Khát vọng về một tình yêu thần thánh
(Đọc Bản sonate hoang dã của Trần Nhuận Minh)
Đặng Văn Sinh
(Đọc Bản sonate hoang dã của Trần Nhuận Minh)
Đặng Văn Sinh
Bản sonate hoang dã* là tập trường ca văn xuôi
tản mạn về những quy luật được nhận thức dưới nhiều góc độ khác nhau. Đây là
thư thơ “phản thơ” mà công năng của nó là phá vỡ cấu trúc tĩnh tại của mọi hiện
tượng, phát hiện những mối tương quan phi logic trong bản chất vạn vật, xác
nhận những cơ chế tiếp nhận, hình thành những khái niệm mới khác hẳn lối xây
dựng hình tượng của mỹ học truyền thống. Tập thơ có phổ khá rộng, luận đủ về
mọi thứ trên trời dưới biển, từ Đấng Sáng tạo toàn năng đến con sâu cái kiến,
từ những hiện tượng tự nhiên như trăng sao, giông bão, sấm sét đến những biến
thái vi diệu nhất trong ý thức, tiềm thức và cả tầng vô thức của con người
thông qua cái tôi trữ tình.
Hình tượng quán xuyến toàn bộ tác phẩm là cái tôi trữ tình nhưng đây là cái tôi
luôn biến động, lúc hữu hình, lúc vô ảnh, lúc là hiện thực khách quan, lúc chỉ
là giả tưởng. Cái tôi ấy cố khi thăng hoa đạt đến “Đạo”, biến thành “vô vi”, bỏ
qua mọi sự ràng buộc, đứng chênh vênh giữa giới hạn của hai bờ “sắc - không”.
Song hành với cái tôi là Đấng Mê Tơi,
một thứ quền lực tối cao, bí hiểm, có quyền năng sáng tạo và chi phối hành vi
của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Đấng
Mê Tơi có khi hiện diện như là chúa tể muôn loài, lúc lại ẩn tàng trong
phần vô thức của mỗi cá thể sinh vật. Phần vô thức này hầu như không lý giải
được nhưng lại vô cùng nhạy cảm như là động lực của quá trình sáng tạo nghệ
thuật. Nó biến dạng theo những quy luật đặc thù mà chỉ xuất hiện trong những
khoảnh khắc nhất định. Quá trình vận hành của lối tư duy này là cùng một lúc
cái tôi thâm nhập vào cả hai thế giới vĩ mô, tức vũ trụ và thế giới vi mô, tức
tâm hồn con người để tìm ra sự liên hệ hữu cơ giữa những nấc thang giá trị,
đồng thời trả lời cho được câu hỏi “Tôi là ai?”.
Trật tự thế giới tự nhiên được sắp xếp thành những dãy số huyền bí, là
thứ quy luật vừa hợp lý,vừa không hợp lý vượt ra ngoài nhận thức lý tính. Ở
đây, tác giả đưa ra những tiên đề và phản tiên đề. Các cặp “phạm trù” này luôn
sóng đôi nhau trong suốt hành trình thơ. Đó là những cặp “phạm trù ngược”,
những hình tượng siêu thẩm mỹ, gây ấn tượng nặng nề, bức bối :
Ta vào chỗ không thành có
Ta vào chỗ có thành không
Này này
Nhìn kỹ cá hóa chim
Lại nhìn kỹ hơn chim hóa cá
Ta dễ dàng nhận ra, Bản sonate hoang dã
có nhiều đoạn thơ cấu trúc bị đảo ngược thậm chí phi lý như là vũ trụ thuở hồng
hoang qua cái nhìn cấu trúc luận. Hình như nhà thơ muốn kéo lùi thời gian trở
lại tình trạng nguyên thủy, chẳng cần tư duy logic mà đào sâu vào tầng vô thức,
tìm bản chất của thế giới tự nhiên trong cơn cuồng loạn sau “vụ nổ đầu tiên”. Ở
nơi khởi nguồn ấy, dường như cái tôi nhận chân được sự sống vĩnh cửu là Im Lặng, vứt bỏ mọi khái niệm truyền
thống, mọi mối liên hệ tuyến tính, các hệ quy chiếu và những quy ước giáo điều.
Thế giới hình tượng ở đây là thế giới lưỡng phân, hai mảng sáng tối phân tầng
và luôn được xem xét trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Từ học thuyết Âm
Dương, tác giả mở rộng khái niệm luận về Quân tử- Tiểu nhân, Thánh hiền- Quỷ
sứ, Nhà thơ- Kẻ trộm, Thiện – Ác…tất cả đều mặc nhiên tồn tại trong quỹ đạo của
riêng mình và vận hành bởi mối quan tương hỗ. Khi lên sân thượng ngắm trăng,
nhà thơ cảm nhận về ánh trăng trong một không gian thật lung linh, huyền ảo.
Những dòng suy tưởng về trăng đầy vẻ hào hoa, sang trọng chứng tỏ cái đẹp có
chức năng điều hòa những mối quan hệ đối nghịch. Thế nhưng, khác với ánh trăng
trong Nhà thơ và hoa cỏ vốn dĩ hiền
hòa, thanh khiết , ở đây tác giả đột ngột kết luận : Cái giả dối hào hoa của ánh Trăng/ đâu có bị cái thuần phác của Mặt Đất
xua đuổi / và Cái Màn Đêm phản trắc
đầy cạm bẫy, đâu có bị cái ánh Ngày chính trực anh minh ruồng bỏ.
Vậy bản chất của Bản sonate hoang
dã là gì? Ta tạm gọi đó là bản đại hòa tấu, phức hợp, nhiều bè, nhiều
chất giọng của thế giới tự nhiên do Đấng
Mê Tơi cầm đũa chỉ huy. Ở đó, con người chỉ là nốt móc kép nhỏ nhoi. Thế
giới tự nhiên, muôn loài sống trong môi trường cộng sinh phụ thuộc và chi phối
lẫn nhau, trong đó tồn tại cái Thiện và cái Ác như là chân lý vĩnh cửu.
Ở hầu hết các đoạn thơ, cái logic và phi logic luôn sóng đôi bên nhau, chốc
chốc lại vụt lên những hình tượng đầy ngẫu hứng. Trần Nhuận Minh luôn lật
ngược, lộn trái các hiện tượng, sau đó cân đo định lượng và định tính bằng
những nhận xét đầy trí tuệ. Hình tượng con ve sầu phủ định mùa xuân là một ví
dụ. Đối với chúng, chỉ có mùa hè, còn Mùa
xuân là cái Không Hề Có. Cũng như những tập đoàn độc tài theo chủ nghĩa cực
đoan, luôn duy trì tình trạng một mình một chiếu tên sân khấu chính trị, ve sầu
chỉ thừa nhận những gì phù hợp với tập tính của giống loài. Chúng thiếu hẳn một
thứ luận lý đa nguyên mang tính phổ quát vốn là bản chất của Đấng Mê Tơi. Bàn về nghệ thuật, ta có
thể gặp những đoạn tác giả suy tôn thơ là thứ báu vật của thần linh mà con
người rình mò lấy trộm được. Vì là sản phẩm của Thượng Đế nên thơ cũng mang tâm hồn hoang dã. Theo ông, người không
có ý làm thơ mà ngẫu nhiên thành thơ mới là thơ hay, tức là cái phần vô thức
sinh ra, dù vậy, nó vẫn là thứ ánh xạ mờ nhạt của Đấng Tối Cao. Thơ hay phải tự nhiên như không, nghĩa là phải đạt
đến độ không tuyệt đối, tiếp nhận
dạng cấu trúc siêu ngôn ngữ được rút ra từ màu sắc, âm thanh của đất trời và
vạn vật :
Này đây, dòng máu tôi trong suốt chảy
ngoằn ngoèo
từ ghềnh đá suối Côn Sơn hoang lạnh tơi
bời
Khách khứa hai ngàn núi xanh
Này đây, quả tim tôi treo ở ngoài lồng ngực
Số phận chúng sinh làm nó tự
binh bong…
Những chất liệu truyền thống làm nên thơ hầu như bị loại khỏi cuộc chơi. Gió
trăng và mây trắng trở nên vô nghĩa .Cái phi lý được xác lập hình thành nên một
dải cấu trúc giả tưởng. Tính hệ thống bị phá vỡ, vì thế trật tự ngữ nghĩa cũng
như nội dung thông báo đều được sắp xếp lại :
Bây giờ tôi
Tự treo ngược mình
lên câu thơ đây
Chân tôi giần giật suy nghĩ
Tóc tôi chạm cỏ xanh
nhàu nát như cỏ xanh
Và tôi thấy quê hương tôi
Là ở trên trời…
Từ
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, tác giả khẳng định giá trị của thi ca. Thơ của những
bậc “chân nhân” có sức tung phá như
sấm sét nhưng lại hiền hòa êm dịu như ánh trăng. Đó là những câu thơ định mệnh,
có thể làm quỷ khốc thần sầu. Viết về
Ức Trai, nhà thơ ngậm ngùi :
Cụ đâu biết sớm mai
Cùng với mặt trời lên
Câu thơ phải rơi đầu…
Thế
giới hoang dã của Trần Nhuận Minh có những câu thơ khoa trương, đầy tính ước lệ
mang âm hưởng anh hùng ca., kỳ vĩ, hoành tráng, thậm chí rùng rợn: Răng đá, miệng cây, quạ rít lưỡi trong chiều
âm u, cái lạnh như lưỡi cưa xẻ chéo tầng đá xám…Cái tôi lúc này có vẻ như
quá chật chội với những khái niệm mòn cũ. Nó đòi hỏi phải tìm ra một lời giải
mới về sự tồn tại và không tồn tại cho dù cái tôi ấy đã “bò toài trên mặt đất sáu mươi năm”.
Vạn
vật phát triển trong một chu trình kín và đều bình đẳng với nhau nếu nhìn dưới
con mắt Đạo. Đó chính là tư tưởng
triết học của thế giới tự nhiên. Hình ảnh Đức Vua bị cầm tù trên ngai vàng bởi
chính quyền lực của mình và kẻ Hành Khất được tự do bởi chính sự lang thang đói
khát của anh ta là một luận cứ đầy sức thuyết phục. Cũng như vậy, cái mỏ chim,
con sâu và mũi tên dưới bóng cây phản ánh mọi quá trình sống đều có sự liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau. Nắm được quy luật ấy, người ta sẽ an nhiên tự tại. Ông Vua
và kẻ Hành Khất không thương nhau được bởi họ ở những vị trí khác nhau. Mối
liên hệ giữa con sâu, cái mỏ chim và mũi tên chính là biểu hiện cụ thể, sinh
động của quy luật sinh tồn. chúng tồn tại bằng ký ức truyền kiếp. Con người
không nên nhân danh quyền chúa tể chiếm hữu tự nhiên, đối đầu với tự nhiên sẽ
đến một lúc nào đó thiên nhiên sẽ trả thù bằng sự hủy diệt.
Cái tôi ở đây không ít trường hợp bị tách ra làm hai, một cái tôi sinh vật và
một cái tôi nghệ sĩ. Cái tôi sinh vật có khi nhếch nhác, hoang dã, nhưng cái
tôi nghệ sĩ, khi tìm vào vô thức không hiếm trường hợp lại đẻ ra những kiệt
tác. Hai cái tôi ấy không phải lúc nào cũng hòa hợp mà chưa biết chừng còn xung
đột với nhau trong mối tương quan có vẻ như phi lý. Cái tôi ở đây hiện diện như
một khái niệm lưỡng phân trong triết thuyết hiện sinh hoặc tính đa diện của bản
thể luận, hình thành bởi một thế giới ảo :
Tôi gõ vào vách đá,núi Bài Thơ
…
Cánh cửa đá đã mở
Và bên trong
Tôi thấy một thiếu nữ dịu dàng
…
Tôi gõ vào ngực tôi
Tôi ơi, mở cửa ra
Cánh cửa tôi đã mở
Và tôi thấy chả có gì…
Đối với người nghệ sĩ, tìm vào thế giới tự nhiên dường như lại dễ dàng hơn là
đi tìm chính mình. Đó là thứ tìm kiếm nhọc nhằn nhất mà kết quả thường là thất
bại.
Bàn về quy luật tự nhiên, tác giả còn có những dẫn chứng khá sinh động
thông qua hình ảnh con cò, con ếch, con cua, con kiến…, sau đó làm một cuộc đối
thoại tưởng tượng với Đấng Mê Tơi.
Đây là một cuộc đối thoại mang tính biểu tượng. Đấng Mê Tơi và cái tôi vô
thức có lúc nhập vào nhau, chứng tỏ, trong mỗi con người đều tiềm tàng một
năng lực thần thánh. Đấng Mê Tơi trả
lời không theo trình tự logic học mà bằng những khái niệm mơ hồ, tiên nghiệm
hoặc tiên đề Như thế là như thế hoặc Như thế không phải là như thế. Tác
giả bắt chước Tạo Hóa, dùng thứ triết lý dân gian nguyên thủy để diễn đạt các
quy luật tự nhiên. Xuyên suốt toàn bộ tập thơ là những phạm trù, những khái
niệm, những mâu thuẫn, sự đối lập, cái sống, cái chết và cảm quan yêu ghét…bằng
một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều tầng, khác hẳn một Trần Nhuận minh thế sự
trong Nhà thơ và hoa cỏ.
Liên hệ quy luật vận hành kỳ diệu của thiên nhiên với bản thân cái tôi
nghệ sĩ, anh xem đó như là định mệnh, một thứ bí mật di truyền trong bộ nhiễm
sắc thể. Hình ảnh con đom đóm vụt bay ra
từ tối sẫm ao bèo để khẳng định cái tôi ấy dẫu có gan dám lục vấn Đấng Mê Tơi nhưng xét đến cùng, quy mô cũng nhỏ thôi. Một vấn đề
luôn được nhắc đi nhắc lại như nỗi ám ảnh là cái tôi tồn tại trong trời đất với
tư cách gì? Giá trị tự thân của nó được xác định bằng thứ đại lượng nào? Từ ý
tưởng đó, anh làm một cuộc tổng kết cuộc đời, đó là những trải nghiệm vượt lên
lên trên sự sinh tử, được mất :
Tôi quẩy trĩu đôi bầu hoang tưởng
bên này hình sắc
và bên kia không hình sắc
Chúng chẳng cân nhau
Khấp khểnh đi
bước thấp bước cao
vừa trọn một vòng đời.
Bản sonate hoang dã gần như từ bỏ
thi pháp truyền thống, phát triển hành động theo trình tự tư duy phi logic xác
lập một dạng cấu trúc mới theo lý thuyết tiếp nhận. Rất nhiều đoạn thơ được bỏ
lửng có chủ ý, có những câu bắt buộc ta phải dùng phương pháp tư duy ngược, đi bằng đầu và suy nghĩ bằng chân :
Vòm ngực em là hũ rượu thơm
Quỷ sứ rót đầy
Chưa uống đã trông thạch sùng hóa cáo
…
Cặp đùi em như hai lưỡi kéo
Khép lại dịu dàng
Có thể cắt đứt đời nhiều hảo hán…
Cái tôi ở Trần Nhuận Minh có lúc tưởng như mâu thuẫn trong qúa trình nhận thức
bản thể nhưng anh đã có những kiến giải khá thuyết phục bằng hàng loạt hình
tượng thơ: Nước sông ra biển bằng xác, bay về rừng bằng hồn trong khi dòng sông
chỉ là một. Cây cầu bắc qua sông làm nó mất
giới tính, đất sắp xếp lại ý nghĩ
còn các vòm cây điều chỉnh lại hướng nhìn.
Cây cầu, một mặt có lợi cho dân sinh, nhưng mặt khác, nó phá vỡ hệ cân bằng,
làm thiên nhiên bị tổn thương, vạn vật vì vậy phải có phản ứng tự vệ. Một yếu
tố không kém phần quan trọng được đặt ra trong tập thơ là những quy luật sáng
tạo nghệ thuật lại phụ thuộc vào quy luật vận hành của Tạo Hóa. Trái đất
nghiêng 23 độ, câu thơ cũng nghiêng 23 độ, và cô gái ngả vào lòng người yêu
trong đêm cũng là 23 độ. Bằng phương pháp lưỡng phân, tách đôi bản thể, đào sâu
vào tầng vô thức, tác giả nhìn thấy cái tôi nọ chứng kiến cái chết của cái tôi
kia. Cái tôi thứ hai trượt ra khỏi quỹ đạo sinh tử, cảm nhận về cái chết vừa
thảm thiết vừa dửng dưng. Nó tìm được quy luật vàng : Sự chết là tươi đẹp:
Nếu tất cả mọi người
Từ thượng cổ
Đều sống cùng chúng ta
Thì thế giới này
Khủng khiếp đến nhường nào…
Về thao tác nghệ thuật, Bản sonate hoang
dã được hình thành trên những dạng cấu trúc mở với vô số hình ảnh, sự kiện
được sắp xếp theo trật tự phi logic mà điểm nhấn của nó bao giờ cũng là tình
yêu. Tình yêu tồn tại dưới nhiều dạng thức, không chỉ con người mà cả cây cỏ,
hoa lá, ếch nhái, côn trùng…Đó là thứ tình yêu dịu dàng thần thánh luôn hàm
chứa khát vọng hoang dã về một thế giới hài hòa tồn tại dưới sự bảo trợ vĩnh
hằng của Đấng Mê Tơi.
Chí Linh, xuân Giáp Thân
ĐẶNG VĂN SINH
Tuần
báo Văn nghệ số
21 ( 22 / 5 / 2004)
No comments:
Post a Comment