I. Thơ Cao Hoành Nhân phía Việt Nam
Cộng Hòa viết về trận Ashau – Thời
Việt Nam Cộng Hòa, thơ cảm hứng về mặt trận Tây Nguyên không hiếm hoi, nhưng đa
số đều mang chất biên tái: nhớ nhà, nhớ vợ con, hoặc một chút buồn cô đơn khi
trấn thủ chốn biên thùy, hoặc đôi khi một chút ngao ngán chiến tranh. Thi nhân
không phải như những nhà chiến lược để biết Tây Nguyên là bàn đạp tiến xuống
đồng bằng, là xương sống vòng cung tỏa về duyên hải.
Mãi về sau, khi có lệnh bỏ Buôn Mê
Thuột làm sụp đổ giây chuyền cả miền Nam năm 1975, mãi về sau nữa khoảng năm
2009 khi có lời cảnh báo coi chừng trọng điểm chiến lược của vùng khai thác
quặng Bauxite ở tỉnh Đắc Nông, và mãi về sau khoảng năm 2010 khi các nước hạ
lưu Mekong họp bàn về dòng sông bị nghẽn mạch (nhà văn Ngô Thế Vinh và nhiều nhà trí thức Việt
Nam cũng đã hô hoán từ lâu)… lúc này đây các nhà thơ hẳn đã biết Tây Nguyên
“lợi hại” như thế nào. Người thì có ý kiến Việt Nam sẽ phối hợp với Kampuchia xây
dựng một hồ chứa nước khổng lồ ở Kontum để đưa nước vào Mekong, cả hai cùng
có lợi trong tích lũy nguồn nước không bao giờ cạn cho nông nghiệp và do đó hai
nước sống chung hòa bình vĩnh viễn (vì con sông dài Xê-Xan của Kampuchia đổ
nước vào Mekong vốn đã hợp lưu với sông Poko của Việt Nam tại Kontum, vùng rừng
núi này rất nhiều mưa).
Hiện đã tồn tại ở đó đập thủy điện Yali, nhưng chưa có sự hợp tác của
Kampuchia và sự giúp sức của các cơ quan tài trợ Liên Hiệp Quốc để biến hồ chưá
nước thành vô cùng vĩ đại; và nhờ vậy đập thủy điện Yali có tầm cỡ hiện nay lại
càng thêm lớn lao. Tây Nguyên với bao nhiêu lời báo động do vụ khai thác mỏ
Bauxite: nên coi chừng hiểm họa đất đai toàn vùng Nam Trung Bộ và Miền Đông Nam
Phần bị nhiễm độc bởi bùn đỏ thải ra từ khai thác Bauxite; nên coi chừng sự
tiềm tàng một quả bom bùn đỏ không đê điều nào ngăn cản nổi và sẽ làm tràn ngập
sông Đồng Nai và sông Sài Gòn (độ dốc từ trên cao đổ xuống thập phần nguy hiểm
hơn tai nạn bùn đỏ Bauxite mới xảy ra ở đồng bằng nước Hungary); nên coi chừng
vùng dành riêng khai thác thành khu quân sự bất khả xâm phạm của nước ngoài; và
nên coi chừng biết đâu vùng đó đang có quặng mỏ quý hiếm chưa được tiết lộ bí
mật.
Trở lại vấn đề văn nghệ thời chiến
Miền Nam, ta không có ý phê bình gì các nhà thơ viết ra những câu thơ với nỗi
buồn biên tái khi đồn trú ở Tây Nguyên, vì văn nghệ Miền Nam thời chiến không
ràng buộc chặt chẽ với chính trị. Một chút buồn cô đơn như Vũ Hữu Định với phố
núi chỉ đi quanh quất dăm phút là hết, hết phố nhưng không hết tình thân: “em
Pleiku má đỏ môi hồng/ ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông… mai xa lắc trên đồn
biên giới/Còn một chút gì để nhớ để thương”. Nhà thơ Kim Tuấn nhớ mẹ có lẽ
hơn tất cả, mãi ngóng về Huế mong tới ngày nghỉ phép: “Bản-Hét thương đời
anh lính trẻ/Quanh năm chờ phép về thăm nhà/Quanh năm trấn thủ đời gian khổ/
Hầm đất nhìn quanh ta với ta”. Nhà thơ Lâm Hảo Dũng tự coi mình như một lữ
khách từ miền Lục Tỉnh đi đồn trú trên những dốc tử thần: “bởi bao nhiêu
trận kinh hồn trước/ đều thấy mơ hồ ở Dakto/khi đi là tự xây mồ sẵn/nay suối
buồn, kia mai đỉnh xa”. Còn thi sĩ Phan Ni Tấn cảm thương mình đang về với
cheo leo trên quốc lộ 21 (nay là quốc lộ 26) từ vùng duyên hải Ninh Hòa lên núi
rừng Buôn Mê Thuột: “lên đèo Dục Mỹ ban trưa/ta về ở dưới gió mưa não nùng…
lên Tây Nguyên trấn giữ thành/thương con vượn hú trên cành chon von”. Trên
đây là các câu thơ sưu tầm từ bộ sách “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến”
của nhà xuất bản Thư Ấn Quán ấn hành năm 2006 và 2007. Trong bộ sách dầy hơn 1550
trang đó, duy nhất có bài thơ của Cao Hoành Nhân mang tính chiến đấu tranh thủ
Tây Nguyên, gần giống như thơ của phe Xã Hội Chủ Nghĩa vốn gắn liền với chính
trị. Chỉ biết vài chi tiết về Cao Hoành Nhân lúc còn rất trẻ khi người viết bài
này cùng ông học lớp Đệ Nhị Ban Văn Chương niên khóa 1957-1958 hoặc 1958-1959
(không nhớ chính xác), và biết ít về ông cũng vì chỉ học có một năm cùng
trường, trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang; trong khi lớp học năm ấy có hai
người nổi tiếng là Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Thị Hoàng. Tên thật của ông, Bùi
Cao Hoành, quê quán chắc ở Khánh Hòa-Nha Trang. Có lẽ ông là một sĩ quan
trấn đóng ở Tây Nguyên, cái nhìn của ông chắc không từ nhãn quan chiến lược của
cấp bậc tướng lãnh, nhưng cũng đã cho ta thấy tầm quan trọng phải tranh thủ Tây
Nguyên. Mất Tây Nguyên, quân Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị chọc thủng phòng tuyến
xuống duyên hải Miền Trung và đồng bằng miền Nam. Vì vậy mà các sư đoàn Nhảy Dù
và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ từng bố trí hùng hậu tại đây, cố tranh thủ nó,
như Cao Hoành Nhân đã viết trong bài thơ “Về Ashau”:
… Ashau! Ashau!
Vách dựng tầng xanh cây cao khói đỏ
Dã thú quen rừng bóng cả đêm thiêng
Tự nghìn thu sừng sững giải sơn biên
… Tự thung lũng Ashau sâu
Vượt Trị Thiên bát ngát
Dày xéo biên duyên
Tự đỉnh Trường Sơn cao
Đổ về Cửu Long nước ngọt
Lửa bốc ruộng vườn
Ashau! Ashau!
Một giải biên sơn
Bỗng biến thành một khu cường địch
… Quân ta vượt Trường Sơn
Án ngữ đường địch lui mặt Bắc
Đồng Minh đổ chụp vùng Nam
Phi pháo biên duyên chờ lửa bốc máy
gầm
Và ẩn hiện xuyên sơn toán biên phòng
Lôi Hổ.
(CAO HOÀNH NHÂN)
II. Nguyễn Xuân Thâm phía Xã Hội Chủ
Nghĩa, thơ về đồng khởi Tây Nguyên- Với
văn nghệ Xã Hội Chủ Nghĩa, chính trị phải gắn liền với văn chương: một trong
những đường lối chính trị là luôn luôn mang “tính chiến đấu” trong nghệ thuật
thời chiến tranh Việt Nam. Cho nên không bao giờ có trong thơ văn Xã Hội Chủ
Nghĩa nỗi buồn quan tái hoặc nhung nhớ khi ở chốn biên thùy rừng núi. Thơ sáng
tác của các thi nhân trong đoàn quân xâm nhập thì không hiếm; như Phạm Tiến
Duật viết về điều phải tạm gác tình riêng (yêu nhau trên đường trường chinh)
của người lính lái xe trong cơn mưa tầm tã: “Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ/
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây” ; như Thanh Thảo tin tưởng lớp lớp đoàn
quân để lại những dấu chân qua trảng cỏ trên đường đi chiến trường xa xăm: “Chiếc
bòng con đựng những gì/Mà đi cuối đất mà đi cùng trời… Ai đi gần, ai đi xa/
Những gì gởi lại chỉ là dấu chân”; như Hữu Thỉnh viết về đêm giáp ranh trên
đò qua sông hành quân xâm nhập, mang tính lạc quan của con trăng lưỡi liềm đã ở
bên kia bờ: “Ếch nhái nghiến răng sao mà sốt ruột/ Chớp nhì nhằng lô-cốt méo
bên sông...Bìm bịp chùm đôi kêu dính vào nhau/Tiếng nước vỗ tan rồi chụp lại…
Chúng tôi đi còn tần ngần ngó lại/ Chỉ thấy vầng trăng cuối tháng mới quăng
lên”. Những trích dẫn trên đều là thơ mang tính quân sự của bí mật xâm nhập
từ ngoài Bắc vào, chưa lồng vào tính chính trị nói về chiến tranh nhân dân nổi
dậy tại Tây Nguyên, giống như tính chất “đồng khởi” ở Miền Nam mà tác giả bài
thơ sau đây có ý so sánh. Tác giả là nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm. Ông đã từng dạy
ở Đại học Bách Khoa Hà Nội và dạy ngoại ngữ ở nước Angola Phi Châu (qua tài
liệu biên khảo của ông Vũ Duy Thông, nhà xuất bản Giáo Dục, ấn hành trong nước
năm 2000). Theo một bài báo trên mạng “vanchuongviet.org”, bài của tác giả Vân
Long, đăng ngày 12 tháng 7 năm 2010, Nguyễn Xuân Thâm chính là nhà thơ Dao-Ca
có thơ đăng trên tuần báo Đời Mới ở Sài Gòn (tờ báo có mặt khoảng 1951 đến
1955) (1). Vân Long cũng là nhà thơ cùng thời và cùng có thơ đăng trên báo Đời
Mới như Dao-Ca. Qua trích dẫn thơ Dao-Ca trong bài báo đó thì ta lại biết
Dao-Ca cũng chính là Đỗ Hữu với các bài thơ rừng núi lãng mạn một thời trong
báo Đời Mới, như bài thơ “Sầu Ai Lao”; hoặc bài “Đoàn Quân Qua
Làng”; hoặc bài “Nắng Ngút Đường Dài” với các câu: “Nắng
ngút đường dài hoa gạo bay/ Rừng sâu mấy bữa lạc sau ngày/ Đường xa nắng lửa
chiều hun hút/ Quán đứng lưng đèo, núi tiếp mây”; Vậy Nguyễn Xuân Thâm, Dao-Ca, Đỗ Hữu, chỉ là
một người.
Riêng bài thơ “Trống và Lửa”
của Nguyễn Xuân Thâm thì dĩ nhiên không còn tính lãng mạn từng hiện diện trong
thơ Đỗ Hữu (2), bây giờ mang đậm chất chính trị qua viễn tượng cuộc nổi dậy của
các dân tộc Tây Nguyên chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Tác giả liên
tưởng đến cuộc đồng khởi ở Bến Tre thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thơ mang tính
tranh thủ Tây Nguyên, từ đó làm bàn đạp tiến xuống Sài Gòn như trình tự năm
1975 đã diễn ra. Tranh thủ xong Buôn Mê Thuột, các đạo quân tập trung tại Chiến
Khu Đ ở Bình Long-Tây Ninh, từ đó tiến về Sài Gòn theo quốc lộ 13 tới Ngã Tư
Hàng Xanh, rồi bằng hai ngã chạy thẳng vào trung tâm Sài Gòn là đường Phan
Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ) và đường Hồng Thập Tự (nay là đường
Nguyễn Thị Minh Khai). Tính chính trị ở chỗ tô đậm nét vai trò chủ chốt là cuộc
nổi dậy của nhân dân (bao gồm các dân tộc Tây Nguyên) chống trả Việt Nam Cộng
Hòa. Mà thật ra, như ta đã chứng kiến, lực lượng xung kích là các sư đoàn chính
quy có xe tăng đại bác tối tân từ Miền Bắc vào. Bài thơ “Trống và Lửa” mang
tính chính trị của tác giả Nguyễn Xuân Thâm đề cao vai trò của “nhân dân nổi
dậy” ở Tây Nguyên”, tuy giáo mác cung tên nhưng có vai trò “làm bàn đạp” khởi
đầu cho trận chiến “nội công ngoại kích”:
… Trời Tây Nguyên, chiều đại ngàn
rực rỡ
Cuồn cuộn sông Ba hiện lên trong ánh
lửa
Bóng lũ làng dáo mác dựng bên nhau
Đàn voi đi bành tía bành nâu.
… Chim phí bay về đậu đỉnh nhà rông
Chén rượu cần mặt trời vào uống đỏ
như mật ong.
… Đây rừng chông đứng lẫn dáng chiều
Đây bẫy đá nằm khuất trên vách đá
Trống giục lửa, lửa vào buôn, người
Ê- Đê cầm ná
Lửa vào làng, người Gia Rai vót
chông
… Trống dội từ trong trường ca Xinh
Nhã, Đam San
Trống lửa ầm ầm về trong phong trào
đồng khởi miền Nam.
(NGUYỄN XUÂN THÂM)
Walnut, California, tháng 8 năm 2010
(1) Bài thơ “Lao Bảo” của Dao Ca
đăng trên tuần báo Đời Mới (báo ấn hành tại Sài Gòn từ năm 1951 đến 1955), xin
đọc trong “Huyền Ảo Do Tương Phản” (vanchuongviet.org đăng lên mạng ngày 5
tháng 7 năm 2010).
(2) Hai bài thơ của Đỗ Hữu (cũng
trên báo Đời Mới thời gian ấy):
CHIỀU VIỆT BẮC
Nắng xuống phương nào người thấy
không
Mà đây chiều tím rụng song song
Vàng tuôn mấy lối ngày thu muộn
Ai liệm hoàng hôn kín mắt trong.
Khói thuốc lên mờ xanh bóng ai
Phuơng xa chiều xuống ngút sông dài
Đường kia có phải sầu xưa đọng
Trở bước, hoa lau trắng ngập đồi.
Con đường đất đỏ mờ sau bản
Thung lũng vàng lơ, nắng trở chiều
Núi biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm về lá đổ, phấn tàn xiêu.
Rừng núi âm u chiều Việt Bắc
Chầy ngày lạc bước, ai ngồi than
Buồn xưa chiều đọng ngàn lau lách
Chòi cũ nằm nghe gió dặm trường.
SẦU AI-LAO
Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt
Mây cứ sầu tuôn, núi võ vàng
Lá vẫn pha chàm trên sắc áo
Mưa nguồn, thác đổ, đá mù sương.
Giữa ngày lạc lõng trên rừng rậm
Với nắng bâng khuâng mấy thuở nào
Với núi xanh lơ, chòi tím nhạt
Mây trời bàng bạc sầu Ai-Lao.
Lưng đèo quán gió mờ hun hút
Thôn bản nằm trơ dưới nắng chiều
Tai vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người ơi! Thương nhớ biết bao nhiêu.
Ở đây hơi đá chiều vây khắp
Khép chặt mình tôi giữa núi rừng
Buồn quá, ngày đi, đêm trở lại
Hoàng hôn hoa bản, phấn rưng rưng.
Người có theo tôi lên dốc nắng
Nhìn xem hoa rải sắc trên đường
Chiều nay nổi gió buồn ghê lắm
Lá đổ sau chân một lối vàng….
(ĐỖ HỮU)
TRẦN
VĂN NAM
No comments:
Post a Comment