Đã 40
năm trôi qua, nhưng mãi tới bây giờ tôi vẫn không thể nào quên được cái
không khí vừa trầm mặc, vừa bức bối trong xế chiều hôm ấy. Hôm ấy
là thứ Tư ngày 26 tháng 5 năm 1971, chúng tôi gồm 19 anh chị em học
viên khóa 4 của trường Bồi dưỡng Viết văn thuộc Hội Nhà văn Việt Nam
- khóa Viết văn đặc biệt phục vụ chiến trường - sau khi đào tạo xong
được đưa vào Khu V (khóa này có 73 học viên được đưa đi các chiến
trường B, K, C) - đang nghỉ tại một trạm khách ở H40 - Kon Tum thì có
một người tự giới thiệu mình là Tiến, cán bộ văn phòng Ban Tuyên
huấn Khu ủy Khu V đến đón chúng tôi về cơ quan Ban.
Sáng hôm sau sẽ rời trạm khách. Tối ấy, sau bữa cơm, trong khi trò chuyện làm quen, anh Tiến có bục ra hai cái tin khá căng thẳng: Vùng căn cứ địa của Khu ủy Khu V vừa mới bị Mỹ-ngụy càn quét, đánh phá ác liệt. Và trong nửa đầu tháng 5 này, Ban Tuyên huấn Khu ủy đã có hai cán bộ phóng viên hy sinh. Đó là anh Nguyễn Mỹ (nhà thơ Nguyễn Mỹ - tác giả bài thơ nổi tiếng: Cuộc chia ly màu đỏ) cán bộ của tiểu ban Tuyên truyền và anh Trần Tiến (nhà văn Chu Cẩm Phong), cán bộ của tiểu ban Văn nghệ. Thú thực khi nghe tin ấy, trong khoảnh khắc ban đầu thoảng có chút lo sợ nhưng ngay sau đó dường như ai nấy đều tỏ ra bình thản và coi đó như một lời cảnh bảo, nhắc nhở về sự ác liệt, còn mất của chiến trường. Bởi lúc bấy giờ, với tuổi trẻ chúng tôi, những người vừa mới rời giảng đường đại học, được vào miền Nam công tác, chiến đấu là lý tưởng cao cả, thiêng liêng, là háo hức được “đi theo ánh lửa từ trái tim mình”.
Và để được vào chiến trường miền Nam, đã rất nhiều thanh niên tìm đủ mọi cách để được đi, thậm chí có người chích cả máu viết thư tình nguyện. Với lớp viết văn, viết báo trẻ chúng tôi, được vào chiến trường miền Nam để sống và viết lại là một niềm tự hào, một vinh dự lớn lao.
Tuy
nhiên, gần như suốt đêm hôm ấy chúng tôi lại không sao chợp mắt nổi.
Bởi anh Vũ Xuân Mai (nhà thơ Trần Vũ Mai) - người quen biết và cùng
làm biên tập ở Nhà xuất bản Phổ thông với anh Nguyễn Mỹ, cứ lúc
lúc lại kể chuyện về Nguyễn Mỹ và cứ đọc rồi bình “cái lạ”, “cái
mới”, “cái hay” về bài thơ “Cuộc chia ly màu đỏ”. Còn
nhà thơ Ngô Thế Oanh - người bạn học của anh Trần Tiến-Chu Cẩm Phong
hồi ở trường học sinh miền Nam và ở khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp
Hà Nội thì cứ nằm trên võng lẩm nhẩm: “Sao lại thế? Sao lại thế anh
Tiến!”
Căn cứ địa của Khu ủy bị Mỹ-ngụy càn quét, đánh phá ác liệt; anh Nguyễn Mỹ và anh Trần Tiến-Chu Cẩm Phong hy sinh chỉ là những thông tin bình thường trong cuộc chiến mất còn thời ấy vào cái chiều đầu tiên chúng tôi đến đất Khu V, nhưng lại là những thông tin mang đậm tính chỉ bảo, răn dạy cho lớp viết trẻ chúng tôi những năm sống, đi viết trên chiến trường Trung Trung bộ.
19 anh
em chúng tôi khi về đến Ban Tuyên huấn Khu ủy Khu V thì được nhận về
các bộ phận của Ban. Nguyễn Đức Hạt, Nguyễn Khắc Phục, Trần Vũ Mai,
Ngô Thế Oanh, Từ Quốc Hoài (Nguyễn Văn Giáo), Bùi Thị Chiến, Nay Nô,
Hoàng Sơn (Hoàng Minh Nhân), Đoàn Tử Diễn (Hà Phan Thiết), Trần Văn
Thành (Phan Nghĩa An), Đỗ Văn Đông, Hoàng Hởi và tôi được phân về tiểu
ban Văn nghệ (Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ); Trần Trung Kiên,
Phạm Văn Song về báo Cờ Giải phóng; Trần Hữu Huy về Huấn học;
Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Bảo, Vũ Thị Hồng, Nguyễn Hồng (hy sinh tại
Điện Bàn năm 1973) về Ban Văn học-Cục Chính trị Quân khu V. (Vào Khu V
khóa này sau đó còn có anh Nguyễn Văn Giai về văn phòng Khu ủy, anh
Ngô Quy Nhơn về Ban Tuyên huấn Quảng Nam, anh Lê Đình Nghi về Báo Giải
phóng Quảng Đà, anh Nguyễn Thế Khoa về đoàn Ca múa nhạc Trung Trung
bộ).
Gần 3
tháng ở lại văn phòng Ban (bấy giờ đóng trên địa bàn giáp giới giữa
xã Trà Leng-Nam Trà My và xã Phước Thành-Phước Sơn) vừa làm nhà,
làm rẫy, gùi cõng vừa học nghị quyết, chỉnh huấn. Mãi đến ngày 21
tháng 8 chúng tôi mới được đưa về tiểu ban Văn nghệ, bấy giờ đóng ở
khu B (gần nóc ông Để, xã Ngheo - nay là xã Trà Ka, huyện Bắc Trà My)
cách khu A của Khu ủy hơn 2 ngày đường. Thời điểm ấy, vùng Tây Quảng
Đà và Tây Quảng Nam, Quảng Ngãi vừa trải qua cuộc càn quét, đánh
phá dữ dội của Mỹ-ngụy (từ tháng 4 đến giữa tháng 5-1971) nên tất
cả các cơ quan của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V cũng như bà con các
dân tộc trong vùng đều lâm vào cảnh đói, đau, thiếu thốn ngặt nghèo.
ở tiểu ban Văn nghệ, một người mỗi ngày chỉ được căn hơn nửa lon gạo
“bọc thép” (loại gạo rẫy, hạt đỏ phải nấu hơn nửa giờ mới chín).
Muốn chặt bụng, phải kiếm ruột dớn, củ móng ngựa, măng nứa, rau
rừng độn thêm; còn thức ăn thì chỉ độc muối hầm (vừa đủ mặn, vì
thiếu muối), nước mắm cái chưng nhàn nhạt, tanh lợm. Có đêm đói quá,
nghe đài, tán đủ chuyện kim cổ, đông tây vẫn không tài nào ngủ được
vì bụng cứ òng ọc, cồn cào. Để đánh lừa đám viết “tân binh” chúng
tôi, anh Quốc (nhà thơ Bùi Minh Quốc-Dương Hương Ly) bèn nhả cho chúng
tôi những món ăn đặc sản của Hà Nội thơm nức mùi thịt bò, mùi cua
đồng của phở hoặc bún riêu v.v... Kể xong một món ăn cực ngọn như
thế, anh dừng lại. Anh em nuốt nước bọt ừng ực, thòm thèm, giục anh
kể tiếp món khác, anh đằng hắng, chặc giọng, vẻ dứt khoát: “Thôi,
tối nay ăn một món, để dành tối mai”. Nhà thơ Vương Linh (Hải Lê - anh
em thường gọi là Vương lão tổ), thủ trưởng cơ quan, một con người
từng trải, điềm tính, thấy vậy cứ dụi mắt, giọng trầm buồn, trách
khéo anh Quốc: “Cậu lại bắt chước thằng Tiến. Bắt chước Tiến răng
được. Giá như Tiến còn sống...”. Còn các anh Cao Duy Thảo, Thanh Quế,
Hiền Minh thì cứ khực khực cười.
Đến
ngày lễ 2-9, cơ quan làm thịt một con heo to 6 nắm (khoảng gần 60kg
hơi, con heo được nuôi để chờ đoàn chúng tôi vào). Lâu ngày không được
ăn thịt, sau bữa liên hoan, nhiều anh lăn ra sốt rét, có người sốt
nặng, khi đi vệ sinh phải có người dìu hoặc bò bằng hai tay. Thấy
thế, nhà thơ Vương Linh lại chặc lưỡi: “Cố lên, phải như thằng Tiến
đó!”. Hầu hết anh em mới vào chưa biết nhiều về anh Tiến, nhưng cứ
có chuyện gì gặp khó trong cơ quan, ở từng người, anh Vương Linh lại
nhắc tới anh Tiến để nhắc nhở anh em noi theo.
Đến
đầu tháng 10, chúng tôi được đưa đi suốt lúa rẫy. Năm ấy, tiểu ban Văn
nghệ làm được hai rẫy lúa. Một rẫy cách chỗ ở cơ quan chỉ dăm bảy
phút đường. Còn một rẫy ở bên kia Nước Ngheo, cách cơ quan gần 20
phút. Bọn tôi được biết, cả hai rẫy này đều do anh Tiến nhờ đồng
bào Cơdong ở xã Ngheo tìm đất rồi anh chỉ huy anh em cơ quan phát,
chặt cây, gieo tỉa, chăm sóc (Nhật lý anh Trần Tiến-Chu Cẩm Phong ghi
rất kỹ về những việc này). Nhưng cái rẫy bên kia Nước Ngheo không
hiểu sao lúa lại rất tốt và sây mẩy hạt quá đỗi. Khi ra rẫy tuốt
lúa, chúng tôi thực sự kinh ngạc vì những cây rừng to đến hai ba
người ôm bị đốn ngã chỉ bởi những bàn tay chỉ quen cầm bút, cầm cọ,
cầm đàn v.v... như Chu Cẩm Phong, Phan Huỳnh Điểu, Bùi Minh Quốc, Cao
Duy Thảo, Thanh Quế, Giang Nguyên Thái... Trong đó, người dựng choái để
đốn chặt những cây đại thụ suốt từ ngày này sang ngày khác lại chỉ
có một mình anh Tiến (bấy giờ chỉ vì phải có cái ăn để sống nên
đành phá rừng). Sau hôm suốt lúa rẫy, chúng tôi được ăn một bữa cơm
không thật no. Nhìn anh em chúng tôi ăn uống vui vẻ, anh Vương Linh lại
dụi mắt: “Giá như thằng Tiến còn sống. Thật tội cho nó...”.
Cứ
mỗi lần anh Vương Linh hay anh Quốc, anh Thảo, anh Quế nhắc tới anh
Tiến về lối sống, về phong cách làm việc, đám “tân binh” viết văn
chúng tôi lại hỏi nhau: “Không biết ông Tiến là người thế nào mà
được mấy ông trong cơ quan phục thế”.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, ở chiến trường Khu V, dường như năm
nào đội ngũ văn nghệ, báo chí của Khu V đều có người hy sinh. Riêng
dọc hai bên bờ sông Thu Bồn, từ sườn Đông dãy núi Ngọc Linh về tới
Cửa Đại từ 1967 đến 1971 đã có 6 anh em văn nghệ sĩ ngã xuống. ở
đầu nguồn, bên suối Đák Ta (xã Trà Dơn, huyện Nam Trà My) là nơi nhà
thơ Nguyễn Mỹ ngã xuống. Anh bị lính ngụy giết hại vào sáng ngày
16-5-1971 trong đợt chúng càn quét, đánh phá vào khu căn cứ địa của
Khu ủy Khu V. Xuôi sông Tranh, về tới đất Phước Trà, Hiệp Đức là nơi
yên nghỉ của họa sĩ Hà Xuân Phong. Xuống tới thôn Vinh Cường, xã Duy
Tân huyện Duy Xuyên là mảnh đất mà nhà văn Trần Tiến-Chu Cẩm Phong và
ba đồng đội đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng với câu nói nổi
tiếng: “Các đồng chí không được đầu hàng. Hãy đánh đến cùng...”.
Vẫn xuôi sông Thu, đến đất La Tháp-Duy Châu là đất mà con “chim thiên
nga” Võ Thị Phương Thảo - một biên đạo múa xinh đẹp và tài năng, nằm
lại với tuổi đôi mươi. Còn ở phía Gò Nổi, trên đất Điện Bàn là nơi
nhạc sĩ Văn Cận và nhà thơ-nhà báo Nguyễn Trọng Định hóa thân vào
đất đai trong khi đang phục vụ cho chiến dịch Tổng tấn công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân-1968.
Đến Bắc cầu Bà Rén cách trăm mét, rẽ về phía Đông quốc lộ 1A chừng gần 2 cây số là nơi nhà văn nữ-người con gái Hà Nội-Dương Thị Xuân Quý ở lại với Xuyên Tân-Duy Thành mà nhà thơ Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc) chồng chị đã viết: “Thôi em nằm lại với đất lành Duy Xuyên. Trên mồ em có mùa xuân ở mãi...”. Mặc dù ác liệt, hy sinh như thế, nhưng vừa tới chiến trường Khu V, anh em chúng tôi ai nấy đều háo hức xin được đi xuống vùng sâu (khu căn cứ lõm, nằm sâu trong vùng địch) hoặc các tỉnh ở xa như: Khánh Hòa, Phú Yên, Đák Lák, Gia Lai. Đi, sống để viết bấy giờ như là một công việc tất yếu, một nhu cầu bức thiết đối với chúng tôi, và cũng là nhiệm vụ hàng đầu mà cuộc chiến đấu đòi hỏi chúng tôi phải phục vụ.
· Đến
cuối năm 1997, sau ngày tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng tách lập, tôi vào
Quảng Nam công tác, được có điều kiện đi tới nhiều vùng đất của
Quảng Nam từ miền núi tới đồng bằng. Điều thật bất ngờ là khi tôi
đến một số làng ở các huyện Nam-Bắc Trà My, ở Tây Giang, Đông Giang,
ở Duy Xuyên, Thăng Bình, trong khi trò chuyện tìm hiểu tung tích của
nhau với một số cán bộ, bà con ở căn cứ hay ở vùng lõm, vùng giải
phóng của đồng bằng, khi biết tôi thời chiến tranh công tác tại Hội
Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ có người hỏi: “Rứa anh ở cùng với
anh Tiến à. Giờ anh Tiến ở đâu, có khỏe không?”. ở thôn Đák Ôốc, xã
Ladêê (huyện Nam Giang nằm trên đường 14D, nay có cửa khẩu Đák Ôốc đi
tỉnh Xê Kông của nước Lào), chị Zơ Rơơm Thị Nhuôm - nay đã vào tuổi 80
(mà trong đoạn nhật ký từ ngày 1-7-1970 đến 15-7-1970 anh Chu Cẩm Phong
ghi rất kỹ), khi nghe tôi nói anh Tiến-Chu Cẩm Phong đã hy sinh từ hồi
tháng 5-1971 và vừa được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng
Vũ trang thì chị cứ nắm hai bàn tay bóp chặt vào nhau, miệng mấp
máy như tắc nghẹn: “Thương anh Tiến quá. Nó giỏi tiếng Cơ Tu, giỏi cả
tiếng T’riêng, dạy hát hay, dạy đóng kịch khéo, người tốt như nó răng
lại chết...”. ở Pàoi, ở Kondót của xã Laêê lại khen anh: “anh Tiến
làm rượu Tà vạk, đi săn, đan gùi giỏi...”. Về xã Bình Dương của Thăng
Bình (xã được ba lần tuyên dương đơn vị Anh hùng) bà con ở đây đều có
rất nhiều lời khen dành cho anh.
Đến
đầu năm 2001, khi tiến hành dựng bia tưởng niệm về anh và đồng đội hy
sinh dưới căn hầm bí mật vào sáng ngày 1-5-1971, tôi được gặp rất
nhiều đồng chí là cán bộ, là du kích và bà con trụ bám của thôn
Vinh Cường, xã Xuyên Phú (nay là Duy Tân, Duy Phú). Họ đã kể về anh
những ngày về Xuyên Phú cùng cán bộ đánh địch, trụ bám, vào khu
dồn An Hòa vận động bà con diệt ác, phá kèm, cùng cán bộ xã đội,
xã ủy lập phương án trụ bám, đánh địch với những lời kính trọng,
thán phục. Bấy giờ họ chỉ coi anh Tiến như một cán bộ lãnh đạo
gương mẫu từ Khu xuống và không hề biết anh là một nhà văn về lấy
tài liệu để viết v.v...
Từ
những chuyện, những câu nói về anh của những người sống bên anh, gần
gũi, thân thiết với anh kể, tự nhiên trong tôi càng ngày càng thêm quý
trọng, khâm phục anh.
Đặc
biệt sau khi tập “Nhật ký chiến tranh” của anh được xuất
bản, đọc đi đọc lại nhiều lần, tôi nhận ra một điều: Chu Cẩm Phong
là một nhân cách lớn, một nhà văn-chiến sĩ đích thực. Với anh, tài
năng văn chương mới đang từng bước hé lộ, nhưng cách nghĩ, cách làm,
cách sống được thể hiện trong từng dòng nhật ký của anh, sự nhận
biết của những người một thời sống như anh đã chứng minh rằng, để
trở thành một nhân cách lớn, trước hết chính anh đã làm một công dân
tốt. Khi số phận của nhân dân, của dân tộc bị thách thức, đe dọa thì
trách nhiệm công dân càng phải được đặt lên hàng đầu. Chính điều này
đã trở thành máu thịt trong con người viết văn-chiến sĩ: Anh
hùng-nhà văn-liệt sĩ: Trần Tiến-Chu Cẩm Phong.
Tôi
không có may mắn được có mặt ở chiến trường Khu V sớm để được sống
bên cạnh anh Trần Tiến-Chu Cẩm Phong như anh Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn
Đình An, Bùi Minh Quốc, Hồ Duy Lệ, Cao Duy Thảo, Thanh Quế v.v..., nhưng
qua những trang nhật ký của anh, qua những nơi, những con người mà anh
đã từng sống, gắn bó và tôi được tiếp xúc, đã giúp tôi hiểu biết
thêm nhiều điều quý giá để từ hoàn thiện mình, để sống được một
cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn.
NGUYỄN BÁ THÂM
Nguồn:
Văn nghệ
No comments:
Post a Comment