9h00’
sáng 9/3/2012, tại Thư viện Hà Nội, Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ chức Lễ trao giải
thưởng và kết nạp hội viên năm 2011. Điểm mới năm nay là: Đây là giải thưởng đầu
tiên của nhiệm kỳ XI (2011 – 2015, hơn nữa năm nay không tổ chức tại 19 Hàng Buồm
như thông lệ. Trong báo cáo tổng kết giải thưởng văn học chủ tịch Hội cũng đã
thừa nhận: Năm nay thời gian trao giải bị chậm lại là do khuyết điểm của Chủ tịch
Hội, nhưng giải năm 2012 sẽ được xét và trao đúng hạn. Văn chương + giới thiệu
với bạn đọc toàn văn báo cáo.
NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA SÁNG TẠO VÀ NHÂN VĂN
(Báo cáo tổng kết giải thưởng văn học 2011)
Chủ tịch Hội Phạm Xuân Nguyên nhận khuyết điểm vì muộn trao giải |
Giải thưởng văn học hàng năm của Hội Nhà văn Hà Nội (HNVHN) bắt đầu tạo được tiếng vang và uy tín trong văn giới và công chúng từ nhiệm kỳ X (2005-2010). Tiếng vang từ phẩm chất nghệ thuật của phần lớn tác phẩm được trao và từ chất lượng của cách trao giải.
Giải được xét cho các tác phẩm xuất bản từ
1/7 năm trước đến 30/6 năm sau nhằm cập nhật được nhanh nhất các sách mới. Giải
được trao chỉ căn cứ vào tác phẩm. Mỗi bộ môn (văn, thơ, dịch thuật, phê bình)
chỉ chọn trao một cuốn, không chọn được thì bỏ trống, không trao gượng ép. Đối
tượng được tham gia dự giải là sách của các nhà văn hội viên HNVHN, sách của
các nhà văn ngoài Hội sống trên địa bàn Hà Nội, sách về Hà Nội của các nhà văn
cả nước – cả ba đối tượng được xét bình đẳng với nhau, dựa vào chất lượng tác
phẩm. Hội đồng chung khảo gồm toàn bộ Ban chấp hành Hội và chủ tịch bốn hội đồng
chuyên ngành, các thành viên Hội đồng chung khảo không tham gia dự giải.
Giải thưởng văn học năm 2011 của HNVHN là giải
đầu tiên của nhiệm kỳ XI (2011 – 2015). Theo thông lệ giải được xét và trao vào
ngày giải phóng thủ đô 10/10. Năm nay thời gian trao giải bị chậm lại là do
khuyết điểm của Chủ tịch Hội, nhưng giải năm 2012 sẽ được xét và trao đúng hạn.
Quy chế giải thưởng văn học của HNVHN nhiệm kỳ XI vẫn kế thừa thành quả của nhiệm
kỳ trước để bảo đảm giữ vững và phát huy uy tín của giải đã xác lập được những
năm qua.
Cuộc họp của Hội đồng chung khảo giải thưởng
văn học HNVHN năm 2011 đã diễn ra ngày 28/2/2012 tại trụ sở 19 Hàng Buồm. Tham
gia cuộc họp có:
- Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, Chủ
tịch Hội, Chủ tịch Hội đồng chung khảo
- Nhà thơ Nguyễn Sỹ Đại, Phó chủ tịch Hội
- Nhà thơ Dương Kiều Minh, Phó chủ tịch Hội
- Nhà thơ Bằng Việt, Ủy viên BCH
- Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, Ủy viên BCH
- Nhà thơ Bùi Việt Mỹ, Ủy viên BCH
- Nhà văn Lê Minh Khuê, Chủ tịch Hội đồng văn
xuôi
- Nhà thơ Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch Hội đồng
thơ
- Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp, Chủ tịch Hội
đồng Lý luận Phê bình
- Dịch giả Đoàn Tử Huyến, Chủ tịch Hội đồng dịch
thuật
Căn cứ vào sự xét chọn của các hội đồng
chuyên môn và sự giới thiệu, đề nghị của các ủy viên BCH, Hội đồng chung khảo
đã thảo luận và thông qua danh sách chung khảo các tác phẩm xét giải thưởng văn
học HNVHN năm 2011 gồm có:
Văn
xuôi:
- Những ngã tư và những cột đèn, tiểu thuyết
của Trần Dần, nxb Hội Nhà văn.
- Đội gạo lên chùa, tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh, nxb Phụ Nữ.
- Kín, tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, nxb
Văn Học.
Thơ:
- Những kỷ niệm tưởng tượng, tập thơ của
Trương Đăng Dung, nxb Thế Giới.
- Phim đôi – Tình tự chậm, tập thơ của Vi
Thùy Linh, nxb Thanh Niên.
- Lúc ấy& bằng ấy, tập thơ của Tấn Phong,
nxb Văn Học.
Phê
bình:
- Đánh đường tìm hoa, tập tiểu luận của Nguyễn
Minh Thái, nxb Văn hóa – Văn nghệ TP HCM.
- Suy tưởng, giấc mơ, viết..., tập phê bình của
Khánh Phương, nxb Hội Nhà văn.
Dịch thuật:
Dịch thuật:
- Olga Berggolts của tôi, Thụy Anh biên khảo
và dịch từ nguyên bản tiếng Nga, nxb Trẻ.
- Các người khắc biết tay tôi, tiểu thuyết của
nhà văn Ba Lan Katrzyna Grochola, Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan,
nxb Hội Nhà văn.
Sau khi nghe các chủ tịch hội đồng chuyên môn
phân tích, đánh giá từng tác phẩm được chọn, các ủy viên Hội đồng chung khảo đã
trao đổi nhận xét về từng tác phẩm, sau đó tiến hành bỏ phiếu kín. Kết quả giải
thưởng HNVHN năm 2011 đã thuộc về các tác phẩm:
- Những ngã tư và những cột đèn, tiểu thuyết
của Trần Dần (9/10 phiếu)
- Những kỷ niệm tưởng tượng, tập thơ của
Trương Đăng Dung (7/10)
- Olga Berggolts của tôi, Thụy Anh dịch
(10/10).
Có thể nói, ba tác phẩm đạt giải thưởng văn học
năm 2011 của HNVHN đều có điểm đặc biệt.
Tiểu
thuyết Những ngã tư và những cột đèn
(NTCĐ) của Trần Dần (1926-1997) đặc biệt ở chỗ là nó được viết ra từ 45 năm trước.
Đó là vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần khi đang trong hoàn cảnh hết sức
ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi
thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân
thời Pháp sau ngày tiếp quản thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi
về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Nếu an phận, viết theo
lối trả bài, nhà văn dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và
quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông, người coi nhân cách nhà văn là
văn cách, đã không làm thế. Trần Dần là nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng
câu chữ hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông,
bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực
tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết NTCĐ. Năm 1988 bản thảo được trả lại
tay nhà văn, ông có sửa chữa, nhưng phải đến 2011 cuốn sách mới được ra đời. Và
lập tức nó được đón nhận bằng những lời đánh giá cao, được coi là một sự kiện
văn học trong năm. Nội dung tiểu thuyết NTCĐ không phải chỉ là nhật ký của
anh ngụy binh Dưỡng vì nó không được trình bày trực tiếp mà thông qua sự đọc, sự
bình luận, suy ngẫm của anh nhà văn. Anh nhà văn đọc nhật ký của Dưỡng để viết
tác phẩm của mình và cũng như nhân vật của mình, anh bị mắc kẹt trong thời
gian, lẫn lộn ngày tháng. Có thể nghĩ anh nhà văn đó là chính tác giả, và quá
trình anh ta đọc nhật ký của Dưỡng và gặp gỡ các nhân chứng quanh Dưỡng để viết
tác phẩm cũng chính là quá trình Trần Dần tìm cách giải bài toán văn chương của
mình.
Như vậy, cuốn tiểu thuyết NTCĐ còn là tiểu
thuyết nói về cách viết một tiểu thuyết. Ở đây không phải câu truyện kể làm nên
nội dung, mà là cách kể câu truyện, hay hình thức - đó cũng chính là nội dung.
Một điểm mới khác của NTCĐ là cách Trần Dần “chơi” ngôn ngữ và nhịp điệu. Ông
đã cấp cho lời văn tiểu thuyết phẩm tính thơ theo kiểu Trần Dần, nhờ đó trong một
dung lượng nhất định của sách, nghĩa của từ ngữ và ý nghĩa của nội dung được
tăng lên, đưa lại cho người đọc “khoái cảm văn bản” (Le plaisir du texte – R.
Barthes). Chính cái viết đó đã tạo nên sức ám ảnh của tâm trạng nhân vật, thể
hiện được quá trình băn khoăn ở giữa “những ngã tư và những cột đèn” của con
người bị lâm tình thế, mặc dù đoạn kết tác phẩm nhà văn đã viết khác đi. Một cuốn
tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc
lại vẫn thấy mới mẻ, đó là NTCĐ. Giải thưởng HNVHN 2011 trao cho NTCĐ là khẳng
định một cá tính sáng tạo độc đáo, là đề cao một tác phẩm có lối viết khác lạ,
là kêu gọi sự đổi mới nghệ thuật phải trở thành một bản năng thường trực trong
mỗi người viết.
Tập thơ
Những kỷ niệm tưởng tượng (NKNTT) của Trương Đăng Dung đặc biệt ở chỗ đây
là tập thơ đầu tay của một nhà nghiên cứu lý luận thuộc dạng hàn lâm hiếm hoi
trong ngành khoa học văn học ở nước ta. Trương Đăng Dung đã từng dịch Truyện Kiều
ra tiếng Hungary khi còn là lưu học sinh và đã làm thơ từ lâu, ngay bài thơ lấy
tên chung cho tập này là đã được viết ra từ gần ba mươi năm trước và in trên một
tạp chí thơ ở Budapest. Thời gian qua, khi thơ anh xuất hiện nhiều hơn trên các
báo chí, người đọc đã bắt đầu chú ý đến một giọng thơ mới và đẹp.
Cho đến khi tập NKNTT được xuất bản vào tháng
6/2011 thì lập tức thơ Trương Đăng Dung gây ra được một hiệu ứng thơ mạnh
với nhiều bài viết (18 bài trong khoảng nửa năm) của các nhà thơ, nhà phê bình
đi sâu phân tích, khám phá trong cùng một giọng khẳng định và khen ngợi. Đó quả
là một điều hiếm thấy trong đời sống thơ nước ta hiện nay. NKNTT là tiếng thơ
trĩu nặng cảm xúc suy tư về tồn tại nhân thế trong dòng thời gian chảy trôi của
kiếp nhân sinh ngắn ngủi. Có thể coi “trôi” và “kiếp nhân sinh ngắn ngủi” là từ
khóa của tập thơ này. Từ cái sống của mình và cái sống của nhân quần, nhà thơ
nghiệm sinh về lẽ vô thường của cuộc đời, về những ảo ảnh đời người, về những
đường chân trời chưa tới và những bức tường ngăn cách, chia rẽ, biệt lập trong
cõi nhân gian, trong mỗi con người.
Thơ-thời-gian, Thơ-tư-tưởng, đó là những tên
gọi đã được nêu lên để định danh thơ Trương Đăng Dung ở ngay tập đầu này. Đó là
một thứ thơ mang nỗi buồn sâu lắng của sự trầm tư triết học về tồn tại và bản
thể, về hiện thế và hư vô. Những câu thơ, những bài thơ giàu chất suy tưởng
trong mạch cảm xúc tầng sâu được thể hiện bằng từ ngữ có khả năng gợi mở, phát
lộ ý niệm và tư tưởng. Có thể nói, NKNTT đã trở thành “vật chứng trước thời
gian” của Trương Đăng Dung, nghĩa là thơ đã hiện hữu hóa ý thức sống của nhà
thơ, biến cái sống tự nhiên thành một cái sống được nhận thức, do đó đối với
Trương Đăng Dung có thể nói như R. Descartes: Tôi làm thơ, vậy tôi tồn tại. Giải
thưởng trao cho NKNTT là sự khẳng định một tập thơ hay, một giọng thơ mới lạ, một
sáng tạo thơ đích thực và cũng khẳng định một hướng đi tốt đẹp của thơ.
Tuyển
thơ dịch mang tên Olga Berggoltz của tôi (OBCT) đặc biệt ở chỗ đây là tập tuyển đầu tiên bằng tiếng
Việt của nữ nhà thơ Nga-Xô Viết đã khá quen thuộc với độc giả yêu thơ Việt Nam
lâu nay. Có lẽ, trong nền thơ xô viết trước đây, Olga Berggoltz không hẳn là
gương mặt thơ nổi trội, nhưng khi đến Việt Nam bà đã trở thành một nhà thơ được
truyền tụng và yêu mến. Vẻ đẹp tâm hồn, nỗi buồn cuộc sống, sự cô đơn thân phận
của người phụ nữ Nga, của người đàn bà làm thơ, của một con người dám sống và
biết sống cho mình và cho những điều mình quý trọng, đã làm nên một gương mặt của
Olga Berggoltz trong lòng độc giả Việt Nam, dẫu thơ bà chưa được dịch nhiều,
chưa được in ra thành tập. Giờ đây, thơ Olga Berggoltz đã lần đầu tiên xuất hiện
trong tiếng Việt bằng một tập sách riêng với đầy đủ chân dung, tiểu sử, và thơ
qua những chặng đường số phận của bà. Người đồng hành của Olga Berggoltz trên đất
Việt là dịch giả Thụy Anh, người đã được thơ bà quyến rũ, dẫn dắt đến với cuộc
đời bà để sẻ chia cuộc sống, đồng cảm tâm hồn, khát khao tình yêu.
Thụy Anh học ở Nga, nắm vững tiếng Nga, làm
thơ và dịch thơ, nhưng trên hết và trước hết, chị đến với Olga Berggoltz bằng sự
đồng điệu. OBCT, như vậy, là của Thụy Anh, khi chị đã dày công đọc các sách của
Olga và về Olga để viết nên một bài tiểu luận đầy đủ, sâu sắc về nhà thơ “cây
ngải đắng của nền thơ ca xô viết”, khi chị đã nhập thân hòa mình vào từng câu
chữ tiếng Nga thơ Olga, lắng nghe và cảm nhận từng mạch đập tâm hồn của nhà thơ
để đưa lại những bài dịch sát hợp và tinh tế. Những bài thơ như những trang đời
lật ra cho người đọc thấy một nhà thơ chấp nhận số phận mình cùng số phận đất
nước, nhân dân, kiêu hãnh trong cô đơn, không khuất phục khổ đau, giữ vững phẩm
giá làm người. Dịch giả không chỉ cố gắng truyền đạt tinh thần của bài thơ, chị
còn giúp người đọc biết hoàn cảnh bài thơ ra đời, để cùng chị thấu hiểu hơn tâm
trạng cảm xúc của nhà thơ.
Trao giải với số phiếu tuyệt đối cho tuyển
thơ OBCT ra đời vào dịp kỷ niệm 100 năm sinh nữ thi sĩ, HNVHN đánh giá cao công
phu dịch thuật của dịch giả Thụy Anh và cũng ghi nhận sự trở lại của những giá
trị văn học Nga-Xô Viết từ một lớp người dịch mới. Giải vừa được công bố đã
ngay lập tức có tiếng vang đến nước Nga. Tiến sĩ ngôn ngữ học Kraevskaya Natalia
Mikhailovna, phó giáo sư trường đại học Quốc tế Kherson (Ukraine), phó giáo sư
khoa Văn hóa các nước phương Đông thuộc trường đại học tổng hợp nhân văn quốc
gia Nga viết: “Việc cuốn sách của nữ nhà văn và dịch giả trẻ Thụy Anh “Olga
Berggoltz của tôi” được Hội nhà văn Hà Nội quan tâm và đánh giá cao là một sự
kiện đáng chú ý. Trong thời đại thực dụng của chúng ta, khi phần lớn giới trẻ
thường chỉ nghĩ đến cơm áo gạo tiền và những nhu cầu thiết thân, tìm chỗ
học, kiếm việc làm lương khá, mơ hàng hiệu và xe xịn… thì trong các hiệu sách
Việt Nam bỗng nhiên xuất hiện một cuốn sách thơ của nữ sĩ Nga (Xô Viết) Olga
Bergggoltz, người mà ngay cả ở quê hương mình cũng chưa được đánh giá đúng mức.
Vào lúc thi ca nghiêm túc đang dần biến mất
khỏi đời sống văn hóa tinh thần của giới trẻ thì tiến sĩ giáo dục học Thụy Anh,
người tốt nghiệp trường đại học sư phạm Moskva, lại cho xuất bản tập thơ dịch
các tác phẩm của nữ sĩ người Nga chủ yếu được sáng tác từ những năm giữa thế kỷ
trước, kèm theo những tư liệu lưu trữ và những phân tích lý giải của mình. Và
cuốn sách đã có được phản hồi tích cực từ phía độc giả. Đối với tôi, sự kiện ấy
là bằng chứng cho cuộc sống văn hóa tinh thần ở tầng nấc cao của người Việt và
là tia hy vọng rằng, đằng sau sự hào nhoáng của cuộc sống tiêu dùng thời nay vẫn
có một tầng sâu văn hóa khác.”
Ba tác phẩm được giải, mỗi cuốn đặc biệt theo
cách của mình, nhưng đều có chung những giá trị của sáng tạo và nhân văn. Sáng
tạo trong nghệ thuật, nhân văn trong tư tưởng. Đọc chúng, ta được sống trong
chiều sâu của những trạng thái nhân thế hiện ra ở những phận người. Đọc chúng,
ta thấy văn chương vẫn luôn đồng hành cùng con người trong cõi nhân gian bé tí
này một khi đó là văn chương đích thực. Giải thưởng văn học 2011 của HNVHN bỏ
trống hạng mục lý luận phê bình. Hai tập sách vào chung khảo bộ môn này đã
không có đủ số phiếu để đạt giải. Điều này cho thấy, lý luận phê bình luôn luôn
là một lĩnh vực khó, đòi hỏi người làm nghề này không chỉ phải đọc rộng hiểu
sâu, vừa cụ thể vào từng tác giả tác phẩm, vừa bao quát cả một thời kỳ, giai đoạn,
mà còn phải nắm vững và thao tác tốt các lý thuyết văn học, để có được những
bài viết chuyên sâu, học thuật. Đó là điều chúng ta có thể hy vọng và chờ đợi ở
lực lượng phê bình lý luận văn học trẻ hiện nay.
Giải thưởng văn học 2011 của HNVHN đã chọn được
những tác phẩm xứng đáng để trao. Công lao này trước hết thuộc về các tác giả
đã lao động sáng tạo chữ nghĩa, văn chương, không phải cốt để được giải, mà cốt
để làm cho con người và cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn. Chúng ta biết ơn họ.
Công lao này thuộc về nxb Hội Nhà Văn, nxb Trẻ,
nxb Thế giới, Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam đã đưa ra thị trường ba tác
phẩm văn học có giá trị cao. Chúng ta cám ơn họ. Công lao này cũng có phần đóng
góp của các phương tiện thông tin đại chúng sớm giới thiệu các tác phẩm văn học
đáng chú ý, và luôn theo sát, đồng hành cùng HNVHN trong việc trao giải thưởng
hàng năm cũng như các hoạt động khác. Chúng ta cám ơn họ. Trên hết và trước hết,
Hội Nhà văn Hà Nội xin chúc mừng gia đình nhà văn Trần Dần, nhà thơ Trương Đăng
Dung, dịch giả Thụy Anh đã được nhận giải thưởng văn học 2011 của HNVHN bằng những
tác phẩm xuất sắc. Chúc gia đình nhà văn Trần Dần sẽ tiếp tục cho công bố những
tác phẩm còn trong di cảo của ông để chân dung sự nghiệp của nhà văn ngày càng
đầy đủ, trọn vẹn. Chúc nhà thơ Trương Đăng Dung vững bước hai chân nghiên cứu –
làm thơ và thơ ông ngày càng hay hơn. Chúc dịch giả Thụy Anh sẽ đi sâu vào công
việc dịch thuật, có thêm những bản dịch hay các tác phẩm văn học Nga trước đây
và hiện nay, cũng như tiếp sức nối liền nhịp cầu văn học Nga-Việt từng có truyền
thống tốt đẹp.
Mong rằng giải thưởng này sẽ có sức lan tỏa
và tác động tốt đến sự phát triển văn học ở thủ đô và trong cả nước. Từ đây
chúng ta chờ đợi giải thưởng ở những năm tiếp theo sẽ tiếp tục có được những
tác phẩm xứng đáng để trao.
Xin chúc mừng và cám ơn tất cả quý vị và các
bạn!
Hà Nội 3.2012
PHẠM XUÂN NGUYÊN
No comments:
Post a Comment