Làm sao người ta có thể viết văn như uống trà, uống cà phê? Và người đọc văn có niềm vui được chung hưởng cảm giác ấy? Có thể có được sự viết hay sự đọc, giống như thú ẩm thủy kia, không dành nhiều sự chú trọng cho thức uống mà chủ yếu chi chút cho hành động thưởng ngoạn? Bởi sự thực thì, không dễ gì để sáng tạo được cái đẹp đến độ toàn vẹn. Sự vẹn toàn hầu như luôn là không tưởng và bất khả, nó tồn tại trong mơ ước và chỉ đủ để nuôi dưỡng ước mơ. Sự thiếu vắng của nó mở đường cho hành động được trọng vọng. Nó khai sinh ra các con đường để rồi người ta chỉ biết đến tiềm lực của những con đường ấy. Con đường thay thế cho đích đến như cách thức thưởng ngoạn thay thế cho cái làm nảy sinh sự thưởng ngoạn. Uống trà, theo đó, là niềm vui được hướng ra ngoại giới, được nắm bắt không gian mà cuộc sống đang triển diễn, và nếu không phải độc ẩm, còn là niềm vui được hạnh ngộ với người đối ẩm, đem xúc cảm của họ mà vận vào cho ta. Cà phê, ngược lại, đem đến niềm sảng khoái vị kỷ thanh tao, người uống cà phê chỉ soi vào thế giới tinh thần của mình mà hàm dưỡng cho sức sáng tạo. Một nghệ thuật không gian đi cùng với một nghệ thuật thời gian, trong cùng một cách thức thụ hưởng, nhưng không lai tạp cũng không biện biệt.
Một thế giới như thế trong lĩnh vực
nghệ thuật văn chương, có thể được xem như là một nét rất riêng của Đỗ Phấn. Và
vì thế, sự độc đáo mang tên Đỗ Phấn.
Văn chương Đỗ Phấn không truy cầu
phẩm tính văn chương. Đúng hơn, không lâm mô điển phạm và cũng không nhằm tạo
lập điển phạm, tức những cái có thể mang ra làm dẫn chứng cho câu trả lời của
câu hỏi muôn đời: văn chương là gì? Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm bày ra cho
người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không tham vọng cao đàm khoát luận
về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc sống
một cách có nghệ thuật. Cái nhìn như thế có thể coi là cách thế sống với nghệ
thuật, và vì vậy, cũng là với cuộc đời. Tiểu thuyết Rừng người là một
biểu hiện của cách thế ấy. Tiếp nối nguồn mạch từ trong tiểu thuyết Vắng mặt
(Bách Việt và Nxb. Hội Nhà văn, 2010), và trước đó nữa, từ hai tập truyện ngắn Kiến
đi đằng kiến (Nxb. Phụ nữ, 2009), Đêm tiền sử (Nxb. Hội Nhà văn,
2010).
Đỗ Phấn đến với văn chương khá muộn
màng. Như một thú vui hay một phản ứng với cái chật chội của đời sống đô thị
Việt Nam? Cũng có thể là sự đổi món sau hành trình hội họa dài dặc, nơi ngôn từ
với khả năng biến hóa kỳ diệu của nó, bổ trợ đắc lực cho màu sắc, đường nét,
hình khối, trong hành trình chinh phục cái quyến rũ khôn cùng của nghệ thuật.
Cũng có thể là một bộc phát bởi không gian ngột ngạt của đời sống nghệ thuật
đương đại đang bị xã hội thị dân dị mọ bóp nghẹt thêm. Song trước hết, sáng tạo
ngôn từ của Đỗ Phấn là một câu chuyện, thậm chí “chuyện vãn”, nói cho vui, cho
qua ngày hết buổi, như cách đặt tên tập tản văn đầu tiên đưa Đỗ Phấn nhập làng
chữ nghĩa: Chuyện vãn trước gương (Nxb. Hội Nhà văn, 2005). Nói chuyện
trước gương là nói chuyện với bóng, mình nói mình nghe, thấy yêu mến thì thổ
lộ, thấy bất bình thì lên tiếng, thấy thuyết phục thì hùng biện…
Rồi lặng im chiêm nghiệm.
Chính ở chỗ này, sở trường của Đỗ
Phấn được phát huy. Đỗ Phấn giàu có hơn các nhà văn khác ở mẫn cảm nghệ thuật
mà hội họa đã trao tặng. Có mẫn cảm ấy, văn Đỗ Phấn như cánh diều gặp được gió
lớn để thăng hoa các xúc cảm nghệ thuật. Một Đỗ Phấn tươi trẻ bên cạnh một Đỗ
Phấn trầm nghị, do chính sự nếm trải cuộc sống, nơi mà tuổi đời xác định được
rõ nhất thế mạnh của nó. Có trải nghiệm, văn Đỗ Phấn sắc sảo đến chao chát
trong việc lột hiện đời sống thị dân bát nháo. Tìm cái đẹp trong sự bát nháo ấy
và cái đẹp của sự bát nháo ấy là hai biểu hiện rõ rệt nhất của bút lực Đỗ Phấn.
Đỗ Phấn viết về những gì? Cuốn hút
người ta ở đâu? Câu chuyện của Đỗ Phấn thật ra chẳng mấy rõ ràng. Sức cuốn hút
hình như cũng không nằm ở tình tiết, cốt truyện, kết cấu, thậm chí cả văn
phong. Vậy mà chuyện của Đỗ Phấn vẫn thành truyện, văn của Đỗ Phấn vẫn lôi
cuốn. Tôi nghĩ, nguyên căn nằm ở tinh thần của tác phẩm, ở cái nhìn nghệ thuật
của tác giả. Nó dễ dàng cho người đọc chia sẻ hay phản bác, nhưng trước nhất là
sự suy nghĩ. Đúng hơn, không thể không suy nghĩ bởi văn Đỗ Phấn, rút gọn lại,
tối giản nhất, là rượu và đàn bà. Quá quen thuộc rồi còn gì?! Nhưng nếu quy hồi
nó về nguyên trạng ban đầu, ở sự phức tạp chưa được tỉnh lược ấy, như rượu là
ẩm thực và như đàn bà là tình yêu chẳng hạn, câu chuyện của Đỗ Phấn khiến ta
phải suy nghĩ thực sự về cái đời sống đang bao bọc ta, đời sống của chính ta.
Nhân vật chính trong sáng tác của Đỗ
Phấn là một thái độ văn hóa, nó biến hình trong hàng loạt kiểu thị dân ở đủ kiểu
ngành nghề. Nên cũng có thể nói đó là một thái độ thị dân. Trong văn học Việt
Nam đương đại, có hai tác giả chuyên chú về điều này, là Nguyễn Việt Hà và Đỗ
Phấn, đều từ các lĩnh vực khác muộn mằn đến với văn chương, mỗi người mỗi kiểu,
mỗi cách và đều rất độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà, nó đọng ở cấu trúc nghệ thuật
ngôn từ và ở Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy.
Cái giống nhau, có chăng, cũng là một thói thường thị dân, ở sự quan tâm đến
thưởng ngoạn, lại là đàn bà và rượu, trong một cái tên tập của Nguyễn Việt Hà: Đàn
bà uống rượu (Nxb. Văn học, 2009). Tinh thần chung của văn Đỗ Phấn, nói như
cách gợi liên tưởng ở trước, là cái phòng trà hơn cái chất trà, khoảng lặng
giữa các giọt cà phê hơn vị cà phê vậy.
Đỗ Phấn hay viết về đàn bà, trong
tình yêu nhục cảm. Đàn bà trong văn Đỗ Phấn đều hết sức chủ động. Họ mạnh mẽ
trong cuộc sống, cuồng nhiệt trong tình yêu. Họ yêu những thái độ trí thức
nhưng lại dựa dẫm vào lối sống trưởng giả. Họ tham lam nhận về cho mình cả vật
chất và tinh thần, bởi họ tin tưởng mình đẹp, đáng được tin yêu. Và quả thật,
đàn bà trong văn Đỗ Phấn cũng chỉ là đàn bà đẹp. Họ có khả năng cứu chuộc nhưng
cũng mang mầm hủy hoại. Cái nhận định chua chát của Đỗ Phấn: họ đáng để yêu
nhưng không (đáng) để làm vợ không biết do lỗi nghiêng về phía nào nhiều hơn,
đàn bà hay đàn ông trong những cuộc tình dai dẳng hay thoáng chốc ấy. Hay đơn
giản, cái công nghệ tình dục thị dân đương đại mới là cái mà Đỗ Phấn lấy làm
chua chát. Đàn ông trong văn Đỗ Phấn, vì vậy, nhất là ở những thái độ trí thức
thị dân, mà không hiểu sao những trí thức thị dân như thế lại thường là nghèo,
rất khó khăn trong hưởng thụ tình ái với những người đàn bà ấy, dù họ luôn là
những người được (đàn bà) lựa chọn, hay (bạn bè giàu có) cho biếu. Trong những
mối quan hệ như thế, họ thường là người cho đi nhiều hơn là nhận lại, để cuối
cùng, luôn rơi vào tình thế bị động trong việc đón nhận hay từ bỏ. Họ luôn là
người (bị) cô đơn hay (được) cô đơn theo lẽ sống độc thiện kỳ thân, lánh xa
cuộc đời ô trọc. Họ cô độc giữa cuộc đời. Dẫu rằng, với họ, hôn nhân là một
đích đến của tình ái, một hạnh phúc vừa rõ rệt nhưng cũng khá xa vời. Bởi ở họ,
hình như cái không khí gia đình quan trọng hơn nhiều so với cái gia đình thực
sự, nó chi phối hạnh phúc gia đình. Với Đỗ Phấn, bữa cơm gia đình mới là cái
quyết định đến hạnh phúc gia đình, chẳng hạn thế.
Cách thức hưởng thụ cuộc sống, như
thú uống rượu, là cầu nối giữa hai thế giới, hai phân mảnh tình yêu và ẩm thực
trong thế giới nghệ thuật của Đỗ Phấn. Sẽ có người hỏi tại sao chỉ miếng ăn
miếng uống thôi mà phải cầu kỳ đến thế? Nhưng với Đỗ Phấn, nó được đẩy lên một
cách cực đoan. Hình như nó không chỉ là điều chi phối đến gia đình, nó chi phối
mọi mối quan hệ xã hội, nhất là xã hội thị dân, nơi các mối quan hệ người người
trở nên thống ngự. Đến với miếng ăn miếng uống đến đâu, anh bộc lộ bản ngã của
anh đến đó nên hầu như toàn bộ những nhân vật được Đỗ Phấn chi chút, đều trở
nên cao đạo hoặc lạc lõng khởi nguồn từ chính sự thụ hưởng cuộc sống ấy. Cách
thức hưởng thụ cuộc sống, theo đó, làm cho người ta có thể “vắng mặt” hay hiện
diện giữa “rừng người”!
Chỉ có một điều, và hình như đó cũng
không chỉ là sự lưỡng lự của riêng Đỗ Phấn, là cái hấp lực kì lạ của đô thị,
của lối sống đô thị hiện đại. Từ Vắng mặt đến Rừng người, nhân
vật của Đỗ Phấn luôn lên án tất cả những thói rởm hợm của xã hội thị dân đương
đại nhưng lại cũng rất dễ dàng hòa tan vào nó, ngay ở cả chính những cái rởm
hợm ấy. Cái tâm trạng vừa yêu vừa ghét là một thực tế. Nhưng không thể không
nói rằng không có sự phân vân ở đây. Văn Đỗ Phấn dùng rất nhiều dấu chấm hỏi
(?), và trong nhiều trường hợp có cảm giác như dùng sai, vì có thể thay một dấu
câu khác có thể thích hợp hơn, hoặc cứ để lại thì cũng không trở thành một câu
hỏi tu từ, bởi cố nhiên, ngay từ đầu nó đã không là câu hỏi. Lưỡng lự là một
trạng thái phổ quát trong văn Đỗ Phấn, trong thế giới thị dân mà Đỗ Phấn tạo
dựng.
Hình như viết văn, đối với Đỗ Phấn,
cũng chính là cách thức để Đỗ Phấn đi tìm chính mình trong cuộc đời, để xác tín
rằng mình đang được/bị “vắng mặt” trong “rừng người” đô thị đương đại. Tiểu
thuyết của Đỗ Phấn, ở cả Vắng mặt và Rừng người, vì vậy, không có
một cốt truyện mạch lạc, có thể dễ dàng hình dung tay tóm bắt, nó là sự dán
ghép của các phiến đoạn tâm lý, đầy ngẫu hứng, bất ngờ trong chính hành trình
mà nhân vật nếm trải trạng thái lưỡng lự ấy.
Sẽ rất thú vị nếu đọc văn Đỗ Phấn
trong (trí tưởng) những không gian đô thị còn tranh chấp, nơi vừa như muốn níu
giữ một điều gì đó còn trong trẻo của xưa kia vừa như đang phải vươn vào đời
sống danh lợi tục tằn của hiện tại, một phòng trà mộc mạc hay một góc quán cà
phê vắng vẻ, lọt thỏm giữa cái ầm ào của đô thị hiện đại. Và thực ra cũng không
cần phải đọc từ đầu, cứ ngẫu nhiên bắt đầu từ một trang nào đấy, để nhâm nhi,
nhấm nháp những thụ cảm đời sống giàu tính nghệ thuật của Đỗ Phấn, để bất chợt
phải dừng lại, vì một âm thanh nào quá cỡ hay sự ắng lặng bất ngờ, trên cái nền
âm âm, đều đều của tiếng phố xá như là tiếng vòi nước chảy vào bể nước lớn, kín
miệng, mà nguồn điện thường khi là không ổn định.
Để rồi sau đó, có chăng, khởi sự một
hành trình…
Đoàn Ánh
Dương
No comments:
Post a Comment