.thongtin img{width:24px;height:18px;margin:5px 5px -5px 0} .thongtin li{margin:10px 0 20px}

Monday, April 9, 2012

ĐỖ THU THỦY – BA ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI

 
"Thực tế lịch sử cho thấy, văn hóa Việt Nam đã vận động và phát triển trong sự khoan hòa. Ý thức khẳng định, tự tôn dân tộc gắn liền với sự tôn trọng, bình đẳng với nước khác; ý niệm tôn vinh, gìn giữ bản sắc dân tộc đi liền với thái độ cầu thị tiếp nhận tinh hoa và các giá trị văn hóa bên ngoài làm giàu có nền văn hóa dân tộc. Điều đó tạo nên căn cước văn hóa vững chắc trong sự phát triển linh hoạt và chủ động của dân tộc ta trong mối quan hệ giao lưu, đối sánh với các dân tộc khác trong khu vực cũng như trên thế giới"
                                                                                                                                               
               1. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép lại một câu chuyện khá thú vị liên quan đến hoạt động bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa vào khoảng cuối thế kỷ X. Đó là cuộc xướng họa thơ văn giữa Lý Giác – sứ thần nhà Tống với hai sứ giả nhà Tiền Lê là Pháp Thuận (tức thiền sư Đỗ Pháp Thuận) và Ngô Khuông Việt (tức thiền sư Ngô Chân Lưu). Đầu tiên là bài thơ vịnh đôi ngỗng trên dòng sông xanh của đồng tác giả Lý Giác – Pháp Thuận mà người đời sau vẫn truyền tụng. Sau đó là bài thơ đáp tặng của Lý Giác dâng lên vua Lê Đại Hành và cuối cùng là bài thơ tiễn sứ về nước của sư Khuông Việt (1)[i][1].
Những tình tiết cụ thể của câu chuyện cũng như sự ra đời của các thi phẩm này được sử gia họ Ngô cẩn thận ghi chép đem đến cho chúng ta nhiều suy ngẫm, trước hết là bài học và kinh nghiệm bang giao. Điều mà chúng ta thấy hiển hiện rõ nhất trong câu chuyện này chính là một cốt cách Đại Việt tuy nhỏ bé mà tự trọng, bản lĩnh mà thân thiện, lịch duyệt mà chân thành... Nói cụ thể hơn, đó là cốt cách của một dân tộc có văn hóa, được chiếu rọi qua tâm hồn, trí tuệ và nhân cách của những cá nhân cụ thể, những nhân vật văn hóa của thời đại và triều đại. Câu chuyện trên cũng là minh chứng sinh động cho một sự thật là không phải chỉ trong bối cảnh hội nhập của thời hiện đại, khi sự giao lưu và tiếp xúc giữa các dân tộc ngày càng rộng mở, đa dạng thì văn hóa đối ngoại, trong đó có vấn đề ngoại giao văn hóa mới được đề cập như là một trong những phương châm  nhằm thực hiện những lợi ích tối cao của dân tộc.
Sự thật là ngay trong những thế kỷ đầu tiên đặt nền móng xây dựng nền độc lập tự chủ thì văn hóa, với tất cả sức mạnh và tính đại diện của nó đã được ông cha ta ưu tiên hàng đầu trong hoạt động ngoại giao. Kết cục bất ngờ theo chiều hướng tốt đẹp của câu chuyện bang giao thời Tiền Lê mà chúng tôi vừa đề cập ở trên cũng là chứng thực ưu thế riêng của hoạt động ngoại giao văn hóa khi được lồng ghép nhằm phục vụ cho hoạt động ngoại giao chính trị. Đó là sứ mệnh làm cho các dân tộc hiểu biết và chấp nhận văn hóa của nhau, từ đó xích lại gần nhau hơn, xây dựng một nền hòa bình thế giới vững chắc, lâu dài và quan hệ hữu nghị hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc (2)
                Câu chuyện này cũng mở ra truyền thống bang giao với những nét đẹp đặc trưng trong suốt thời trung đại, có ý nghĩa tiền đề cho văn hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập và giao lưu toàn cầu. Có thể khái quát truyền thống ấy qua ba đặc trưng cơ bản sau:
               Một là: Ngoại giao gắn với chủ thể văn hóa
               Hai là:  Ngoại giao lấy tinh thần khoan hòa văn hóa làm phương châm
               Ba là:   Ngoại giao thông qua con đường thơ ca
               2. Một trong những đặc thù của hoạt động bang giao ở các quốc gia phương Đông thời trung đại là lấy ngoại giao chính trị làm cột trụ. Điều này phản ánh đặc trưng của mô hình kinh tế - chính trị và văn hóa phương Đông mà ở đó đã sớm hình thành ý niệm phân định đẳng cấp, thứ bậc cùng những đặc quyền mang tính áp đặt giữa các nước lớn với các nước nhỏ từ lâu đời. Phàm đã là công việc đi sứ, bang giao thường có liên quan đến sự an nguy, tồn vong của cả dân tộc và triều đại. Vì thế người xưa thường có quan niệm phổ biến đề cao người làm công việc ngoại giao: Không làm khanh tướng thì làm sứ giả. Tài trai, nếu như không thể mài mực ở mũi lá mộc, truyền hịch định bốn phương thì cũng phải cầm tiết ngọc, trên hai vai nặng trĩu sứ mệnh của nước nhà, như Trương Khiên cưỡi bè sao thăm Ngưu Đẩu (3).
Sự hiện diện của Lý Giác năm 987 trên đất Đại Việt cũng như sứ thần hai nước trong suốt diễn kỳ trung đại không nằm ngoài những vấn đề sự vụ đó. Tuy nhiên, đặc thù nói trên cũng đã dẫn tới một lựa chọn khá đặc biệt tạo nên mô hình ngoại giao của Việt Nam thời trung đại: mô hình tương hỗ giữa ngoại giao văn hóa và ngoại giao chính trị, trong đó ngoại giao chính trị đóng vai trò trụ cột, ngoại giao văn hóa làm nhiệm vụ hỗ trợ, thúc đẩy. Mô hình này tất yếu tạo nên những hình mẫu nhà ngoại giao thời trung đại mà Pháp Thuận và Khuông Việt chỉ là hai trong số những đại diện tiêu biểu nhất. Ở họ vừa hội tụ trí tuệ, bản lĩnh của một nhà chính trị, vừa có phong thái, cốt cách của một nhà văn hóa.
Đó là những chủ thể văn hóa, thông qua hoạt động và giao lưu tiếp xúc, biểu lộ các giá trị văn hóa, đem tới sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc. Không phải ngẫu nhiên vị vua khai mở nhà Tiền Lê lại dày công bố trí, sắp đặt Pháp Thuận đón sứ thần nhà Tống từ bờ Sách giang, đồng thời cho vời Khuông Việt từ Bổ Đà tự về kinh thành cùng nghênh đón. Cũng không phải ngẫu nhiên Lý Giác từ tâm lý ngạo mạn, coi thường Nam Việt chuyển sang khiêm nhường thừa nhận: Ngoài trời lại có trời soi nữa. Rõ ràng ở đây vị sứ thần nhà Tống đã thực sự bị thuyết phục trước những nhân cách và trí tuệ lớn, đại diện cho nền văn hóa Đại Việt đương thời. Và với sự thừa nhận này, xét ở một góc độ nào đó, ông ta cũng là một sứ thần có văn hóa.
               Trong lịch sử bang giao Việt Nam gần 10 thế kỷ trung đại, ở hoàn cảnh chịu nhiều o bế, các sứ giả - nhà ngoại giao Việt Nam trong tư cách là những chủ thể văn hóa đã góp công lớn thực hiện chiến lược ngoại giao mềm dẻo, mang lại nhiều lợi ích cho triều đại và dân tộc. Họ cũng đồng thời là những nhân vật tiêu biểu của văn hóa Việt Nam như: Trần Thái Tông, Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Phùng Khắc Khoan, Lê Quí Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Du, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát....Câu chuyện về tài, trí, đức của những nhà ngoại giao ấy nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ xây dựng đội ngũ những cán bộ, nhân viên ngoại giao nhắm đáp ứng yêu cầu đối ngoại trong thời kỳ hội nhập mà ở đó, phẩm cách văn hóa luôn được đặt ra như một trong những tiêu chí hàng đầu.
               3. Trong một chuyên luận mới đây của mình, cố GS Hoàng Ngọc Hiến khẳng định một trong những đặc điểm có tính “minh triết” của văn hóa Việt. Đó là tinh thần “khoan hòa văn hóa”. Theo Giáo sư, tinh thần này có cơ sở triết học ở  ý thức về Người khác. Đó là ý thức tôn trọng những khác biệt của kẻ khác, để kẻ khác tôn trọng những khác biệt của ta, là khả năng định lại những dị biệt của ta, những điều làm cho ta khác người khác, song vẫn tôn trọng những gì không giống ta mà vẫn bình đẳng với ta (4)
Từ quan niệm trên có thể thấy, khoan hòa văn hóa có cơ sở từ mối quan hệ giữa ta với người. Mối quan hệ đó tự bản thân nó, một mặt tiềm ẩn những nguy cơ xung đột khi bên trong mỗi bên luôn nảy sinh ý thức/ý đồ so sánh song mặt khác lại tạo tiền đề cho sự bổ sung, bồi đắp khi được dung hòa. Thực tế lịch sử cho thấy, văn hóa Việt Nam đã vận động và phát triển trong sự khoan hòa. Ý thức khẳng định, tự tôn dân tộc gắn liền với sự tôn trọng, bình đẳng với nước khác; ý niệm tôn vinh, gìn giữ bản sắc dân tộc đi liền với thái độ cầu thị tiếp nhận tinh hoa và các giá trị văn hóa bên ngoài làm giàu có nền văn hóa dân tộc.
Điều đó tạo nên căn cước văn hóa vững chắc trong sự phát triển linh hoạt và chủ động của dân tộc ta trong mối quan hệ giao lưu, đối sánh với các dân tộc khác trong khu vực cũng như trên thế giới. Tinh thần khoan hòa thấm đẫm trong các ứng xử, ở nhiều bối cảnh và phương diện của văn hóa Việt, đặc biệt là lĩnh vực ngoại giao. Ở phương diện này, câu chuyện ngoại giao dưới thời Tiền Lê một lần nữa cho thấy tính khoan hòa trong ứng xử của sứ giả Đại Việt. Hai câu thơ kết lại bài thơ vịnh đôi ngỗng trên dòng sông của quốc sư Pháp Thuận là một chủ ý nhằm khẳng định tư thế độc lập, tự chủ đầy mạnh mẽ, là ý thức về cái riêng biệt đầy kiêu hãnh của ta trước người khác.
Cái riêng biệt được đặt trong mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng, không làm tổn hại lẫn nhau. Lý Giác không phải là một nhân vật tầm thường. Việc thay đổi thái độ từ ngạo mạn, ỷ thế tới ngạc nhiên rồi trở nên khiêm nhường, giữ lễ ở ông ta hẳn có nguyên nhân chủ yếu từ việc thấu hiểu đạo lý này. Tinh thần ấy cũng là nét đẹp có tính truyền thống của hoạt động bang giao trong suốt thời trung đại. Khảo sát phần thơ ca của các sứ thần khi thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, ở phần thơ xướng họa với sứ thần và văn nhân các nước, chúng tôi thấy một đặc điểm rất thú vị. Đó là sự thể hiện của cái tôi trữ tình – đạo lý với những đặc trưng căn bản:
   - Cái tôi coi trọng tình bằng hữu và truyền thống hòa hiếu với các dân tộc.
   - Cái tôi khẳng định sự tương đồng của những giá trị văn hóa chung giữa các nước.
   -  Cái tôi khẳng định bản sắc và vẻ đẹp văn hiến riêng biệt, độc đáo của dân tộc.
Bài thơ Đáp vấn (trả lời các câu hỏi) của sứ thần Đoàn Nguyễn Tuấn là một ví dụ:
   Khách hỏi phong cảnh nước An Nam như thế nào?
   Phong cảnh nước Nam khác Trung Hoa
   Bụi nhỏ không động, núi sông trong sáng
   Tám tiết đều như mùa xuân, cây cỏ tươi đẹp
   Bữa ăn, ít thức độn, nhiều thóc gạo
   Đồ mặc, xem nhẹ áo lông, áo da, chuộng hàng lượt là
   Tuy vậy có chỗ rất giống nhau
   Văn chương lễ nghĩa như một nhà
Đó là cái tôi mang tinh thần khoan hòa văn hóa. Tinh thần ấy dẫn tới sự bao dung và cởi mở trong mối quan hệ giữa sứ thần các nước. Nó vượt lên những định kiến hẹp hòi để hướng tới những lợi ích thực sự và tối cao của dân tộc.
4. Với ý nghĩa thúc đẩy tạo nên sức mạnh mềm nhằm hóa giải những xung đột và tạo dựng quan hệ hữu nghị lâu bền với các nước, hoạt động ngoại giao văn hóa đang được nhắc tới như một trong ba trụ cột chính (bên cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế) của ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hóa. Hai nhiệm vụ và đặc trưng căn bản của Ngoại giao văn hóa là:
-  Sử dụng các giá trị văn hóa, hình thức văn hóa, lợi thế văn hóa để thúc đẩy quan hệ với các quốc gia khác.
-  Sử dụng nội dung ngoại giao, quan hệ ngoại giao để tôn vinh giá trị văn hóa dân tộc; giao lưu, trao đổi để các quốc gia, các dân tộc ngày càng hiểu biết và tôn trọng các giá trị văn hóa và bản sắc của nhau (5).
               Trong những diễn giải rất cụ thể này, có thể nhận thấy mục tiêu chung của hoạt động ngoại giao văn hóa. Đó là thúc đẩy mối quan hệ bền vững giữa các dân tộc dựa trên sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Ở phương diện này chúng tôi muốn nói tới một đặc điểm khá độc đáo trong cách sử dụng các giá trị văn hóa, hình thức văn hóa, lợi thế văn hóa để thực hiện nhiệm vụ bang giao của ông cha ta trong quá khứ. Đó là con đường ngoại giao bằng thơ ca. Trở lại câu chuyện ngoại giao thời Tiền Lê, chúng ta thấy rõ sức mạnh hóa giải và kết nối của thơ ca với các cá nhân đến từ những nền chính trị và văn hóa khác biệt. Khảo sát dòng thơ sứ trình thời trung đại, chúng tôi cũng nhận thấy một điều rất thú vị: trong những thời khắc quan trọng và khó khăn nhất, các sứ thần bao giờ cũng tìm đến thơ ca và nhận thấy ở đó những giá trị, hình thức và lợi thế  văn hóa cần thiết cho công việc ngoại giao của mình.
Trong các thi tập sứ trình thời kỳ này, phần thơ xướng họa chiếm số lượng đáng kể. Đó là những bài thơ viết để đáp, tặng quan lại Trung Hoa và sứ thần các nước khi có dịp diện kiến.  Đây là loại thơ mang tính xã giao nghi lễ nhằm mục đích bang giao nên thường được viết theo qui cách, công thức nhất định. Tuy nhiên do đặc điểm của đối tượng xướng họa (các sứ thần – văn nhân) nên việc xướng họa thơ văn cũng là dịp để các sứ thần – văn nhân Việt Nam khoe tài và bày tỏ tình cảm của mình với văn nhân các nước: niềm cảm mến tài năng và nhân cách,  ý thức về vẻ đẹp văn chương. Việc đối thoại dẫn đến hiểu biết, cảm mến lẫn nhau của quan lại, sứ thần các nước thông qua con đường văn chương phản ánh đặc điểm độc đáo của hoạt động bang giao thời trung đại. Câu chuyện về mối thâm giao giữa sứ thần Việt Nam Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Khuê, Lê Quí Đôn....với các sứ thần Trung Hoa và Triều Tiên như Trác Sơn Thị, Hồ Tú Tài, Doãn Đông Thăng, Lý Huy Trung, Hồng Khải Hy.... đã chứng minh ý nghĩa to lớn của thi ca bên cạnh những hình thức và lợi thế ngoại giao khác.
Ngay cả trong thời hiện đại, với sự phát triển của nền văn minh công nghiệp, sự bùng nổ của các phương tiện kỹ thuật và hình thức giao lưu nhằm mục đích tối đa hóa đối thoại giữa con người với con người, thơ ca cũng chưa bao giờ đánh mất uy thế của một sứ giả văn hóa trong sứ mệnh kéo gần khoảng cách giữa các dân tộc. Với ý nghĩa đó, câu chuyện ngoại giao trong quá khứ dẫn ra trên đây vẫn luôn là bài học khiến chúng ta phải suy ngẫm.
---

ĐỖ THU THỦY

(Bài đã in trong kỷ yếu hội thảo Văn hóa đối ngoại thời kỳ hội nhập – Trường ĐHVH HN tháng 11/2011)
______________________________

Chú thích:
(1)                      Đại Việt sử ký toàn thư, khảo cứu và giới thiệu bởi nhiều tác giả, Nxb KHXH –Ns Đông A, H.2010, tr 137 – 138
(2)                      Từ ttp://www.mofa.gov.vn/vi/vd_quantam/nr090310093719/nr090331155753/ns090401170845.
(3)                      Nhiều tác giả, Thơ đi sứ, Nxb KHXH, H.1993, tr8 – 9
(4)                      Hoàng Ngọc Hiến, Luận bàn minh triết và minh triết Việt, Nxb Tri thức, H.2011
(5) Dẫn theo Xuân Hòa, Ngoại giao văn hóa




[i][1] Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Năm 987, nhà Tống sai Lý Giác sang sứ. Khi đến chùa Sách giang, vua sai pháp sư tên Thuận giảm người coi sông ra đón.Giác rất thích nói chuyên văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước, Giác vui ngâm rằng:
                                    Nga nga lưỡng nga nga
                                    Ngưỡng diện hướng thiên nha
                                    (Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
                                    Ngửa mặt nhìn chân trời)
Pháp sư đương cầm chèo, theo vầnm nối đưa cho Giác xem:
                                    Bạch mao phô lục thủy
                                    Hồng trạo bãi thanh ba
                                    (Nước lục phô lông trắng
                                    Chèo hồng sóng xanh bơi)
Giác càng lấym lạ, khi về đến sứ quánm bài thơ gửi tặng:
May gặp thời bình được giúp mưu
                              Một mình hai lượt sứ Giao Châu
                              Đông Đô mấy độ còn lưu luyến
                              Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu
                              Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm
                              Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu
                              Ngoài trời lai có trời soi nữa 
                              Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu
Thuận đem thơ này dâng lên. Vua cho gọi sư Khuông Việt đến xem. Khuông Việt nói: thơ này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống. Vua khen ý thơ, tặng cho rất hậu. Khi Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt m bài hát để tiễn, lời rằng:
                              Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương
                              Thần tiên lại đế hương
                              Vượt sóng xanh muôn dặm trùng hương
                              Về trời xa đường trường
                              Tình thắm thiết,
                              Chén lên đường
                              Vin xe sứ vấn vương
                              Xin đem thâm ý vì Nam cương
                              Tâu vua tôi tỏ tường
Giác lạy ra về. Năm ấy được mùa to

No comments:

Post a Comment