I. Thơ như một xóa bỏ tận cùng, khác nào đường gươm không cần đến gươm - Nhà văn Mai
Thảo được biết nhiều thời Văn Học Miền Nam từ năm 1956, vì ông là chủ nhiệm chủ
bút tờ Tạp chí Sáng Tạo tại Sài Gòn. Ông là nhà văn sáng tạo của nhiều tập
truyện ngắn. Ông còn là tiểu-thuyết-gia của những truyện tình dài. Nhưng ông
coi thơ như tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương, nên ta không nói
tới thơ của ông là một thiếu sót. Nơi bìa sau thi-phẩm của ông “Ta Thấy Hình
Ta Những Miếu Đền” (xb. năm 1989 tại Nam California), có tóm tắt quan niệm
thi-ca. Theo quan điểm của ông, cái "không còn gì nữa hết là thơ".
Quan điểm này rất gần với Đạo không
diễn tả bằng ngôn ngữ thế gian được của Lão Tử, hay vô ngôn như "niêm hoa
vi tiếu" của Phật Giáo Thiền Tông. Vấn đề này thật thâm viễn, xin không
lạm bàn ở đây. Đi sát với quan điểm này, ông có những bài thơ thực sự như muốn
xóa bỏ ngôn ngữ văn chương, xóa bỏ thẩm mỹ của nghệ thuật, xóa bỏ thi tính của
thơ, vượt qua cảm nhận của thưởng ngoạn bình thường. Làm thơ như ăn như ngủ,
rất gần với thơ Bùi Giáng mà ông có dịp nhắc đến (trong bài phỏng vấn của
Nguyễn Mạnh Trinh về những điều ông biết về nhà thơ Đinh Hùng), ví dụ bài thơ
dưới đây của Mai Thảo:
Đẩy linh cữu bạn vào lò hỏa thiêu
Trở về phòng riêng lấy rượu uống
Ly rượu không bạn buồn lạ lùng
Cứ uống như lúc bạn còn sống.
(Không Bạn)
Quả thật như một xóa bỏ thơ, không
vần điệu, không trau chuốt ngôn từ. Nhưng đọc thấy thấm thía lúc chấm dứt dửng
dưng của số kiếp con người. Ý tại ngôn ngoại. Mỗi người đọc có thể thấm thía
một nội dung. Tiếp theo, một bài thơ khác:
Cánh rừng đang đổ gốc rồi gốc
Giờ đổ gốc nữa đổ cái xập
Đứng ngây nhìn cái đổ thế nào
Để tự đổ mày thấy đổ tao.
(Rừng Bạn)
Bạn bè lớp lớp như rừng rồi lần lượt
ngã gục. Số kiếp đốn hết cây này đến cây khác. "Đổ cái xập" nghe thật
tức cười, nhưng hàm ý nói sự chấm dứt mỗi đời người là vô phương chống đỡ. Cũng
là ý tại ngôn ngoại; thể-cách biểu hiện niềm đau vô ngôn.
II. Thơ như một nghệ thuật trau
chuốt: Đường gươm múa lượn -
Ngược với các bài thơ có thể nói sát với quan điểm thi ca của ông đã kể trên,
ông còn có các bài thơ thật trau chuốt. Các bài thơ “ Ta Thấy Hình Ta Những
Miếu Đền - Chờ Đợi Nghìn Năm - Em Đã Hoang Đường Từ Cổ Đại..”, có thể nói
là cao điểm của nghệ thuật thi ca Mai Thảo. Những câu thơ đẹp lóng lánh
như kim cương, trong đó ta thấy thấp thoáng cánh chim huyền sử, những thâm trầm
thấu thị của siêu hình Phật Giáo:
- Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương
- Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
- Sao không, nhật nguyệt đều tăm tối
Từ thuở chim hồng rét mướt bay
- Ta cúi đầu đi khỏi bãi đời
Như vì sao mỏi muốn lìa ngôi
Như thuyền xa bến vào muôn biển
Tới đáy rừng chôn giấc ngủ voi.
"Như thuyền xa bến vào muôn
biển" gợi nhớ con thuyền bôn tẩu xa lánh
đời sống văn minh."Tới đáy rừng chôn giấc ngủ voi" gợi nhớ
hình ảnh các vị đại sư trong hang cốc trên núi, xa lánh cuộc đời huyên náo. Thơ
với ông “ trọn đời như một tình yêu kín thầm, tới cuối đời mới chịu
phơi bày ra ánh sáng”. Tâm sự này hình như ông đã gởi gấm vào bài “Em Đã Hoang Đường Từ Cổ Đại”.
III. Thơ như một đường gươm đơn sơ: Đường gươm
tuyệt kỹ - Ba bài thơ sau đây đạt tới chỗ rất
tự nhiên của Mai Thảo. Đạt tới chỗ tự nhiên nhưng hàm ý không phải tự nhiên mà
có. Đường gươm gọn gàng tưởng chừng đơn sơ, không phải tự nhiên mà thành tựu:
Sớm ra đi sớm hoa không biết
Đêm trở về đêm cành không hay
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu
Nơi góc tường in một bóng gầy.
(Không Tiếng)
Khía cạnh thơ vẫn có trong đời sống
thường nhật. Tác giả bắt được thi tính đó. Nó thật với đời sống hằng ngày đi về
nơi phòng trọ cũng là chỗ làm việc của ông. Vầng trăng tuần hoàn là người bạn
lặng lẽ soi bóng tác giả vào góc tường. Gợi nhớ câu thơ của thiền sư Viên
Chiếu: "Theo gió, tiếng còi luồng bụi trúc/Kèm trăng, bóng núi quá đầu
tường” (Ngô Tất Tố dịch). Thảo mộc, vầng trăng, bóng người, xưa sau vẫn còn
là thi tính, nguồn cảm hứng cho thi ca. Nó không mất tích trong huyên náo của
cuộc đời. Ta phải biết bắt lấy. Toàn bài rất giản dị mà lại hay, từ dùng đơn sơ
mà thi tính luân lưu tỏ rạng.
Nửa khuya đợi bạn từ xa tới
Cửa mở cầu thang để sáng đèn
Bạn tới lúc nào không biết nữa
Mưa thả đều trên giấc ngủ đen.
(Đợi Bạn)
Bài thơ hay ở tình bạn, ở từ dùng
đắc địa, và vẫn khung cảnh có thi tính. Mưa thả đều và cầu thang để sáng đèn
diễn được ý trông ngóng và thời gian dài chờ đợi. Ta hình dung một đêm mưa gió,
các người bạn đang tới một phi trường bão rớt, mưa dằng dai...
Đi vắng từ xa trở lại nhà
Bộ đồ cũ mặc, ấm trà pha
Tựa lưng vào vách tường thân thuộc
Trong cõi riêng buồn thấy lại ta.
(Bộ Đồ Cũ Mặc)
Bài thơ hay ở chỗ buồn lắng của nội
tâm. Sau những chuyến đi, sau những dặm dài của quãng đời, sau những công trình
văn học, sau những vinh quang, có lẽ ông buồn vì cảm nghiệm trùng hợp ý tưởng
của một nhà văn nào đó: "Đời người rốt cuộc đều là những đam mê vô ích".
Ta không nghĩ như vậy. Bài thơ còn hay ở khí vị Đông Phương: "Bộ đồ cũ
mặc, ấm trà pha". Tác giả tìm được một chút nhàn bên cạnh dòng trôi
chảy của đời sống huyên náo, sát với quan niệm nhàn không cần phải tìm ở đâu
xa: "Nguyệt lai môn hạ nhàn". (Ngắm trăng đến ngoài cửa, ấy là
nhàn).
Đường gươm múa lượn tượng trưng cho
thơ của nghệ thuật trau chuốt, giống kiếm pháp của người Tây Phương ta có dịp
thấy qua trên màn ảnh, như trong phim “Scaramouche” (Phim sản xuất năm
1952). Còn đường gươm xóa bỏ đường gươm, chỉ còn là những đường bay của tinh
lực; tượng trưng cho quan điểm thi ca rất gần với Đạo Học, giống như "Tịch
tà kiếm pháp" hoặc "Hấp tinh đại pháp" rất huyền bí mà ta dó dịp
đọc qua trong các “truyện võ hiệp Kim Dung”. Cuối cùng là đường gươm
nhanh gọn tưởng như giản dị đơn sơ, tượng trưng cho nghệ thuật qua đó thơ làm
lộ ra thi-tính trong cái thật của cuộc sống thường nhật. Đó là đường gươm không
xóa bỏ phương tiện đao kiếm, còn chập chờn hình dạng ở cách thủ thế, nhưng một
khi vung tay thì nhanh gọn nên ta có cảm tưởng rất đơn sơ, không còn dấu vết
của kỹ thuật tập luyện. Thơ giản dị mà thật ra tuyệt kỹ, giống kiếm pháp của
các võ sĩ đạo Nhật Bản. Như ta từng thấy trong phim “The seven Samurai” (Phim
sản xuất năm 1954), con mắt võ sĩ samurai lườm lườm tìm sơ hở của tên cướp đang
thủ kiếm, và chỉ một loáng gươm thì đối thủ gục ngã./.
(Trích Tạp chí Hợp Lưu, số 16 về Văn nghiệp nhà văn Mai
Thảo, tháng 4+5 năm-1994, Nam California)
TRẦN VĂN NAM
No comments:
Post a Comment