Trò chơi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống con
người. Johan Huizinga, sử gia người Hà Lan, trong công trình kinh điển khảo cứu
về trò chơi, Homo Ludens, đã nhận định: “(nền văn minh nhân loại)
đã nảy sinh trong trò chơi, như là trò chơi và chưa bao giờ rời bỏ nó”(1). Trò
chơi, theo đó, không đơn thuần là một hoạt động cơ bản của con người, nó xuyên
thấm vào tất cả các hoạt động khác, trở thành nguyên mẫu của các mô hình tổ
chức đời sống, các hình thái ý thức, đi vào trong tư duy của con người như một
hệ hình để suy nghĩ, nhận thức về thế giới và về chính mình.
Trò chơi xuất hiện từ rất sớm, với tần số ngày càng cao
trong các diễn ngôn triết học, nhân loại học, tâm lý học, mỹ học, văn học… Ở
các diễn ngôn này, trò chơi vừa là một hoạt động thực tiễn, là đối tượng nhận
thức, nghiên cứu của những lĩnh vực nói trên, vừa là một khái niệm để từ đó,
con người mở rộng suy tưởng về những bình diện khác, chiều kích khác của văn hóa,
xã hội, nhân sinh. Tập hợp các diễn ngôn về trò chơi này hình thành nên cái
được gọi là lý thuyết trò chơi mà bảng phả hệ của nó, theo
tổng thuật của Gordon Slethaug trong cuốn Encyclopedia of
Contemporary Literary Theory (Bách khoa toàn thư lý thuyết văn
chương đương đại), được bắt đầu từ triết học cổ đại Hy Lạp, kéo dài qua nhiều
thời đại và đặc biệt phát triển trong thời kỳ hậu hiện đại (2).
Mặc dù chủ nghĩa hậu hiện đại, như một thuật ngữ, lần được
tiên được đặt ra bởi Jean Francois Lyotard trong cuốn Hoàn cảnh hậu
hiện đại xuất bản năm 1979 nhưng trong nhiều bảng niên biểu, lộ
trình của chủ nghĩa hậu hiện đại thường được tính từ giữa thập niên 50 TK XX,
song hành với nhiều biến động lớn trên thế giới về lịch sử, chính trị, khoa học
kỹ thuật, văn hóa…, làm thay đổi sâu sắc những nền tảng tư duy của con người.
Cũng chính ở giai đoạn này, ta được chứng kiến sự hiện diện nổi bật của khái
niệm trò chơi trên diễn ngôn ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trải rộng từ triết
học, mỹ học, tâm lý học, nhân học cho đến chính trị, luật pháp, kinh tế, toán
học, vật lý, công nghệ thông tin…
Lý thuyết trò chơi bước vào thời kỳ phát triển sống động
nhất, mang bản chất của một lý thuyết đa ngành. Riêng trong triết học, văn hóa
học, mỹ học, lý thuyết văn học, chỉ cần nhìn vào tổng thuật của G.Slethaug, ta
cũng có thể thấy hầu như những nhà tư tưởng, những học giả quan trọng hàng đầu
của thời kỳ này đều tư duy về trò chơi hay sử dụng trò chơi như một khái niệm,
một hệ hình để tư duy về những vấn đề khác. Các khái niệm có quan hệ họ hàng
với trò chơi, theo đó, cũng được mở rộng hết sức đa dạng, trong đó có nhiều
khái niệm được xem là từ then chốt trong lý thuyết văn hóa, văn học đương đại
như carnival, tính biểu hành (performativity), trò chơi ngôn ngữ (language
game), văn bản khả độc/khả tác (readerly/writerly text)…
Sự sống động của lý thuyết trò chơi ở giai đoạn này còn thể
hiện ở chỗ nó tạo ra nhiều khúc rẽ trong sự vận động của mình.
Một trong những khúc rẽ quan trọng ấy mà chúng tôi muốn
giới thiệu trong bài viết này là khúc ngoặt ngôn ngữ.
J.Huizinga nói rằng bản thân việc con người sử dụng ngôn
ngữ để biểu đạt các ý niệm về thế giới đã là một trò chơi: “Ngôn ngữ,… công cụ
đầu tiên và quan trọng nhất mà con người tạo nên để giao tiếp, dạy dỗ, ra lệnh.
Ngôn ngữ cho phép con người phân biệt, thiết lập và phát ngôn về sự vật; nói
gọn lại, nó cho phép ta gọi tên sự vật và bằng việc gọi tên như thế, ta đã đưa
sự vật vào trong địa hạt tinh thần. Khi hình thành lời nói và ngôn từ, tinh
thần luôn luôn cọ xát giữa sự kiện thực tế và trí tuệ, hay nói khác đi, nó đang
chơi với khả năng định danh kỳ lạ này. Đằng sau mỗi hình thức biểu đạt trừu
tượng luôn là những ẩn dụ đậm nét, và mỗi ẩn dụ là một trò chơi trên ngôn ngữ.
Do đó, với việc tạo ra một hình thức biểu đạt đời sống, con người đã tạo ra một
thế giới thứ hai, mang tính thơ cùng với thế giới tự nhiên”(3). Quan điểm của
J.Huizinga, cố nhiên, vẫn dựa trên tiền đề là sự đối lập giữa trò chơi và hiện
thực. Các nhà tư tưởng hậu hiện đại sau này đã phản biện lại tiền đề trên, và
đi xa hơn khi cho rằng, hiện thực (tất nhiên, cùng những ý niệm lân cận họ hàng
với nó như thế giới, lịch sử, xã hội, văn hóa, con người…) là các trò chơi ngôn
ngữ không hơn.
Trò chơi ngôn ngữ được triết gia Ludwig Wittgenstein thiết
lập như một khái niệm then chốt và đặc biệt phức tạp, sau đó, nó lại được
J.F.Lyotard vận dụng để biện luận về đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Khái
niệm này được hình thành trước hết từ quan sát của L.Wittgenstein về trò chơi:
ông nhận thấy các hình thức được gọi là trò chơi (game) trong đời sống đa dạng,
phong phú đến mức không thể quy đồng tất cả về một bản chất duy nhất được. Ngôn
ngữ cũng vậy, nó không phải là một khách thể đơn nhất, tự trị, tự đủ.
L.Wittgenstein nhìn ngôn ngữ như tập hợp một loạt các hoạt
động khác nhau: miêu tả, kể chuyện, chất vấn, dịch thuật, ra lệnh, đùa cợt,
biểu lộ cảm xúc… Chỉ khi được sử dụng để thực hiện các hành động này, ý nghĩa
của ngôn ngữ mới được sinh thành. Wittgenstein gọi các hành động ngôn ngữ mà ta
vừa nói là các trò chơi ngôn ngữ bởi lẽ, giống như trò chơi thông thường, các
hành động này đều phải tuân theo các luật lệ, quy tắc nhất định. Nhưng luật
trong các trò chơi ngôn ngữ là gì? “Các trò chơi ngôn ngữ không có những quy
tắc trong bản thân chúng, mà được cấu tạo nên từ sự thỏa thuận mặc nhiên hay
minh nhiên giữa những người tham gia cuộc chơi”(4).
Tuân theo luật, do đó, là tuân theo những khế ước, tập quán
được thiết lập bên trong một cộng đồng ngôn ngữ. Luật của các trò chơi ngôn ngữ
không phải chỉ là những quy tắc được hình thành một lần là xong xuôi, hoàn kết,
kiên cố mà sẽ còn được bổ sung, thay đổi, kiến tạo và phá bỏ không ngừng.
J.F.Lyotard sử dụng lại khái niệm trò chơi ngôn ngữ của
L.Wittgenstein song đi xa hơn, ông nhấn mạnh đến tính chất cạnh tranh của trò
chơi này (chúng ta nhớ rằng cả J.Huizinga cũng xem cạnh tranh, đấu tranh là một
dạng thức cơ bản, phổ biến nhất của trò chơi). Trò chơi ngôn ngữ nhằm đến mục
đích chiến thắng thay vì hướng đến sự đồng thuận và chân lý; thắng là mục tiêu
tự thân của luật chơi.
Ở đây, chúng tôi xin được trích lại khá dài đoạn diễn giải
của J.F.Lyotard về điều này bởi diễn giải của ông có sức gợi mở rất lớn để tư
duy lại văn học: “Phát ngôn là đấu tranh, hiểu theo nghĩa chơi, và các hành vi
ngôn ngữ cho thấy một sự đối chọi, tranh đua chung. Điều này không nhất thiết
có nghĩa người ta chơi là để thắng. Người ta có thể đi một nước cờ chỉ để thỏa
thú vui nghĩ ra nó: chẳng phải đấy là điều chúng ta tìm thấy trong việc dùng
ngôn ngữ để khiêu khích, gây rối nơi các chuyện phiếm dân gian hay văn học hay
sao? Việc liên tục nghĩ ra các cách nói, các từ ngữ và các ý nghĩa ở cấp độ lời
nói (parole) giúp cho ngôn ngữ (langue) phát triển đem lại những niềm vui lớn.
Nhưng tất nhiên ngay thú vui này cũng không phải là độc lập với cảm giác thành
công, ít nhất là thắng được đối thủ, nhưng cao hơn, là đủ sức thắng được ngôn
ngữ đã xác lập, thấy được sự liên tưởng, sự âm vang”(5).
Chính tại điểm này, cách tiếp cận văn học như là trò chơi
ngôn ngữ của J.F.Lyotard nói riêng, của lý thuyết hậu hiện đại nói chung thực
sự là một khúc ngoặt so với quan điểm của hình thức luận và cấu trúc luận trước
đó. Trò chơi ngôn ngữ của văn học, cố nhiên, cũng hàm chứa những luật lệ,
nguyên tắc nhất định song các luật lệ, nguyên tắc chi phối việc kiến tạo lời
nói nghệ thuật không chỉ đơn thuần nhằm tạo ra khoái cảm thẩm mỹ tự thân.
Như là một phát ngôn, một hành vi ngôn ngữ, văn học còn tồn
tại trong thế cạnh tranh với các diễn ngôn khác, đối đầu với các thiết chế quy
định sự cấu thành, sự hợp thức của diễn ngôn. Chính các kiến giải của chủ nghĩa
hình thức và cấu trúc về đặc trưng của văn học như là sự vi phạm những luật lệ,
chuẩn mực của ngôn ngữ thông thường ít nhiều đã thể hiện sự tự ý thức được tình
thế cạnh tranh này. Lưu ý rằng đằng sau những luật lệ, chuẩn mực của ngôn ngữ
kia là những thỏa thuận, tập quán được kiên cố hóa thành các định chế. Bởi vậy,
bằng sự ganh đua, cạnh tranh, sẵn sàng phá bỏ những chuẩn tắc, văn học là một
trong những phương thức quan trọng để chống lại sự xơ cứng của các định chế,
các khuôn mẫu tạo nghĩa, cho phép những gì vốn không được phép chơi, không được
phép nói, những cách thức diễn đạt mới trở thành hợp thức. Nói như Wolfgang
Huemer: “Bằng việc tập trung vào nhu cầu khẩn thiết được nói ra những gì khó
diễn đạt và tìm những cách thức mới để thể hiện điều đó, nhà thơ đã đưa ngôn
ngữ đến những giới hạn của nó, thậm chí có khi còn vượt qua nó.
Ngay cả khi vi phạm những luật lệ chi phối ngôn ngữ thông
dụng thì nhà thơ cũng hướng ta chú ý đến những luật lệ này và biến chúng trở
thành đối tượng phê bình. Nói tóm lại, họ đưa ra những ví dụ súc tích về các cơ
chế hoạt động của ngôn ngữ, từ đó, khám phá và mở rộng những giới hạn của
nó”(6). Khám phá cơ chế của ngôn ngữ và mở rộng những giới hạn của nó chính là
quá trình con người tự nhận thức về bản thể, mở rộng giới hạn của chính mình,
để nhớ lại câu nói nổi tiếng của Martin Heidegger, một đại diện lớn khác của
triết học ngôn ngữ hiện đại, “ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể”.
Khái niệm trò chơi ngôn ngữ trong triết học J.F.Lyotard có
liên đới với một khái niệm khác - tiểu tự sự và dĩ nhiên,
khái niệm này được hình thành trong mối quan hệ với khái niệm trung tâm của chủ
nghĩa hậu hiện đại theo biện giải của J.F.Lyotard – đại tự sự. Nếu đại tự sự
được hiểu là các triết thuyết lớn, các hệ thống lý luận mang tham vọng trở
thành trung tâm, phổ quát, bao trùm tất cả, đóng vai trò như một thứ siêu ngôn
ngữ chứng thực cho những thứ được coi là tri thức, cấp cho chúng tính hợp pháp
thì tiểu tự sự chính là các chiến lược, các trò chơi ngôn ngữ để thoát ra ngoài
sự trấn áp của các đại tự sự vốn nhân danh cái phổ quát, cái tất yếu để khẳng
định sự dị biệt, sự phức tạp, nằm ngoài những khuôn khổ định sẵn. Đặc trưng của
hoàn cảnh hậu hiện đại, theo J.F.Lyotard, không phải là sự lên ngôi của các
tiểu tự sự thay thế cho các đại tự sự thống trị; đúng hơn, nó là “hoàn cảnh cho
phép các tiểu tự sự trở thành các chiến lược chính trị khả thi”(7).
Đến đây, khúc ngoặt ngôn ngữ của lý thuyết trò chơi có sự
móc nối với khúc ngoặt chính trị học văn hóa. Trò chơi ngôn ngữ của nghệ thuật
không đơn giản là một trò chơi vô tư, mang tính hình thức chủ nghĩa thuần túy
nữa mà hàm ẩn tính chính trị ở bề sâu. Sự tìm tòi hình thức, những nỗ lực phá
vỡ quy ước thể loại, ngữ pháp, ngữ nghĩa… trong văn chương hậu hiện đại, thực
chất, chính là nỗ lực tạo hình cho các tiểu tự sự, kháng cự lại nguy cơ bị đồng
hóa, bị hòa tan tiếng nói vào trong các đại tự sự. Không phải ngẫu nhiên khi
tính trò chơi trong văn chương hậu hiện đại lại thể hiện đặc biệt rõ nét, nhiều
khi cực đoan và táo bạo hơn cả, ở bộ phận văn chương nhỏ, phụ – mượn thuật ngữ
của Gilles Deleuze – như văn chương nữ quyền, đồng tính, da màu, hậu thuộc địa…
Phương diện chính trị này cho thấy nghệ thuật hậu hiện đại với diện mạo và tinh
thần đậm tính trò chơi của mình, xét đến cùng, không hề đối lập với tính nghiêm
túc, hơn nữa, nó mang tính can dự xã hội mạnh mẽ.
Trần Ngọc Hiếu
___________________
CHÚ THÍCH
1. Johan Huizinga, Homo Ludens,Boston: Beacon
Press, 1955, trang 173.
2. Johan Huizinga, tlđd, trang 4.
3. Jean-Francois Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại,
Phạm Xuân Nguyên dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2007, trang 35.
4, 5. Jean-Francois Lyotard, tlđd, trang 80-81
6. John Gibson & Wolfgang Huemer [ed], The
Literary Wittgenstein, London & New York: Routledge, 2004, trang 6.
7. Victor E. Taylor (ed.), The Encyclopedia of
Postmodernism,New York: Routledge, 2001, trang 246.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 332,
2012
No comments:
Post a Comment