
Nào hay gió lạnh quá đông lại về..
( Vu vơ- Viết cho mình 1995)
Sang năm 1996 chị ra đời tập thơ thứ hai: “ Cỏ dại khờ”
(NXB Hội Nhà văn), tập thơ vẫn theo một định hướng riêng: viết cho chính mình,
cho bạn bè, mong chia sẻ với cuộc đời bằng suy nghĩ của mình
Giá có thể quay về cổ tích
Ước một lần không phải là mình
…xếp cuộc đời theo từng bước đặt
sướng- khổ, rủi – may
chẳng tại số trời
ước ba lần…
Trong thơ Bùi Kim Anh có lúc chợt đến, chợt đi, nên biên độ bài thơ không mấy khi dài, ý tưởng trong bài thơ gợi lên gọn gàng, thơ xinh xinh, đẹp đẹp. Rất nhiều nhà thơ có thể ôm cả vũ trụ, ôm cả vầng trăng trong thơ , trong tứ thơ, còn chị “ Nhặt trăng” cũng như nhặt thơ vậy
Thuyền thơ thả bến Tây hồ
Mây vơ vẩn gió hững hờ đợi ai
Tôi là một kẻ quăng chài
Buông câu để kéo một vài ý thơ
Tôi là một kẻ ngẩn ngơ
Bỏ nhà bỏ cửa lên chờ trăng lên
Giá có thể quay về cổ tích
Ước một lần không phải là mình
…xếp cuộc đời theo từng bước đặt
sướng- khổ, rủi – may
chẳng tại số trời
ước ba lần…
Trong thơ Bùi Kim Anh có lúc chợt đến, chợt đi, nên biên độ bài thơ không mấy khi dài, ý tưởng trong bài thơ gợi lên gọn gàng, thơ xinh xinh, đẹp đẹp. Rất nhiều nhà thơ có thể ôm cả vũ trụ, ôm cả vầng trăng trong thơ , trong tứ thơ, còn chị “ Nhặt trăng” cũng như nhặt thơ vậy
Thuyền thơ thả bến Tây hồ
Mây vơ vẩn gió hững hờ đợi ai
Tôi là một kẻ quăng chài
Buông câu để kéo một vài ý thơ
Tôi là một kẻ ngẩn ngơ
Bỏ nhà bỏ cửa lên chờ trăng lên
Quan niệm riêng làm thơ của Bùi Kim Anh rất rõ: có thể chị
không bao giờ khẳng định phải làm thơ, phải là nhà thơ, mà thơ mình tự đến với
nó và có lúc nó tự đến với mình. Chính quan niệm như vậy nên thơ của chị viết
thơ cho mình, mình dãi bày cùng bạn đọc. Tôi cho khuynh hướng này giúp người
viết gần với thơ, với người đọc , tìm trong đó có sự đồng cảm cùng tác
giả. Khi ra tập thứ ba: “Lối mưa”( 1999, NXB Quân Đội Nhân Dân), vẫn
một, khuynh hướng viết như vậy, nhưng thơ trong tập này đã chín hơn nhiều
trong những bài thơ viết cho đời
Cụ già như bà lão trong cổ tích
Dúm dó góc hồ Lần nữa đôi tay cắt gọt
Mụn vải tả tơi gió lật
… Những con búp bê nhem nhuốc
như những đứa trẻ bị bỏ rơi
những con búp bê như tuổi già lay lắt
…Có một cô bé nay thành người lớn
Ngăn tuổi thơ vẫn bày con búp bê bù rối
Xếp thành câu chuyện cổ ngày nay
(Bà lão bên hồ, trong tập Lối mưa ,1999)
Dúm dó góc hồ Lần nữa đôi tay cắt gọt
Mụn vải tả tơi gió lật
… Những con búp bê nhem nhuốc
như những đứa trẻ bị bỏ rơi
những con búp bê như tuổi già lay lắt
…Có một cô bé nay thành người lớn
Ngăn tuổi thơ vẫn bày con búp bê bù rối
Xếp thành câu chuyện cổ ngày nay
(Bà lão bên hồ, trong tập Lối mưa ,1999)
Phần viết cho mình, chị cũng bớt phần “vẩn vơ”, mà nhiều câu
thơ thực trong cái mơ của hiện thực
Đời còn gì để nối anh với em
Giữa hai đứa đâu là mơ là thực
Một con đò sang ngang chở đầy trách nhiệm
Các con là cầu nối chặt đôi ta
Đời còn gì để nối anh với em
Giữa hai đứa đâu là mơ là thực
Một con đò sang ngang chở đầy trách nhiệm
Các con là cầu nối chặt đôi ta
( Khỏang trống, trong tập Lối mưa, 1999)
Cùng với đề tài viết cho mình, viết về đời, chị tự do
tung tác ngôn từ trong thơ một cách mạnh dạn, tự nói với đời bao ý nghĩ
Ta làm thơ để tặng mình
Có ai mang bán chữ tình đi chơi
…Bắc thang lên chín tầng mây
Chọn bồng bềnh sắc để may áo dài
…Câu thơ gỡ rối linh binh
Bán không cho gió rập rình thổi đi.
Ta làm thơ để tặng mình
Có ai mang bán chữ tình đi chơi
…Bắc thang lên chín tầng mây
Chọn bồng bềnh sắc để may áo dài
…Câu thơ gỡ rối linh binh
Bán không cho gió rập rình thổi đi.
( Bán không cho gió ( cũng là tên tập thơ), 2005. NXB HNV)
Cả tập thơ này chị làm khi tai ương ập đến với gia đình, vậy
mà con người làm thơ vẫn cứng cỏi vượt lên số phận để có thơ, cho nên khi đã
định hướng viết cho mình, viết về đời thì trong hoàn cảnh nào Bùi Kim Anh vẫn
làm được thơ
Các nữ nhà văn (Bùi Kim Anh, thứ tư - trái qua) |
Em và anh gắn với nhau bởi những bất hạnh
Tai ương kéo đến suốt cuộc đời
Giá ta bỏ nhau lúc trẻ để nạn kiếp xé đôi
Nhưng số mệnh bắt cùng gánh chịu
Tai ương kéo đến suốt cuộc đời
Giá ta bỏ nhau lúc trẻ để nạn kiếp xé đôi
Nhưng số mệnh bắt cùng gánh chịu
Phải trời hay người cứ đoạ đày
Cho một chút đổ đầy oan nghiệt
Cho một chút đổ đầy oan nghiệt
…Hạnh phúc ít ỏi lạc giữa nợ trần
Kiếp trước là ai vay mà phải trả
Sống bao năm để đến chốn cùng
Nạn kiếp hôm nay biết ngày oan giải
Phải tại người người giơ tay cởi
Phải tại trời trời giáng phúc sinh.
Kiếp trước là ai vay mà phải trả
Sống bao năm để đến chốn cùng
Nạn kiếp hôm nay biết ngày oan giải
Phải tại người người giơ tay cởi
Phải tại trời trời giáng phúc sinh.
Khi đọc xong bài thơ này, tôi hình dung tác giả đã trải bao
thăng trầm cay đắng trong lúc chồng chị là Trần Mai Hạnh bị bước vào vòng lao
lý. Những ngày báo chí đưa vụ Năm Cam ra, Trần Mai Hạnh có bị đưa lên
báo. Nghề báo, một nghề nguy hiểm, nhưng cũng là nghề dễ có kẻ khác “đổ dầu vào
lửa”. Tôi đọc bài nói Trần Mai Hạnh đảo ngũ ở Trường Sơn ( người viết có một
ngày nào đi Trường sơn thời kháng Mỹ chưa?, nếu không đi thì “ dựa cột mà
nghe”). Không có giấy tờ cho ra Bắc, đố ai ăn được một bữa cơm trên đường giao
liên trở ra Bắc, sau đó lại nhập viện ở miền Bắc để điều trị là“ bệnh
binh”. Trong chiến tranh, nếu gặp địch, chúng tôi phải tự huỷ giấy tờ phương
tiện làm việc liên quan đến công việc, để bị bắt được là tù binh chiến
tranh là tốt nhất. Trong chiến đấu thì bốn người phục vụ một người, nghĩa là
đồng đội bị thương thì băng bó và giao cho hậu cần, chứ không phải là chúng tôi
phải vác đồng đội về trạm thương binh hay trạm y tế. Đường đi lúc đó là hậu cần
nắm, thuốc men là hậu cần nắm, còn chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ của mình.
Trong chiến đấu mà không biết nhiệm vụ chính của mình là gì ư? Sao lại buông
một câu vô trách nhiệm: “ bỏ đồng đội” . Tôi đọc một loạt bài về đồng nghiệp bị
nêu trên báo, tôi thấy rất nhiều điều bất ổn? Có phải “ta lại chặt tay ta” để
giải toả một tâm lý bất bình thường của dân chúng.
Ngày đi theo vụ Tùng Dương, công an đứng trên cầu Chương
Dương. Ở đây đã đưa tâm linh cả vào vụ án để cố buộc tội chết cho Tùng Dương,
và không khí dân chúng lúc đó rất ghét công an, nên khi sử tòa đành nghiêng về
công chúng chăng? vậy nếu nghiêng về công chúng thì Tùng Dương bị xử bắn. Chúng
tôi những nhà báo theo các phiên toà xử Tùng Dương, các cửa sổ phải đóng lại,
không có dân chúng ném cả đất, đá vào phòng xử. Khu phố Thợ Nhuộm cắt Hai Bà
Trưng , quần chúng đứng nghe đông chật cứng người.Tại sao chúng ta không giải
quyết tốt quan hệ dân chúng với ngành công an, để khi có chuyện xảy ra, chúng
ta đành mất một công an để an dân. Tôi theo vụ này từ đầu đến cuối và báo Văn
nghệ không một dòng một tin đưa vụ này vì bản thân tôi thấy không thoả đáng về
bản án tử hình cho Tùng Dương.
Sang vụ Năm Cam, tại sao lại có vụ Năm Cam nằm lâu trong Sài
Gòn như vậy? Và một số người đứng trong vòng lao lý nằm ở phía Bắc nhiều, và
toàn là những người bị vào vòng cương toả rất “vu vơ”. Ở đây có phải lại một số
người phải đi vào vụ điển hình để làm an lòng dân. Những người bị như vậy,
chúng ta có tính con cái họ ra sao? vợ họ ra sao, dòng họ cả đời tự hào
vì có con đi chiến đấu bỗng dưng rơi vào vụ này, và tôi nghĩ những con người
này còn “ ăn cây nào rào cây nấy”, họ không vì vậy mà lại bám theo một con
đường khác. Các con Bùi Kim Anh đang tuổi ăn học, khôn lớn, rất may các cháu
đều tự lập trong công việc, có chính kiến của mình, nhưng một lòng vì cha
mẹ, vì công việc. Bằng thơ chị viết cho con trai, con gái, cho cháu, phải giữ
những gì mà gia đình đã có. Thơ viết cho mình, cho con lúc này là mầm sống cho
họ vượt qua “ Và lịch trình xui trời xếp đặt. Tính vòng năm đặt ác
điểm dừng”( Em và anh, trong tập Bán không cho gió, NXB HNV 2005)
Con trai ơi hãy yên lòng ra đi
Mỗi sớm
Mẹ ở bên cha
Ta còn mãi mái nhà
( Sáng tháng 9, trong tập Bán không cho gió(2005)
Mỗi sớm
Mẹ ở bên cha
Ta còn mãi mái nhà
( Sáng tháng 9, trong tập Bán không cho gió(2005)
Những ngày lận đận ấy, chồng trong lao tù, con thì gọi đi bộ
đội, người làm thơ có đủ bản lĩnh để phân biệt: “ Tóc trắng nhuộm cho đen.
Để cuối đời tìm về đen trắng”( Sợi tóc, trong tập Bán không cho gió
( 2005) mà dặn con lên đường vì : “ Ta còn mãi mái nhà”. Năm 2007, chị
đã ra tập thơ thứ 5 cho mình, còn tập thơ thứ sáu: “ Nhốt thời gian” sắp
in. tập thơ “Lời buồn trên đá”( 2007) có những bài viết về con
gái bị bệnh ung thư. Khi tôi lên thăm chị thì hai mẹ con vừa đi khám bệnh về và
bác sỹ đã xác định cháu bị ung thư. Đứa con gái chăm học nhất nhà, học giỏi
nhất nhà . Khi cha mắc vào vòng lao lý, một mình cháu sinh con, tự kiếm tiền
mua sữa nuôi con, vừa theo học xong bằng thạc sỹ. Vậy mà cháu mắc bệnh nan y.
Tôi thương cháu, thương cho bạn thơ mấy năm nay sao lại vất vả thế hả trời.
Năm Nhâm ngọ tôi ốm gần đất xa trời, chị rảo thăm tôi và Bùi
Kim Anh nói: “ Sao tuổi Tý chúng mình năm nay lận đận! Mình thì ốm
thừa sống, thiếu chết, còn Kim Anh thì theo anh đi các nơi để anh còn chỗ vịn
vào gia đình mà chống chọi với tai hoạ ”. Rồi chị phải dời tôi để đi như
gió, vì bao việc dở dang đang chờ chị. Hôm nay nghe tin con ốm vậy, chị không
còn khóc, không giám khóc khi con gái có thằng khi cháu trai chưa đầy hai
tuổi. Người mẹ buồn về những gì đã đến với mình, con gái chị ( Hiền Anh
nói: “ mẹ ơi đừng khóc! mẹ ơi đừng buồn .Con biết bệnh con rồi, chỉ
lại dựa vào mẹ, làm khổ mẹ thôi. Nhưng mẹ, bố chẳng phải buồn làm gì, vì
dẫu sao bố mẹ còn có quá khứ hiện tại ,tương lai. Còn con không có một
thứ gì khi con ở tuổi hai bẩy”. Câu nói này chúng ta thấy thời chúng ta
sống qua nó đẹp, đẹp đúng với cái nghĩa của nó, nên có bị oan khuất chúng ta
không nỡ làm gì nó, sợ vỡ đi những giấc mơ đẹp đã đi qua. Nhưng cùng với những
khổ đau, thì thơ của Bùi Kim Anh càng lớn lên cứng rắn hơn, đọc càng súc động:
“ Những câu thơ không vớt được ý thơ. Những câu thơ không giải thoát được
người làm thơ. Những điều tồn tại không có mặt trong thơ Những điều không tồn
tại lại kết thành câu chữ ” ( Tự hoạ trong tập Lời buồn trên đá, 2007)
Giẫm lên sự thật như giẫm lên con gián
Giẫm lên sự thật như giẫm lên đám cỏ
Có một sự thật ngoài sự thật
Định vị
Anh buông tay em dò dẫm một mình
Giẫm lên sự thật như giẫm lên đám cỏ
Có một sự thật ngoài sự thật
Định vị
Anh buông tay em dò dẫm một mình
( Định vị trong tập Lời buồn trên đá( 2007)
Là nhà thơ, chị khoanh chính cho mình hai việc: Viết cho
mình, viết về đời, quan niệm sáng tác của chị quy về nhẹ nhàng như vậy nên thơ
chị nhiều khi tự nó khơi nguồn, không bị một rào cản nào vây quanh. Nên
có bài thơ đậm đà, đọc xong ta thấy vừa vui vừa buồn, bài thơ để lại trong ta
một chút vấn vương hay hay
Lúc này có cháu ở bên
Ngày không dài nữa muộm phiền lãng khuây
Nhìn qua ô cửa hàng cây
Đo sắc lá biết mùa thay sắc mùa
Ngày không dài nữa muộm phiền lãng khuây
Nhìn qua ô cửa hàng cây
Đo sắc lá biết mùa thay sắc mùa
Có cháu ở bên nô đùa
Chiều Sài gòn nắng cũng thưa thớt dần
Tiếng cười đuổi theo gót chân
Đêm không mộng ác để gần ban mai…
Chiều Sài gòn nắng cũng thưa thớt dần
Tiếng cười đuổi theo gót chân
Đêm không mộng ác để gần ban mai…
( Nhớ cháu trong tập Lời buồn trên đá (
2007)
Năm tập thơ của cùng một tác giả như sống hai cuộc đời khác
nhau, ba tập đầu chị viết hiền lành, thơ ngắn, có tứ xinh xinh. Sang hai tập
thơ gần đây, bao lo toan, bao vất vả, bao oan ức vào thơ chị làm câu thơ mạnh
mẽ lên, súc tích lên và thật gần cuộc đời hơn. Để khẳng định điều trên,
tập thơ : “Bán không cho gió” được Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật trao
giải hàng năm, chị không đến nhận. Tác giả coi thơ của mình là viết cho mình và
viết về đời “ Câu thơ em viết cho em. Cởi ra xa xót vò thêm nát nhàu”
( Cho anh và cho em, tập Bán không cho gió). “ Tôi là một kẻ quăng chài.
buông câu để kéo một vài ý thơ” ( Nhặt trăng, tập Cỏ dại khờ). “ Ta làm
thơ để tặng mình. Có ai đem bán chữ chơi tình đi” ( Tự thoại II, tập
Lối mưa ( 1999) . Tất cả những tuyên ngôn về thơ của mỗi tập cũng có hoàn cảnh
khác nhau. Nếu vậy thơ của chị có đa thanh không? cũng chỉ là một Bùi Kim Anh,
một tác giả thơ thiên về chữ thiện cho mình, cho đời. Nhưng như chị nói : “ cái
tuổi Mậu tý chúng mình sao khổ cách này cách nọ nhỉ? Thắng thì ốm lay lắt không
khỏi, còn mình lắt lay với cuộc đời mà không cởi được ra”.
Một nhà thơ nữ điềm tĩnh , chịu mọi bất hạnh giáng xuống đầu, vậy mà sức làm thơ của chị càng mạnh mẽ lên càng hay lên đó là gì? đó là phẩm chất nhà giáo trong con người làm thơ, tính nhân bản trong con người làm thơ, trong thơ của chị. Nhân ngày gần đây anh Phạm Tiến Duật mất, Chị gọi điện cho tôi nói những ngày dạy học sinh những bài thơ của anh, đến bây giờ chị vẫn thấy hay, anh Phạm Tiến Duật phải xứng đáng giải Hồ Chí Minh vì sức lan toả thơ anh rất mãnh liệt, anh có nhiều bài thơ hay và đẹp và một khuynh hướng mới mở ra cho thơ chống Mỹ, anh xứng đáng được nhận giải thưởng trên.
Đó là cứ xì xào với nhau liệu có được gì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật không? tôi hỏi chị như vậy!. Chị nói nếu có được nói mình sẽ nói như vậy, nếu bảo viết vào thành ý kiến mình cũng viết. Nhưng có ai chú ý tới ý kiến của anh em trong giới, mà chỉ một số đến chọn, đến bầu giải nọ, giải kia, có khi cảm tính thì sao? bàn về văn học chắc còn nhiều điều đáng bàn, nhưng tình trạng dàn hàng ngang để tiến, khi dàn hàng, có người láu còn nhô lên trước, chẳng có gì công bằng trong nghệ thuật, chỉ có lòng người viết với trời, với mình, với bạn đọc.
Cách an ủi cuối cùng của chị là vậy. Chị có mạnh mẽ lên trong thơ ca của mình , giám sống hai con người trong năm tập thơ , Điều đó không phải ai cũng làm được như chị. Phải cảm ơn gì đây? thơ hay người làm thơ. Người bạn đồng tuổi, đồng môn, tôi cúi đầu thán phục cả hai!.
(2009)
(Nguồn: http://vanconghung.blogspot.com/)
Một nhà thơ nữ điềm tĩnh , chịu mọi bất hạnh giáng xuống đầu, vậy mà sức làm thơ của chị càng mạnh mẽ lên càng hay lên đó là gì? đó là phẩm chất nhà giáo trong con người làm thơ, tính nhân bản trong con người làm thơ, trong thơ của chị. Nhân ngày gần đây anh Phạm Tiến Duật mất, Chị gọi điện cho tôi nói những ngày dạy học sinh những bài thơ của anh, đến bây giờ chị vẫn thấy hay, anh Phạm Tiến Duật phải xứng đáng giải Hồ Chí Minh vì sức lan toả thơ anh rất mãnh liệt, anh có nhiều bài thơ hay và đẹp và một khuynh hướng mới mở ra cho thơ chống Mỹ, anh xứng đáng được nhận giải thưởng trên.
Đó là cứ xì xào với nhau liệu có được gì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật không? tôi hỏi chị như vậy!. Chị nói nếu có được nói mình sẽ nói như vậy, nếu bảo viết vào thành ý kiến mình cũng viết. Nhưng có ai chú ý tới ý kiến của anh em trong giới, mà chỉ một số đến chọn, đến bầu giải nọ, giải kia, có khi cảm tính thì sao? bàn về văn học chắc còn nhiều điều đáng bàn, nhưng tình trạng dàn hàng ngang để tiến, khi dàn hàng, có người láu còn nhô lên trước, chẳng có gì công bằng trong nghệ thuật, chỉ có lòng người viết với trời, với mình, với bạn đọc.
Cách an ủi cuối cùng của chị là vậy. Chị có mạnh mẽ lên trong thơ ca của mình , giám sống hai con người trong năm tập thơ , Điều đó không phải ai cũng làm được như chị. Phải cảm ơn gì đây? thơ hay người làm thơ. Người bạn đồng tuổi, đồng môn, tôi cúi đầu thán phục cả hai!.
(2009)
(Nguồn: http://vanconghung.blogspot.com/)
No comments:
Post a Comment