Nhất Phiến
Tài Tình Thiên Cổ Lụy
Sau khi đọc và đem khắc ván in Kim
Vân Kiều tân truyện ở phố Hàng Gai-Hà Nội, Phạm Quý Thích - bạn của Nguyễn
Du - có viết bài “Thính Đoạn Trường Tân Thanh hữu cảm” (1).
Bài thơ có hai câu cuối:
“…Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy
Tân Thanh đáo để vị thuỳ thương”
Tạm dịch nghĩa:
…Một phiến tài tình vương vấn cả ngàn năm
Xét cho cùng thì truyện Tân Thanh đã vì ai mà thương cảm?
Truyện Tân Thanh đây là Truyện Kiều. Phạm Quý Thích nhân đọc truyện
Nôm này mà nêu câu hỏi: “Nguyễn Du viết Kiều là để cảm thương cho ai?”
Hiển nhiên Nguyễn Du viết Kiều
là để xót thương một tuyệt thế giai nhân tài hoa mệnh bạc. Điều này rất rõ nên
Phạm Quý thích nêu câu hỏi chẳng qua chỉ để gợi – gợi cho người ta nghĩ về nỗi
lòng sâu kín của Nguyễn Du: thương cho người là để tủi cho mình.
NỖI LÒNG NGUYỄN DU – BI KỊCH CỦA MỘT
NHÀ NHO KHÍ TIẾT
Đồng thanh tương ứng. Phạm Quý Thích
và Nguyễn Du, cả hai cùng đỗ đạt và làm quan đời Lê mạt. Tây Sơn kéo quân ra
Bắc diệt Trịnh, nhà Lê cũng tiêu vong. Phạm Quý Thích bỏ trốn, không cộng tác
cùng triều đình mới, còn Nguyễn Du thì cương quyết hơn, muốn sang Tàu phù Lê,
chống Tây Sơn. Việc không thành, lại vào Nam định theo Chúa Nguyễn, bị Tây Sơn
bắt giam 3 tháng. Sau khi được thả là bắt đầu quãng đời “mười năm gió bụi” :
khi ở nhờ nhà vợ ở Thái Bình, khi quay về quê dưới chân núi Hồng… Rồi thời thế
đổi thay; Tây Sơn sớm suy tàn. 1802, Nguyễn Ánh nhất thống sơn hà. Nguyễn Du
được đặc cách bổ nhiệm làm tri huyện Phù Dung, ít lâu sau thăng Tri phủ; 3 năm
sau lại thăng Đông Các Đại Học Sĩ (Chức danh dành cho hàng Tiến sĩ, trong khi
Nguyễn Du chỉ mới đỗ Tam trường, tức Tú tài) tước Du Đức Hầu; sau lại thăng Cần
Chánh Điện Đại Học Sĩ. Sau khi đi sứ Trung Hoa về, lại được được thăng Lễ Bộ
Hữu Tham Tri. Chức vị cao nhưng luôn nghèo túng, bệnh tật, chỉ muốn từ quan mà
về quê.
Bước công danh của Nguyễn Du hanh
thông, song ông chẳng mấy khi vui, thường u uất, sầu muộn. Đại Nam Chính
biên Liệt truyện có kể việc ông thường bị quan trên đè nén, hay buồn rầu;
mỗi khi vào chầu trong triều thường sợ sệt, không dám nói năng gì. Có lần vua
đã quở trách:
“Triều đình dùng người, cứ kẻ hiền
tài là dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc. Ngươi […] đã được ơn tri ngộ làm quan đến bực á khanh, biết
việc gì thì phải nói để hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ
dạ dạ vâng vâng cho qua chuyện thôi!”.
NỖI U UẤT CỦA NGUYỄN DU CÓ XUẤT PHÁT TỪ
MẶC CẢM CỦA MỘT HÀNG THẦN KHÔNG ?
Một số nhà nghiên cứu Truyện Kiều ở
thế kỉ XX, đầu tiên là Trần Trọng Kim, về sau nữa là Thạch Trung Giả, Phạm Thế
Ngũ… thường hay nêu mặc cảm của Nguyễn Du: mặc cảm của một hàng thần xuất
phát từ ý thức trung thần bất sự nhị quân. Ý thức này cùng niềm hoài
vọng nhà Lê tạo nên sự phản kháng bộc lộ qua thơ. Họ thường nêu ví dụ: Từ Hải
chỉ là một tên giặc cỏ bình thường trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân, vậy mà Nguyễn Du đã tôn lên thành anh hùng cái thế, sức mạnh
nghiêng đổ cả triều đình…, hoặc đưa ví dụ về suy nghĩ của Từ Hải trước
lời đề nghị quy hàng của Thúy Kiều:
"…Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành.
Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi! “
và cho đây chính là lời tâm sự của
Nguyễn Du khi đang làm quan nhà Nguyễn…Lập luận này thoạt đầu nghe hữu lí nhưng
xét kĩ thì không đúng bởi mấy lí do sau:
Thứ nhất: Trước đây, vì chỉ căn
cứ vào Đại Nam chính biên liệt truyện, đoạn nói về Nguyễn Du: “Du
trường ư thi, vưu thiện quốc âm, Thanh sứ hoàn, dĩ Bắc Hành thi tập cập Thúy
Kiều truyện hành thế” (Du giỏi thơ lại rành chữ Nôm; đi sứ nhà Thanh về, Bắc
Hành thi tập và truyện Thúy Kiều được ra đời) mà các nhà nghiên
cứu cho là Truyện Kiều được viết sau khi Nguyễn Du đi sứ về tức là khoảng từ 1813
đến 1820 và từ đó suy đoán ra là Truyện Kiều bộc lộ mặc cảm hàng thần.
Gần đây, khi khảo sát các bản Kiều Nôm cổ và căn cứ vào luật kị húy,
người ta khẳng định được là Truyện Kiều không thể viết vào đời Gia Long. Nói
về luật kị húy: nước ta bắt đầu có luật này từ đời Lê, đến đời Gia Long
thì luật trở nên quan trọng và phức tạp: ngoài tên riêng nguyên tổ và tên vua thì
tên của cha, mẹ, vợ, con, anh, em và có khi đến ông nội, bà nội… vua cũng được
kiêng, thậm chí còn buộc kiêng cả tên con dâu là Hồ Thị Hoa (vợ Thái tử
Đảm, về sau là vua Minh Mạng) mất sớm lúc mới 17 tuổi, khiến chợ Đông
Hoa phải đổi là chợ Đông Ba, cầu Hoa đổi là cầu Bông, Thanh
Hoa đổi là Thanh Hóa; kiêng cả tên lăng Vĩnh Thanh (chôn vợ
của chúa Nguyễn Phúc Chu) mà trấn Vĩnh Thanh đổi thành trấn Vĩnh Long…
Điều 62, Luật Gia Long quy
định khắt khe: “Kẻ nào trong bài tấu trình với vua mà dùng một tiếng trùng
với tên vua hay tên một hoàng khảo sẽ bị phạt 80 côn. Nếu ở các giấy tờ khác mà
mắc phải tội phạm húy ấy thì bị phạt 40 côn”. Vậy mà chẳng hạn: ở bản Kiều
Nôm do Liễu Văn Đường khắc in năm Tự Đức thứ 24 (Dĩ nhiên là sao lại một bản
viết tay từ trước) đã có câu 853: Tuồng chi là giống (種) hôi tanh, Câu 1310: Thang lan (蘭) rủ bức trướng hồng tắm hoa, Câu 2750: Cỏ lan
(蘭) mặt đất rêu phong dấu giày… (2)
là những câu có chữ phạm húy bởi vì chữ “giống” trong câu
thơ đã viết y nguyên chữ chủng 種, mà Chủng là tên vua Gia Long. Thời này, muốn
viết chữ “giống” thì không được viết là 種 mà phải viết là (thay bộ hòa 禾 bên trái bằng chữ thái 采) hoặc viết trại ra một chữ khác có cùng nghĩa. Chữ Lan
蘭
là tên mẹ cả của vua Gia Long tức Huy Gia Từ Phi ; muốn viết chữ này
cũng không được viết là 蘭
mà phải viết là 香
(hương) nếu không sẽ phạm trọng húy. Nguyễn Du mà phạm húy như thế, chắc
chắn đã phải phạt đánh đòn 40 gậy rồi cách chức và đuổi về quê. Vì các lí do
này ta đoan chắc Truyện Kiều phải được viết trước đời Gia Long; chính xác
là vào đời Tây Sơn. Mà viết vào đời Tây Sơn thì Nguyễn Du nào đã hàng ai đâu mà
mang mặc cảm hàng thần?
Thứ hai: Là người kín đáo cẩn trọng
- xem gương Nguyễn Văn Thành, một công thần bậc nhất từng bao nhiêu năm cùng
Gia Long vào sinh ra tử vậy mà về sau chỉ vì con trai là Nguyễn Văn Thuyên có
làm mấy câu thơ cao ngạo, phạm thượng mà Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc
chết mặc dù đã hết lời van xin; Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử chém -
Nguyễn Du không đời nào đang là tôi triều đình nhà Nguyễn mà lại dám viết
Truyện Kiều với những câu đại nghịch ngôn như “… chọc trời khuấy nước mặc
dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” .
Thứ ba: Cứ nói mãi chuyện Nguyễn Du
với ý thức trung thần bất sự nhị quân là không đúng - bởi một
người tâm hồn phóng khoáng như Nguyễn Du thì khó mà bị trói vào tư tưởng ngu
trung như thế. Đọc cả 3 tập thơ chữ Hán, kể cả Thanh Hiên thi tập
được viết lúc còn trẻ sau khi nhà Lê mất, ta thấy chẳng có bài nào bộc lộ tâm
sự hoài Lê, mà tất cả chỉ là nỗi lòng của một nhà thơ buồn, luôn suy
nghĩ về kiếp người, suy nghĩ về những mảnh đời lây lất trong chốn hồng trần,
than thở cho phận mình và luôn ước mơ được về quê sống an nhàn nơi thôn dã.
MỘT SỐ CÁC BẢN KIỀU NÔM CỔ
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
Thành Thái Nhâm Dần (1902)
KIM VÂN KIỀU TÂN TẬP
Thành Thái Bính Ngọ (1906)
Quan Văn đường tàng bản.
Liễu Văn đường tàng bản
- Tự Đức thứ 24 (1871)
KIM VÂN KIỀU TÂN TRUYỆN
Tự Đức thứ 32 (1879) -Việt Đông, Phật Trấn
Bảo Hoa Các tàng bản
Căn cứ những lí lẽ trên, có thể
khẳng định là Nguyễn Du u uất chẳng phải vì chất chứa mặc cảm hàng thần.
Tư tưởng hoài Lê đã phai nhạt từ lâu trong lòng cựu thần nhà Lê, nhất là
từ khi nhà Tây Sơn không còn. Gia Long thống nhất sơn hà; làm quan to triều
Nguyễn thì Nguyễn Du chẳng còn hoài Lê làm gì nữa song vẫn
đau, vẫn u uất. Nỗi đau trong tâm tư Nguyễn Du lúc này chẳng giống với nỗi
đau lúc nhà Lê mới mất mà là nỗi đau về hoàn cảnh sống. Đại Nam Liệt
Truyện có chép: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ
vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết
nói năng gì...''. Nguyễn Du nặng khí tiết người quân tử, như cây trúc gióng
thẳng(3) , ông cảm thấy mình lạc lõng giữa đám triều thần nhà Nguyễn
lúc bấy giờ. Thật vậy, các quan triều địa phương thường đố kị, trước hết vì ông
là cựu thần nhà Lê…không đỗ đạt cao mà được vua tin dùng, ban cho chức tước vào
hàng nhất phẩm triều đình… Trước thái độ ganh ghét tị hiềm, khí phách của nhà
Nho khiến ông bất an. Tập thơ Nam trung tạp ngâm chứng rõ điều này, nhất
là bài thơ cuối trong chuỗi 5 bài “Ngẫu hứng” : hình vóc Nguyễn
Du hiện ra khá rõ nét là một khách tha hương, lạ lẫm với mọi người chung quanh,
luôn muốn xa lánh, ẩn mình:
Ngẫu hứng ngũ thủ
Kì ngũ
Hữu nhất nhân yên lương khả ai
Phá y tàn lạp sắc như khôi
Tỵ nhân đãn mịch đạo bàng tẩu
Tri thị Thăng Long thành lý lai
Dịch thơ:
Gặp một người… sao thật đáng thương!
Nón xơ, áo rách, mặt thê lương,
Tránh người, lầm lũi ven đường bước.
Rõ khách Thăng Long lạ phố phường.
(Nguyễn Cẩm Xuyên
dịch).
Bài thơ kể người nhưng thực là để tả
chính mình(4); nhân vật trong thơ chính là Nguyễn Du, khách tha
hương nghèo túng, e dè, sợ sệt, từ đất Bắc vào chốn Thần kinh…
Cuộc đời buồn cứ dần trôi cho đến năm
1820, trong trận dịch tả kinh hoàng khởi phát từ Hà Tiên lan dần ra Bắc; đến
Huế, Nguyễn Du là một trong các nạn nhân của trận đại dịch này, Đại Nam liệt
truyện có kể lại chi tiết lúc ông sắp mất: "…Đến khi đau
nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả
rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì."
Cái chết đến, Nguyễn Du hình như
thỏa nguyện; nó giúp ông chấm dứt một chuỗi dài bi kịch cuộc đời.
Cuộc đời, sự nghiệp văn chương
Nguyễn Du là một phiến tài tình. Phiến tài tình ấy không chỉ làm bận
lòng ta hôm nay mà còn khiến hậu thế ngàn năm sau còn nhỏ lụy.
NGUYỄN CẨM
XUYÊN
(KIẾN THỨC NGÀY NAY số 747, ngày 10/5/2011).
_____________________
CHÚ THÍCH:
(1) Phạm Quý Thích đỗ Tiến sĩ đời Lê mạt, được bổ Hiệu thảo
Viện Hàn lâm kiêm chức Giám sát Ngự sử đạo Kinh Bắc, làm quan giữ chức Thiêm
Sai Tri Công Phiên. Nhà Lê mất, ông không cộng tác với Tây Sơn. Đời Gia Long,
được bổ làm đốc học rồi Trung thư học sĩ, tước Thích An Hầu,
trông coi việc chép sử ở triều đình; sau cáo bệnh, về quê dạy học. Nhân đọc
truyện Kiều, Phạm Quý Thích có bài thơ:
Đọc chữ trên bản chụp:
(Đọc theo hàng dọc, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải)
………………tân khắc.
KIM VÂN KIỀU QUẢNG TẬP TRUYỆN.
Liễu Văn đường tàng bản
dòng chữ nhỏ in trên đường lề giấy :Kim Vân Kiều hợp tập
Lương Đường Phạm tiên sinh soạn thi nhất thủ.
Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường,
Bán thế yên hoa trái vị thường.
Ngọc diện khởi ưng mai Thuỷ quốc,
Băng tâm tự khả đối Kim Lang.
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường.
Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ,
Tân Thanh đáo để vị thuỳ thương.
Bán thế yên hoa trái vị thường.
Ngọc diện khởi ưng mai Thuỷ quốc,
Băng tâm tự khả đối Kim Lang.
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường.
Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ,
Tân Thanh đáo để vị thuỳ thương.
Tác giả tự dịch thơ:
Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan
Lòng còn tơ vướng chàng Kim Trọng
Vẻ ngọc chưa phai chốn thuỷ quan
Nửa giấc Đoạn trường tan gối điệp
Một dây Bạc mệnh dứt cầm loan
Cho hay những kẻ tài tình lắm
Trời bắt làm gương để thế gian.
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan
Lòng còn tơ vướng chàng Kim Trọng
Vẻ ngọc chưa phai chốn thuỷ quan
Nửa giấc Đoạn trường tan gối điệp
Một dây Bạc mệnh dứt cầm loan
Cho hay những kẻ tài tình lắm
Trời bắt làm gương để thế gian.
(2) Nguyễn Du viết Truyện Kiều khi nào ? – Nguyễn
Khắc Bảo; tạp chí Ngôn ngữ & đời sống số 6 năm 2000.
(3) Có lẽ vì vậy mà chữ tiết 節(trong khí tiết, danh tiết…) thuộc bộ trúc. Tiết là đốt
trúc, đốt tre.
(4) Đào Duy Anh chú: “Tả tình cảnh ngơ ngác, ngờ sợ của
người ở miền Bắc, tôi cũ của nhà Lê, mới vào kinh đô Huế, ở giữa những người
của nhà Nguyễn, không phải vai vế của mình, người này chính là Nguyễn Du”.
Chúng tôi e không phải. Dù nghèo, Nguyễn Du chắc không đén nỗi thế! Đây
chắc là một người ở Thăng Long vào những năm đói, loạn ly, tìm đường vào Nam,
tìm sinh kế mà Nguyễn Du bắt gặp trên đường… (Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng
Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến - Nguyễn Du toàn tập, NXB Văn Học 1996,
trang 216 )
No comments:
Post a Comment