*
Knock three times! Tôi tin rằng tuyệt đại đa số chúng ta,
trước khi cầm bút, đã gõ, không phải ba mà n lần vào hư vô câu hỏi: Thơ
là gì? Câu hỏi không khó chỉ có đến n câu trả lời không giống nhau,
thậm chí đối nghịch. Một mình Lawrence Ferlinghetti đã có 52 định nghĩa. Ở đây, xin tạm khoanh vùng một vài
định nghĩa làm tiền đề từ đó phóng chiếu cái hay, dở của thơ.
1.
Ngôn ngữ là chất liệu đầu tiên của thơ nên Thơ là thế giới của chữ (mot)
và nghĩa (sens de mot). Một chữ đơn lẻ không làm thành thơ. Bài thơ ngắn
lắm cũng là loại haikâu (kiểu Lê Đạt) hay Haiku của Nhật (17 âm tiết). Đó phải
là những con chữ kết tụ thành bầy đàn và phái sinh ý
nghĩa. Theo đó, bài 39 động từ của Đinh Linh không hẳn là một bài thơ đúng nghĩa? Tôi
rất đồng cảm với những phân tích của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng trong Đọc một bài thơ như thế nào. Chữ, tự
nó là những lóng xương hóa thạch, chỉ được phục sinh khi nhà thơ đặt để
chúng trong một mối quan hệ khắng khít đồng chuyển, đồng hiện. Tháp và cổ
nếu chia lìa thì trơ ra, xa lạ nhưng tháp cổ lại đầy mềm mại của một
liên tưởng. Theo Tuổi trẻ Online, Nguyễn Danh Lam lang thang tình cờ gặp hai
câu đề từ của Đặng Hải Yến treo trên blog đã kêu lên “Thật ấn tượng!”
Khi em cởi áo trước mặt trời rất lạ
Thơ anh ngủ ngực em trên lá hoa
Tôi cũng ấn tượng mặc dù cặp đề từ không có một từ nào mới và lạ, thậm chí
quá quen thuộc với áo, mặt trời, ngủ, lá hoa nhưng chính là sự kết hợp
hài hòa của những con chữ đã ru ta vào một cõi dịu dàng. Câu thơ nói đến hoạt
động cởi áo, ngủ mà không một chút sex. Nếu không khéo tay đan móc, tình
huống thơ sẽ xấu đi nhiều lần. Tương tự, câu thơ của Thanh Thảo cũng đã phát
sáng trên vùng biển mê hoặc với ngọn sóng thiếu nữ: Biển ơi / Người mê hoặc
tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ / những đường cong chói sáng / tự xóa bỏ mình. Ẩn
dụ đã phát huy tác dụng, khơi gợi một trường liên tưởng lạ lẫm. Trường hợp Đặc
sản ruồi của Phan Nhiên Hạo khác hơn một chút:
Chúng ta đang học cách nuôi ruồi
trên bãi rác lịch sử
Định ngữ lịch sử làm bãi rác thành thơ, khái quát đuợc
bao nhiêu nghĩ suy của thời đại. Những con chữ thô kệch, đời thường đã bay lên.
Cho nên cộng hợp và phái sinh là hai thuộc tính của từ trên bình
diện đa chiều của thơ. Những con chữ lạ hóa, trong một kết hợp độc
đáo làm thơ phân biệt với văn xuôi, cho thơ sức mạnh bí ẩn, sự quyến rũ lạ
kỳ, là tiếng nói bất thoả hiệp chống lại sự lãng phí của từ ngữ và sự thừa
thãi điên rồ của ấn phẩm, là cái gì hiện hữu giữa những hàng chữ (Ferlinghetti).
Các biện pháp tu từ là tối quan trọng nhưng nếu người thợ gốm không khéo tay,
sản phẩm sẽ không còn hình thù gì để nhận diện. Tôi rất thích Vỉa từ của
Nguyễn Hữu Hồng Minh, nhưng Lỗ thủng lịch sử của anh cuối cùng chỉ là
những xác chữ trương phình được treo lên dù là rất hậu hiện đại trong thi pháp
giễu nhại. Lê Thị Thấm Vân trong Căn phòng 2.2 - âm thanh
sóng hình như đang giới thiệu của chứ không khoe chữ-nghĩa của một nhà thơ.
Nhóm Ngựa Trời với Dự báo phi thời tiết cũng có một số bài thơ mà ngữ
ngôn cứ muốn căng phồng nhảy cẫng lên trong cơn động dục, rất bạo loạn thời a
còng nhưng tôi không nghe được bất kỳ vọng âm nào; nên phải chăng là sự thừa
thãi điên rồ? Tuy thế, hai bài thơ của Nguyễn
Đình Chính với tôi hoàn toàn không hề là hai bãi thơ (chữ của
Nhất Vương). Ở đây, có giao hợp, bắn đạn tinh trùng, có cả cục cứt
nát, nhưng trong bản hợp âm của những con chữ tưởng chừng bát nháo giễu
nhại đó, tiếng nấc lên sùi sụt của nhân văn là âm chủ đạo. Cho nên con âm tự nó
là sinh thể sống động nói chuyện với tri âm (nhà thơ và người đọc). Các từ phân,
rác, nịt ngực, băng vệ sinh, các bộ phận cơ thể… đặt để ở đây là dung tục,
thô thiển, tầm thường, đặt chỗ kia lại phát sáng, tỏa hương.
Vấn đề thứ hai của chữ và nghĩa đang phải
lên tiếng báo động trong thơ trẻ đương đại là việc lặp lại nhàm và thừa
các con chữ mà người ta đã vắt đến chỉ còn bã (bã mía chữ). "Lỗ
rỗng", "Mùa căng", "Nẻ", "Vọng kinh" (Các tựa bài thơ của Phương Lan trong Nhóm
Ngựa Trời) phải chăng ở đây là tiếng nói của
thời thượng, một thứ ngôn ngữ ước lệ để các tác giả ảo tưởng khoác cho mình cái
áo màu ngũ sắc của Hậu hiện đại hay Hậu Nữ quyền luận? Vấn đề liều lượng của
các loại ngôn ngữ (bóng bẩy, dung tục), rồi việc dụng công đẽo gọt có lẽ cũng
cần phải bàn nhiều. Vì nói như Inrasara, đại ý, nếu chỉ làm mới thơ bằng cách
đem vào quẩn quanh các ngôn từ đời thường dung tục thì thơ sẽ nghèo đến kiết
xác và kết thúc tắc tị. Ngược lại, trong tâm thức thời đại hôm nay mà chỉ ngủ
mơ với các loại từ kiểu phong hoa tuyết nguyệt, mây, mưa, mỹ nhân với
thanh sắc thì ôi thôi, các nhà thơ của chúng ta đã kéo lùi lại tuổi thanh
xuân của ngôn ngữ, nhốt nó vào vòng lao lý trì trệ. Mùa thu, lá thu xào xạc,
ngơ ngác nai… theo tôi, đã đến lúc phải niêm phong để
khỏi bất cập.
Thơ, trước hết là vọng âm của những con chữ đuợc lạ
hóa, lạ lùng, lạ lẫm trong một kết hợp nhuần nhụy. Không có nghĩa, nghĩa
tầm thường/khô cứng/đơn nhất, chữ sẽ chết và tất nhiên, thơ nên quẳng vào vào
sọt rác. Với nghĩa tắc tị/đầy ám muội, thơ sẽ dựng lên bức tường chắn lối người
đọc. Làm thơ, việc đầu tiên chính là sáng tạo những sinh thể chữ biết kêu vang,
có tiếng khóc điệu cười, có đủ thất tình ái ố dục… “Thơ là ngôn ngữ tự lấy
mình làm cứu cánh”. Sartre đã tôn vinh nhà thơ - người sánh vai với Thượng
đế khi sáng tạo ra ngôn ngữ.
2.
Nếu ngôn ngữ tạo được dáng vẻ diện mạo thơ thì nhịp điệu
chính là hơi thở của sinh thể thơ. Nhịp điệu bên ngoài bao gồm tiết tấu,
bằng trắc, độ dài ngắn của câu… kết hợp với nhịp điệu nội tại (cảm xúc thơ)
kích động lên thị giác, thính giác, lên cả nhịp đập của trái tim ta, mở ra
những cảm nhận vô bờ cho người đọc.
Nửa vời trăng mộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô
(Bùi Giáng)
Cặp thơ lục bát của Bùi Giáng tiên sinh nếu chỉ đọc theo
nhịp 2-2-2 và 4/4 truyền thống, có lẽ sẽ hạn chế phần nào các lớp tầng nghĩa.
Giả như đọc câu lục theo nhịp 3/3: nửa vầng trăng / mộng mông lung và
câu tám theo nhịp 1/5/2: đường / hoa nghi hoặc tháp tùng / ni cô, thì
cặp thơ sẽ gây nhiều ấn tượng hơn. Chính nhịp điệu biến thơ thành “cú đập nổi loạn
lên cánh cửa của cõi bất đắc nhi tri” (Ferlinghetti).
Trong thời đại của nhịp sống số, nhịp điệu mang lại cho thơ sức sống mới
cũng như tiết tấu của disco, rock, rap với tempo 120-140 phân biệt với Blue,
Slow, Boston (60-80). Thơ đương đại gần như đã tách được khỏi bước đi 2/2/3 của
Đường luật, và nhịp phách đều đặn (monotone) của thơ Tiền chiến và hiện hữu
trong nhịp đập nội tại của thơ. Người đọc có thể thấy trúc trắc, chông chênh,
thấy vắt ngang vắt dọc một cách khó hiểu là vì họ chưa tiếp cận và bắt kịp
những làn sóng xô nhau, riết róng của thơ. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
là một bài thành công về nhịp điệu với những câu dài ngắn đan xen, những câu
chính luận đuợc trải ra trên các dòng kẻ của một nghĩ suy. Tiết
tấu trong Nhật ký kim đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều rơi trên những
phách gõ mơ hồ, chậm chạp, nhúc nhắc mệt mỏi của một ngày sống:
Bay qua bầu trời, cơn mưa
Mộng mị của ngày mồng 6 tháng Bảy
Một thiếu phụ thường bị ngạt thở
Bên ô cửa xa xôi
In mờ bóng một sư tử
Và một ngọn núi
Mọc trên cánh đồng của những thì thầm đêm trước
Một văn bản được soạn sẵn
“Ông hãy đến với em…”
(Chúc thư)
Đó cũng là nhịp điệu cơ bản trong thơ Nguyễn Quang Thiều, nhịp điệu của
niềm tin vào sự tuyệt vọng và rỗng nên không bao giờ nao nức dù là Ông hãy
đến với em. Nếu bạn mà đọc khổ thơ trên với nhịp hối hả, mạnh mẽ, tức là đã
phá hỏng nhịp điệu bên trong của Chúc thư (cùng cách với Đàm Vĩnh Hưng
đã… rống lên với Diễm Xưa hay Thanh Lam ngậm micro hát Hạ Trắng!)
Nhịp điệu, do đó gắn chặt với nội dung và thể loại. Tân hình thức đã đem vào
thơ Việt lối vắt dòng tạo nên nhịp hẫng (một hình thức đảo phách của âm nhạc)
rất tuyệt vời, nhưng lại bị lạm dụng nên những câu thơ của một số tác giả cứ
như ngớ ngẩn lạc điệu.
Vào tiền vệ sáng nay mới
Hay tin ông chết “qua bài
Viết của nguyễn việt chiến phát"
Nhớ liền bài phỏng vấn [dạng
(Một người phu chữ đã chết - Vương
Ngọc Minh)
Vắt dòng ở đây hình như chẳng có tác dụng gì, một kiểu mô phỏng, nhại;
trong khi đó với Lê Đạt ngoài câu chữ, tiết tấu thơ trôi đi đầy gợi cảm:
Chữ khép lối đồi chim non câu ngủ
Trang tầm xuân
cau
chưa mở nụ ngà
Đàn từ non
âm hé môi cong mỏ hót
Đọc hai khổ thơ, tôi bỗng chợt buồn và áy náy vì chiền chiện lại hát múa
cho họa mi (đã chết)!
Tập Đất vỡ của Vi Lãng - Biên tập viên Damau.org - không
có nhiều chất hậu hiện đại nhưng mới, rất mới nhờ nhịp điệu tồn tại gắn với cái
biểu đạt.
Em bảo bức tranh này như cơn lũ: đất cuốn, cánh buồm
trắng
Ngược gió, con chó tru trơ, sóng ngập trái, và những thứ
Tủn mủn trên bàn. Ngoài khung, chúng không biết gì
Về em và tôi: mình đi qua đó, như bóng trong gương
(Bức Tranh - Đất vỡ)
Cách dùng các loại dấu kết hợp với thủ pháp vắt dòng có hiệu ứng tạo
nên hơi thơ đặc trưng của Vi Lãng, không nhầm lẫn với ai. Cánh buồm, đất
cuốn, tiếng chó tru trơ đều ngang bằng nhau trong một cảm nhận tủn mủn.
Tiết tấu nhịp điệu còn là sự lý đến muôn đời của thi ca. Canh tân không
phải là đánh liều học đòi người bất chấp trắng đen thị phi. Ôi thôi, họa hổ
bất thành! Muốn thành người đẹp đâu phải cứ bắt chước Tây Thi nhăn mặt nhíu
mày, nhan sắc kiểu này e là phải đánh dấu than ôi! Xin được dừng lại ở đây
nhường đất cho nhà lý luận phê bình…
3.
Hình tượng thơ, cấu tứ và nội dung biểu đạt là ba mặt của một vấn đề thơ ca
hôm nay. Thơ Việt đang lên hay tụt dốc, đang mở hay đang bế? Rồi thế nào là
ngoại vi hay trung tâm, là bảo lưu truyền thống hay cách tân đổi mới? Tất cả
những câu hỏi đó treo lên đang chờ các học giả, nhà nghiên cứu trả lời. Vĩnh
Phúc thô lậu, không dám lạm bàn. Xin nêu một vài trăn trở, có khi là lạc hậu
của mình!
Đề cập đến yếu tính văn chương, Tố Như cảm thán: "Văn chương tàn
tích nhược như ti”. Thi ca, cuối cùng là gì, vô dụng hay đắc dụng, là đóng
cửa với chính mình hay mở ngõ mười phương thiên hạ, là kêu rên tình ái tình dục
hay vút lên một tiếng kêu thương nhân bản? Tôi thích Allen
Ginsberg (1926-1997) với cảm thức phẫn nộ đau buồn đầy chất bi tráng: “Hồ lơ lại bầu trời sông Rhin, tẩy trắng những đám mây cho
tuyết lại trắng như tuyết / nạo vét các con sông Hudson, Thames và Nectar, tháo
hết cặn bẩn khỏi hồ Erie / Sau đó tôi sẽ ném châu Á to bự vào một thùng chứa để
rửa sạch máu cùng chất da cam (Bản dịch của Hoàng Hưng). Không, thơ
không làm chính trị, không là công cụ giai cấp nhưng nếu tách thơ khỏi đời sống
ngổn ngang máu và nước mắt thì thơ còn lại gì? Là nửa chiếc lá che ngang khuôn
mặt xấu xí, là bông hoa tàn rữa của tình em hay là cái cần câu cơm? Đọc Huyền
thoại bên máng lợn của Trần Quang Quý, tôi bỗng nghe ngày ì oạp
tiếng mưu sinh thắc thỏm mà đêm dậy những giấc mơ bay, giấc mơ không cánh: “Từng
nghe tiếng mưu sinh ì oạp lòng máng gỗ / đèn khuya đỏ mắt đêm /… Tuổi xuân em
là nối dài những chiếc máng lợn / chiếc máng hầu bao hy vọng / và một ngày
những giấc mơ đến thật lạ /… từ nơi đây có một người từng ôm giấc mơ bay /
không bay khỏi lõm mòn máng gỗ”.
Tôi hoàn toàn đồng ý với Nguyễn Quang Thiều: Thơ là thế giới mà tôi tìm
thấy những cơn mơ và sự tự do của mình. Vâng, những giấc mơ và tự
do; nhưng thơ có lẽ không chờ những giấc mơ ám ảnh tình dục, hay nóng bỏng
thù hận, cũng không cần dựng lên những gia huấn ca trơ lì đạo đức giả.
Thơ, khám phá và sẻ chia với đời, với ngườI chứ không phải thông tin tuyên
truyền hay quảng cáo vặt; kiểu như:
Chiều nay em vào shop thời trang
Tìm mua những chiếc xì giấy
Cho chuyến du lịch sớm mai
(Mắt giấy – Nguyệt Phạm)
Ô hay, những chiếc xì giấy một đời tôi lơ ngơ chưa biết?
Giá cả hiện nay đang lạm phát và thơ của chúng ta cũng đang lạm phát trầm
trọng xét về mặt xuất bản và đăng báo. Nhiều tác giả in thơ với nhiều mục đích,
mục đích có khi ngoài thơ. Theo tôi, có thể xếp thành mấy loại thơ: Thơ mưu
sinh đa phần vần vè ca tụng, nhằm đến mấy đồng nhuận bút còm với cái danh
hảo. Thơ hưu trí của các cụ (một cách giải lao), thơ trang điểm
của các đại gia để định vị cái nhãn trí thức, thơ tự sự bộc lộ cái tôi
trữ tình (Bay lặng yên, hay Gửi VB… ). Còn lại là thơ thứ…
thiệt.
Ba loại đầu không có gì để bàn vì là sản phẩm nhất định phải có của bất kỳ
thời đại nào; thơ tự sự trong chừng mực nào đó là sản phẩm nghệ thuật
đích thực nhưng mâm cỗ thơ ở đây thực sự là tạp bí lù, đủ món từ tình dục cho
không biếu không đến nữ quyền, từ yêu đương đến nhân sinh xã hội, và
cũng khoác nhiều màu áo: truyền thống, hậu hiện đại, tân hình thức, thơ dự
phóng, thơ cụ thể. Mỗi người một tạng, mỗi người một phong cách viết và lý luận
phê bình thì im hơi, không có một cột mốc, tiêu chí nào định vị, thành ra thơ
ngổn ngang tranh luận tranh chấp. Mặc, thơ trẻ cứ bung phá, tung hê. Người
thích thì viết bài chào hàng tụng ca, kẻ không thích thì dè bỉu, quay lưng. Thơ
phân khu vực trung tâm với ngoại vi, hiện đại phóng lên mạng cười vào mũi
truyền thống lẩm cẩm; còn truyền thống chễm chệ trên những trang thơ từ trung
ương đến địa phương, tự đắc. Thơ đang ồn ào giữa chợ! Con ngựa thơ đang lồng
lên. Cần phải có nhiều hơn 100 Hoài Thanh của thời đại mới để kìm cương? Nhiều
người đọc ngơ mắt nai, không biết phương hướng, rối tinh rối mù.
Tôi đã cố gắng sưu tầm Tạp Chí Thơ (Hội Nhà Văn Việt Nam) để theo dõi. Đọc Thơ
ai đọc buổi thu về của Hồ Khải Đại, số 2/2008: “Mỗi tối thu về trong gió
hiu / Thơ ai đẹp Đầu súng trăng treo / lòng như sống lại đường ra trận / tiếng
hát dài như tiếng suối reo.” Thơ hay chọn vào Tuyển thơ như thế ư?
Lạ! Hóa ra tác giả đang dâng tặng bông hoa thơ cho Chính Hữu! Lại đọc chùm thơ
của Bùi Ngọc Trình, Tạp Chí Thơ 1/2008, cũng bắt gặp thơ hay/không hay:
“Tình bằng là tình bằng không / Người nằm dưới mộ bao đông dãi dầu / Người
nay trăng chếch nửa đầu / Nửa đời cuốc xẻng còn đâu nửa đời.” (Lỡ làng cô
thanh niên xung phong)
Dù ai có nói ngả nói nghiêng, tôi vẫn đinh ninh rằng đây là thơ
hưu trí và tác giả đang hưu trí. Chuyện không nói nữa.
Còn phần 2
Cam Ranh
22/5/08
VĨNH PHÚC
No comments:
Post a Comment